Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Đánh giá của hộ về tình hình thực thi các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.32 KB, 104 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘ VỀ TÌNH HÌNH THỰC THI CHÍNH SÁCH
HỖ TRỢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI XÃ TU LÝ,
HUYỆN ĐÀ BẮC, TỈNH HÒA BÌNH
Tên sinh viên : ĐỖ THỊ NGỌC LINH
Chuyên ngành đào tạo : PTNT
Lớp : K56 PTNTB
Niên khóa : 2011 – 2015
Giảng viên hướng dẫn : ThS. PHẠM THỊ THANH THÚY

HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Đỗ Thị Ngọc Linh. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, các nội dung và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tôi xin cam đoan rằng các số liệu và những mục trích dẫn trong khóa
luận đã đã ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả
Đỗ Thị Ngọc Linh
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này, tôi
đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong
trường Học viện Nông nghiệp Việt Nam nói chung và các thầy cô trong khoa
Kinh tế và Phát triển nông thôn nói riêng. Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ:
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. Phạm Thị Thanh


Thúy, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Bộ môn Kinh tế
nông nghiệp và Chính sách – Khoa Kinh tế và phát triển nông thôn – Trường
Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý
báu trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến UBND xã Tu Lý, các cán bộ xã và người
dân địa phương đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình điều
tra và thu thập số liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Và cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã
luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả
Đỗ Thị Ngọc Linh
ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Ngày nay quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đang diễn ra
một cách nhanh chóng nhưng nông nghiệp vẫn là một lĩnh vực quan trọng
không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước. Vì vậy,
chiến lược phát triển nước ta đã đặt trọng tâm vào nông nghiệp, đưa nông dân
vào vị trí trung tâm để tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình là xã nghèo với nông nghiệp
là ngành kinh tế chủ đạo, đây cũng là một trong những xã trọng điểm thực
hiện nhiều chương trình, chính sách giảm nghèo, phát triển kinh tế của Nhà
nước và của tỉnh. Mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ được thực thi nhưng hiệu
quả mà nó đem lại chưa cao, đời sống của người dân nơi đây vẫn rất thấp.
Xuất phát từ những lý do trên tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá của
hộ về tình hình thực thi các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp trên

địa bàn xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình”.
Đề tài nghiên cứu nhằm thực hiện các mục tiêu: (1) Góp phần hệ thống
hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về tình hình thực thi các chính sách hỗ trợ sản
xuất nông nghiệp; (2) Tìm hiểu thực trạng tình hình thực thi, các yếu tố ảnh
hưởng đến tình hình thực thi và đánh giá của hộ về tình hình thực thi các
chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho hộ nông dân tại xã Tu Lý, huyện
Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình; (3) Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho các hộ nông daan trên địa
bàn xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu tôi đã tiến hành thu thập số liệu
thông qua các loại sách báo, các luận văn, website liên quan đến đề tài, từ các
báo cáo của xã Chúng tôi cũng đã thảo luận với cán bộ thực thi chính sách
và phỏng vấn trực tiếp 125 hộ dân trong xã theo 3 nhóm (nhóm I: 50 hộ
nghèo; nhóm II: 50 hộ cận nghèo và thoát nghèo; nhóm III: 25 hộ khá) với bộ
câu hỏi đã thiết kế sẵn. Sau khi thu thập đầy đủ thông tin, tôi đã tiến hành xử
iii
lý số liệu bằng phần mềm Excel, SPSS với các phương pháp thống kê mô tả,
thống kê so sánh và phương pháp PRA.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1) Các chính sách hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn xã đều đã được cụ thể hóa và được tổ chức thực hiện từ
trung ương đến địa phương. Công tác lập kế hoạch thực hiện cũng đã có sự
tham gia của các cấp, các ngành và cộng đồng; tuy nhiên các kế hoạch đưa ra
vẫn chưa cụ thể. Sự phân công, phối hợp thực hiện cũng đã được quy định rõ
trong các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của tỉnh nhưng ở cấp xã tính chuyên
môn hóa công việc chưa cao, một cán bộ thực thi đảm nhận nhiều nội dung,
chính sách cùng một lúc do đó hiệu quả công việc không cao. Mặc dù hoạt
động tuyên truyền, phổ biến chính sách cũng đã được thực thi dưới nhiều hình
thức nhưng chất lượng tuyên truyền chủ yếu qua truyền thanh lại có chất
lượng chưa tốt. Xã cũng đã tiến hành kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thực
thi chính sách nhưng công tác này chưa được chú trọng và chưa có sự tham

gia của người dân địa phương. (2) Tình hình tiếp nhận các chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân rất cao, hầu hết các hộ nông dân
đều đã được tiếp nhận ít nhất 1 loại hỗ trợ. Hỗ trợ tín dụng và hỗ trợ giống
cây trồng là 2 loại hỗ trợ mà người dân được tiếp nhận nhiều nhất. Đánh giá
về sự phù hợp của các chính sách này, đa số các hộ đều đánh giá phù hợp với
điều kiện gia đình và thấy khá hài lòng với các chính sách đó. Tính hiệu quả
của các hỗ trợ đến SXNN của gia đình được người dân đánh giá không cao.
Đặc biệt là tập huấn khuyến nông, hiệu quả rất thấp do người dân đánh giá nội
dung tập huấn khó áp dụng vào sản xuất thực tế. Từ những chính sách được
tiếp nhận, kết quả chính sách đem lại, đánh giá về các chính sách đó các hộ đã
đưa ra một số kiến nghị, đề xuất về chính sách hỗ trợ giống và các lớp tập
huấn khuyến nông trên địa bàn xã. Kết quả các chính sách đem lại cho hộ
được phản ánh qua thu nhập của hộ sau khi nhận được hỗ trợ so với trước khi
nhận được hỗ trợ. Nhìn chung, thu nhập của hộ chưa thực sự được cải thiện rõ
iv
rệt, chưa có sự thay đổi lớn, kết quả đem lại chưa cao; (3) Các yếu tố tuyên
truyền, phổ biến chính sách, năng lực cán bộ thực thi chính sách, kinh phí, đối
tượng thụ hưởng chính sách là các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình thực thi
chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp; (4) Để nâng cao hiệu quả thực thi
chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp tại xã Tu Lý tôi đã đề xuất một số giải
pháp như hoàn thiện công tác lập kế hoạch và phân công phối hợp thực hiện,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền qua hệ thống phát thanh ở xã, nâng cao năng
lực cán bộ thực thi ở xã, huy động thêm nguồn kinh phí từ cộng đồng để thực
thi chính sách, nâng cao kiến thức cho người dân về lĩnh vực nông nghiệp,
tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá có sự tham gia của người dân.
v
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Tóm tắt

Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục hình
Danh mục sơ đồ
Danh mục hộp
Danh mục viết tắt
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 : Tình hình sử dụng đất đai của xã Tu Lý giai đoạn 2012 – 2014 28
Bảng 3.2: Tổng giá trị sản xuất và cơ cấu các ngành kinh tế xã Tu Lý giai đoạn
2012-2014 34
Bảng 3.3 : Tình hình dân số và lao động của xã giai đoạn 2012 – 2014 36
Bảng 3.4 Tình hình cơ sở hạ tầng của xã năm 2014 37
Bảng 4.1: Các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho hộ nông dân đang
được triển khai trên địa bàn xã 44
Bảng 4.2: Các hình thức tuyên truyền chính sách ở xã 55
Bảng 4.3 Tỷ lệ hộ biết đến công tác giám sát, đánh giá thực hiện chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp ở xã 58
Bảng 4.4: Thông tin cơ bản của các hộ được phỏng vấn 60
Bảng 4.5: Kết quả tiếp nhận hỗ trợ về lâm nghiệp của các hộ nông dân 61
Bảng 4.6: Kết quả tiếp nhận hỗ trợ về trồng trọt của các hộ nông dân 62
Bảng 4.7: Kết quả tiếp nhận hỗ trợ về chăn nuôi của các hộ nông dân 64
Bảng 4.8: Kết quả tiếp nhận các hỗ trợ khác của các hộ nông dân 64
Bảng 4.9: Đánh giá của hộ về sự phù hợp của các hỗ trợ về lâm nghiệp 65
Bảng 4.10: Đánh giá của hộ về sự phù hợp của các hỗ trợ về trồng trọt 66
Bảng 4.11: Đánh giá của hộ về sự phù hợp của các hỗ trợ khác 66
Bảng 4.13 : Sự thay đổi thu nhập của các hộ nông dân sau khi nhận hỗ trợ so với
trước khi nhận hỗ trợ 71
Bảng 4.14: Kết quả đánh giá của hộ về bình xét đối tượng thụ hưởng 74
vii

DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1: Cơ cấu kinh tế xã Tu Lý giai đoạn 2011 – 2014 33
Sơ đồ 4.1: Sơ đồ các đơn vị tham gia triển khai, tổ chức, thực hiện chính sách
hỗ trợ sản xuất nông nghiệp 55
viii
DANH MỤC HỘP
Hộp 4.1: Đánh giá của người dân về sự phù hợp của hỗ trợ nhận khoán và
chăm sóc rừng 65
Hộp 4.2: Đánh giá của người dân về sự phù hợp của hỗ trợ giống cây 66
Hộp 4.3: Đánh giá của người dân về sự phù hợp của tập huấn khuyến nông
67
Hộp 4.4: Đánh giá của người dân về sự phù hợp của hỗ trợ tín dụng 67
Hộp 4.5: Kiến nghị của người dân về các chính sách hỗ trợ 69
Hộp 4.6: Ý kiến của người dân về cách thức bình xét hộ nghèo 74
ix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BQ Bình quân
CC Cơ cấu
CN – TTCN Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp
CSXH Chính sách xã hội
ĐBKK Đặc biệt khó khăn
ĐVT Đơn vị tính
GTSX Giá trị sản xuất
KHKT Khoa học Kỹ thuật
KTXH Kinh tế xã hội
LĐ Lao động
NN Nông nghiệp
NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
SL Số lượng
TM – DV Thương mại – Dịch vụ

Trđ Triệu đồng
UBND Ủy ban nhân dân
XĐGN Xóa đói giảm nghèo
x
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế đang diễn ra
một cách nhanh chóng, theo đó cơ cấu kinh tế chuyển dịch tiến bộ, tỷ trọng
giá trị sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ tăng nhanh. Tuy nhiên,
vẫn phải khẳng định rằng nông nghiệp là một lĩnh vực quan trọng không thể
thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước. Nông nghiệp là ngành
sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp nhiều loại sản phẩm thiết yếu
cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn của nền kinh tế và tạo nên tích lũy
ban đầu cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Việt Nam là nước đang phát triển và nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế
chiếm chủ đạo, đặc biệt là ở các huyện nghèo, xã nghèo. Ở Việt Nam khoảng
hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn, lực lượng lao động làm nông
nghiệp là rất lớn và hơn 60% dân cư nông thôn sống bằng nghề nông nghiệp.
Do sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về kinh tế và trình
độ phân công lao động xã hội kém dẫn tới năng suất lao động kém, mức tăng
trưởng xã hội thấp và tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn vẫn còn ở mức cao. Chính
vì vậy Thông điệp đầu năm 2014 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đặt trọng
tâm vào nông nghiệp, đưa người nông dân vào vị trí trung tâm và có vai trò
chủ thể để thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình là một huyện nghèo vùng núi phía Tây
Bắc, chủ yếu là dân tộc thiểu số sinh sống và tỷ lệ hộ đói nghèo cao so với các
địa phương khác trong tỉnh (năm 2014, tỉ lệ hộ nghèo của huyện là 33,96%).
Kinh tế huyện kém phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, lạc hậu, dân trí của
người dân rất thấp, đời sống vật chất cũng như tinh thần của họ chưa cao. Xã

1
Tu Lý là xã vùng thấp của huyện vùng cao Đà Bắc, là xã thuộc khu vực II các
xã đặc biệt khó khăn. Kinh tế địa phương chủ yếu là nông nghiệp, lâm nghiệp
và một phần nhỏ dịch vụ. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng chính, chiếm 60%
(năm 2013) tổng giá trị sản xuất của xã. Xã Tu Lý là xã trọng điểm để thực
hiện nhiều chương trình, chính sách phát triển kinh tế, chính sách giảm nghèo
của Nhà nước cũng như của tỉnh, huyện. Nhờ đó kinh tế xã những năm gần
đây đã và đang có bước chuyển mình mới, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân từng bước được nâng lên, diện mạo nông thôn đã có nhiều thay đổi.
Tuy nhiên kinh tế xã Tu Lý, đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa phát triển
tương xứng với tiềm năng sẵn có của địa phương, tốc độ tăng trưởng của
ngành nông nghiệp vẫn chậm, quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh
mún, chưa gắn được sản xuất với chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu Trong
nông nghiệp, hộ nông dân nhận được rất nhiều hỗ trợ để phát triển sản xuất từ
các chương trình, dự án như: hỗ trợ vay vốn tín dụng, hỗ trợ nhận khoán và
chăm sóc rừng, hỗ trợ đất nông nghiệp, giống cây trồng, phân bón, tập huấn
khuyến nông. Mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ được thực thi, tuy nhiên một
số chính sách không thực sự hiệu quả đến tình hình sản xuất của hộ, đặc biệt
là tập huấn khuyến nông, người dân tham gia tập huấn nhưng không áp dụng
kiến thức được tập huấn vào sản xuất thực tế. Đời sống của người dân nơi đây
vẫn rất thấp, chưa được cải thiện nhiều. Câu hỏi đặt ra là: Những chính sách
hỗ trợ người dân sản xuất nông nghiệp đang được thực hiện trên địa bàn xã có
phù hợp không? Tình hình thực thi các chính sách hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp ở xã ra sao? Hiệu quả của các chính sách đó đối với hộ nông dân trong
xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình như thế nào? Để trả lời những câu
hỏi trên, tôi quyết định chọn và nghiên cứu đề tài: “Đánh giá của hộ về tình
hình thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp tại xã Tu Lý, huyện
Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình”
2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá tình hình thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho
hộ nông dân tại xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình và khuyến nghị một
số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp cho hộ nông dân.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
•Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về tình hình thực thi
chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
•Tìm hiểu thực trạng tình hình thực thi, các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình
thực thi và đánh giá của hộ về tình hình thực thi các chính sách hỗ trợ sản xuất
nông nghiệp cho hộ nông dân tại xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình
•Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách hỗ
trợ sản xuất nông nghiệp cho các hộ nông trên địa bàn xã Tu Lý, huyện Đà
Bắc, tỉnh Hòa Bình
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình thực thi chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp cho các hộ tại xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung:
Các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho hộ nông dân được
thực thi trên địa bàn xã Tu Lý, huyện Đà Bắc
Phạm vi không gian:
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình
Phạm vi thời gian:
Phạm vi thời gian: số liệu thứ cấp thu thập trong 3 năm từ năm 2012 – 2014
Thời gian thực hiện đề tài: thời gian nghiên cứu từ tháng 1 năm 2015
đến tháng 5 năm 2015
3
PHẦN II

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
a. Khái niệm chính sách, chính sách nông nghiệp
Chính sách là những quyết định, qui định của nhà nước (tức là các cấp
chính quyền từ Trung ương đến địa phương) được cụ thể hóa thành các
chương trình, dự án cùng các nguồn nhân lực, vật lực, các thể thức, qui trình
hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào đối tượng có liên quan, thay đổi
trạng thái của đối tượng theo hướng mà Nhà nước mong muốn (Phạm Xuân
Nam, Peter boothroyd, 2003).
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó
của nền kinh tế xã hội do chính phủ thực hiện. Nó bao gồm mục tiêu mà chính phủ
muốn đạt được và cách làm để đạt được mục tiêu đó ( Đỗ Kim Chung, 2006).
Chính sách là tập hợp các quyết sách của Chính phủ được thể hiện ở hệ
thống quy định trong văn bản pháp quy nhằm từng bước tháo gỡ những khó
khăn trong thực tiễn, điều kiện kinh tế hướng tới những mục tiêu nhất định,
đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế ( Phạm Vân Đình, 2008).
Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: “Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào
đó của chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và
cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát
triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường.
Chính sách nông nghiệp là tập hợp các chủ trương và hành động của
Chính phủ nhằm thay đổi môi trường cho nông nghiệp phát triển bằng cách:
Tác động vào giá đầu vào hay đầu ra. Thay đổi về tổ chức và khuyến khích
công nghệ mới trong nông nghiệp ( Đỗ Kim Chung, 2006).
4
Chính sách nông nghiệp là tổng thể các biện pháp kinh tế hoặc phi kinh
tế thể hiện sự tác động, can thiệp của Chính phủ vào lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp theo những mục tiêu xác định, trong một thời hạn nhất định ( Phạm
Vân Đình, 2008).
b. Khái niệm chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
Hỗ trợ sản xuất nông nghiệp là quá trình sử dụng cơ chế chính sách,
nguồn lực của chính phủ của các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước
để hỗ trợ cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp thông qua việc thực hiện các cơ
chế chính sách, các giải pháp đầu tư công để tăng cường năng lực vật chất và
nhân lực tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nông nghiệp, hộ sản xuất nông
nghiệp, dân cư nông thôn và những người hưởng lợi có liên quan có cơ hội
tăng năng lực, hiệu quả sản xuất. Hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp nhằm đảm
bảo đời sống, an ninh lương thực, ổn định xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu
(Nguyễn Hải Hoàng, 2011).
c. Thực thi chính sách
 Khái niệm
Thực thi chính sách là quá trình biến các chính sách thành những kết
quả trên thực tế thông qua các hành động có tổ chức trong bộ máy nhà nước
nhằm thực hiện hóa những mục tiêu mà chính sách đề ra.
Thực thi chính sách là việc triển khai chính sách, bao gồm việc cụ thể hóa
một chính sách hay chương trình thành kế hoạch và các hành động cụ thể của
từng cấp và từng ngành trong phát triển kinh tế. (Nguyễn Hải Hoàng, 2011)
 Các bước tổ chức thực thi chính sách nói chung và chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp nói riêng bao gồm:
• Cụ thể hóa chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
Một chính sách hay chương trình hỗ trợ sản xuất nông nghiệp thường
được xây dựng mang tính định hướng và khái quát cao. Vì vậy, khi đưa vào
thực hiện, các chính sách hay chương trình đó cần được hoàn thiện, bổ sung
và cụ thể hóa cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương.
5
• Tổ chức cơ quan điều hành thực thi chính sách:
Chức năng của các cơ quan điều hành và thực hiện chính sách thường

được quy định đầy đủ trong các chính sách của chính phủ. Tuy nhiên, ở cấp
huyện, cơ quan điều hành phải được tổ chức đủ mạnh đảm bảo phát huy được
sức mạnh của hệ thống chính trị trên địa bàn huyện, nâng cao tính hiệu lực và
hiệu quả của cơ quan quản lý chương trình, đảm bảo tiết kiệm, phân định rõ
ràng trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đơn vị tham gia vào từng hoạt
động hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp.
• Lập kế hoạch triển khai thực thi chính sách
Các chính sách hỗ trợ cần được cụ thể hóa thành các kế hoạch của các
cấp và các ngành. Kế hoạch càng cụ thể tính khả thi càng cao. Kế hoạch cần
xây dựng theo xu hướng có sự tham gia của các cấp, các ngành và cộng đồng.
cân đối giữa khả năng về nguồn lực và nhu cầu cần hỗ trợ phát triển sản xuất
nông nghiệp, đảm bảo hài hòa giữa sự hỗ trợ của nhà nước với phát huy sự
đóng góp của người dân.
• Phân cấp và phê duyệt kế hoạch thực thi chính sách
Đây là nội dung cơ bản khi triển khai chính sách. Phần lớn nguồn lực
cho hỗ trợ sản xuất nông nghiệp bắt nguồn từ tài chính công bao gồm ngân
sách đầu tư và ngân sách chi thường xuyên. Do đó, để triển khai được các
hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất phải lập dự án, hồ sơ đầu tư theo các
nguồn ngân sách khác nhau. Trên cơ sở đó, phải có cấp thẩm quyền thẩm định
và phê duyệt các hạng mục đầu tư.
• Công tác tuyên truyền chính sách
Công tác tuyên truyền chính sách là hoạt động có mục đích, có kế
hoạch nhằm phổ biến, giải thích về chính sách, làm cho người dân hiểu rõ nội
dung của chính sách. Công tác tuyên truyền có vị trí rất quan trọng. Muốn đạt
được sự nhất trí, đồng thuận cao trong nhận thức và hành động, thực hiện
6
được các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đã đề ra thì phải có sự hiểu rõ và
ủng hộ của người dân.
Phổ biến thông tin tuyên truyền chính sách có thể đươc thực hiện bằng
cách tổ chức hội nghị, hội thảo, các cuộc họp….

• Tổ chức nguồn lực thực thi chính sách
- Huy động tài chính cho thực hiện chính sách
Để có nguồn lực tài chính phục vụ việc thực thi chính sách cần phải
phát huy cao độ các nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, sự tài trợ của các
tổ chức phát triển và sự đóng góp của người dân. Trong điều kiện dân còn
nghèo sự đóng góp có thể không phải bằng tiền thì có thể bằng sức lực và
hiện vật thông qua khai thác và sử dụng các tài nguyên sãn có tại địa phương.
- Huy động nhân lực cho thực hiện chính sách
Đội ngũ nhân lực cho thực thi chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất
nông nghiệp bao gồm các cán bộ lãnh đạo và chuyên môn của các ngành cấp
tỉnh và huyện, cấp xã và thôn thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về hỗ
trợ phát triển sản xuất nông nghiệp. Đội ngũ cán bộ này cần có các kiến thức
và kỹ năng thẩm định các dự án/báo cáo đồng thời phải cập nhật thường
xuyên các quy trình hướng dẫn triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển sản
xuất nông nghiệp của Chính phủ.
• Kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thực thi chính sách
Công tác kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thực thi chính sách và nội
dung quan trọng đảm bảo cho sự thành công của chính sách. Công tác này bao
gồm việc xác lập hệ thống theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá chính sách.
d. Hộ nông dân
 Khái niệm hộ
Theo Liên Hợp Quốc: Hộ là những người cùng chung sống dưới một
mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ.
Theo từ điển chuyên ngành kinh tế và từ điển ngôn ngữ học: Hộ là tất
cả những người cùng sống chung trong một mái nhà và nhóm người đó bao
7
gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công, người
cùng ăn chung.
Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood
(1981, 1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một

nhóm người có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn
cảnh. Hộ là một đơn vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”.
Giáo sư Mc Gê (1989) – Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho
rằng: Hộ là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung
huyết tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.
Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống
các nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối
quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.
 Khái niệm hộ nông dân
Về hộ nông dân, tác giả Frank Ellis định nghĩa: Hộ nông dân là các hộ gia
đình làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử
dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống
kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị
trường và có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao.
Nhà khoa học Traianốp cho rằng “Hộ nông dân là đơn vị sản xuất rất
ổn định” và ông coi “hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng và phát
triển nông nghiệp”. Luận điểm trên của ông đã được áp dụng rộng rãi trong
chính sách nông nghiệp tại nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển.
Ở nước ta có nhiều tác giả đề cập đến hộ nông dân. Theo nhà khoa học
Lê Đình Thắng(năm 1993) cho rằng: “Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là
hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”. Đào Thế
Tuấn(1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động theo
nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở
nông thôn”. Còn theo nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc, trong phân tích điều
8
tra nông thôn năm 2001 cho rằng: “Hộ nông nghiệp là những hộ có toàn bộ
hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt
động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm đất, thủy nông, bảo vệ
thực vật…) và thông thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp”.
 Hộ nghèo

Theo Trần Chí Thiện (2006), hộ nghèo là những hộ gia đình có hoàn
cảnh sống khó khăn và thiếu thốn về điều kiện vật chất. Họ không được thỏa
mãn những nhu cầu tối thiếu của con người để duy trì cuộc sống như cơm ăn
chưa no, áo không đủ mặc, nhà cửa không che được mưa nắng.
Hộ nghèo là các hộ có thu nhập bình quân dưới ngưỡng nghèo đói theo
quy định của Chính phủ hay của địa phương. Đây là đơn vị cơ bản để tính
mức độ đói nghèo trong cộng đòng dân cư. Việc hỗ trợ thông qua hộ có nhiều
ưu điểm: một là, hộ là đơn vị cơ bản cuối cùng của cộng đồng. Hai là, hộ là tế
bào kinh tế gắn kết thành viên trong gia đình để thực hiện các hoạt động sản
xuất và tái sản xuất kinh doanh. Ba là, đơn vị hộ tiện lợi cho việc quản lý
hành chính khi tiến hành các biện pháp hỗ trợ.
Chuẩn nghèo là một tiêu chuẩn để đo mức độ nghèo của các hộ dân, là
căn cứ cho các hỗ trợ về chính sách cho hộ đó. Chuẩn nghèo ở mỗi quốc gia
là khác nhau.Ở Việt Nam nghèo đói được phân theo chuẩn quốc gia, nghĩa là
dựa vào thu nhập bình quân khẩu/tháng.
Theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban
hành năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai doạn 2006 –
2010:
• Khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ
200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo
• Khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo
9
Theo quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ban hành
năm 2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo cho giai đoạn 2010 – 2015 là:
•Hộ nghèo ở nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (dưới 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống
•Hộ nghèo ở thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (dưới 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống

•Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
• Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất
nông nghiệp cho hộ nông dân
2.1.2.1 Công tác tuyên truyền và triển khai các chính sách hỗ trợ sản xuất
nông nghiệp
Đây là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình
thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất. Công tác phổ biến tuyên truyền chính sách
có tốt thì quá trình thực hiện chính sách mới đạt được kết quả cao. Nếu thiếu
năng lực tuyên truyền, vận động sẽ làm cho chính sách bị biến dạng, làm cho
lòng tin của dân chúng vào nhà nước bị sụt giảm. Vì vậy công tác phổ biến và
tuyên truyền chính sách cần được thực hiện một cách đúng đắn, thường xuyên
và liên tục. Có nhiều hình thức phổ biến và tuyên truyền chính sách như trực
tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng tiếp nhận chính sách hoặc gián tiếp
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ( báo chí, truyền thông…) qua
đó giúp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách góp phần nâng cao
đời sống của cư dân nông thôn.Chính vì vậy mà công tác phổ biến tuyên
truyền là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quá trình
thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.
2.1.2.2 Nguồn kinh phí thực hiện chính sách
Việc thực hiện bất kỳ một chính sách nào cũng đòi hỏi phải có một
nguồn kinh phí nhất định. Nguồn kinh phí để thực hiện một chính sách của
10
nhà nước thường do ngân sách nhà nước cấp, do các tổ chức nhà nước và tư
nhân đóng góp, do huy động trong dân hoặc do nước ngoài tài trợ. Quá trình
thực thi chính sách sẽ bị ảnh hưởng bởi nguồn huy động kinh phí, số lượng
kinh phí, tính kịp thời và cơ cấu phân bổ nguồn vốn cho các mục tiêu cụ thể.
Chỉ khi kinh phí được huy động số lượng đầy đủ, từ những nguồn thật vững

chắc thì chính sách hỗ trợ mới có thể được thực hiện. Không những thế, kinh
phí còn phải được rót đều đặn và phân bổ hợp lý, có như thế mới đảm bảo
được tiến độ và thời gian thực hiện chính sách, đảm bảo được hiệu quả đầu tư
hỗ trợ, tránh được sự dàn trải gây lãng phí, thất thoát.
2.1.2.3 Năng lực thực thi chính sách của cán bộ địa phương
Các cán bộ địa phương là những người trực tiếp thực hiện, cụ thể hóa
các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Chính vì vậy, năng lực của cán bộ
địa phương là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của các chương trình.
Sự linh hoạt, chủ động, tích cực của các cán bộ địa phương là nhân tố đảm
bảo cho các chương trình tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả tối ưu, đảm bảo
cho các đối tượng được hỗ trợ đúng, đầy đủ.
Ngược lại, sự yếu kém trong năng lực của cán bộ địa phương sẽ trở
thành rào cản lớn cho đường đi của các chương trình, làm giảm hiệu quả của
chính sách, không đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của người dân.
Việc thực thi chính sách cũng phụ thuộc vào sự phân công rõ ràng về nhiệm
vụ, chắc năng, quyền hạn, lợi ích của các bên tham gia thực thi chính sách.
2.1.2.4 Khả năng, sự tham gia, ủng hộ của hộ nông dân
Mức độ tham gia của người hưởng lợi ở địa phương càng cao thì hiệu
quả của chính sách cang rõ rệt. Khi người nghèo, cộng đồng người nghèo
được trao quyền sẽ làm cho nguồn lực hướng vào đáp ứng những nhu cầu bức
thiết của cộng đồng, của chính họ.
Hộ nông dân là người trực tiếp tham gia hiện thực hóa chính sách và
trực tiếp thụ hưởng những lợi ích mang lại từ chính sách. Việc đưa chính sách
vào thực tiễn có hiệu quả hay không là do các hộ sản xuất có hiểu, chấp
nhận và thực hiện đúng theo chủ trương chính sách hay không? Cần phải
11
làm cho họ hiểu rằng việc thực hiện chính sách là đem lại lợi ích cho họ chứ
không phải làm cho chương trình, dự án. Bên cạnh đó, trình độ, kỹ năng sản
xuất, tình trạng kinh tế của người sản xuất cũng là yếu tố quan trọng tạo nên
thành công của việc thực hiện chính sách. Nếu các hộ sản xuất nông nghiệp

có kinh nghiệm, trình độ sản xuất tốt thì đó chính là nền tảng giúp họ nắm
bắt tiếp nhận kỹ thuật mới từ chương trình, dự án khuyến khích hỗ trợ phát
triển nông nghiệp thuận lợi và việc thụ hưởng chính sách dễ dàng hơn. Vì
vậy, hiệu quả của chính sách còn phụ thuộc vào khả năng, trình độ, tính tự
giác, tính sáng tạo, lòng quyết tâm, sự nỗ lực vươn lên, không trông chờ, ỷ lại
của người dân.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm thực thi chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông
nghiệp của một số nước trên thế giới
 Mỹ
Nước Mỹ được xem là cường quốc công nghiệp số một, đồng thời cũng
là nước có nền nông nghiệp phát triển bậc nhất toàn cầu. Năm 1862 khi thành
lập phương châm đầu tiên mà Bộ nông nghiệp Mỹ đưa ra là: “Nông nghiệp là
cơ sở của ngành chế tạo và thương nghiệp”. Qua hơn 200 năm phát triển tới
nay, nước Mỹ luôn thực hiện phương châm: “Dĩ nông lập quốc”, luôn coi
nông nghiệp là cột trụ của nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, ngoài nhân tố khách
quan trời phú cho nước Mỹ điều kiện thiên nhiên thuận lợi để phá triển nông
nghiệp thì chính sách của nhà nước đã góp phần quan trọng làm nông nghiệp
phát triển mạnh mẽ vào bậc nhất thế giới hiện nay.
Số liệu thông kê mới đây của Cơ quan quyền uy Mỹ cho biết: hiện nay
nông dân Mỹ khoảng 4,5 triệu người (chiếm chưa đầy 2% dân số), ngoài việc
cung cấp đầy đủ lương thực thực phẩm cho hơn 250 triệu dân, nông dân Mỹ
hàng năm còn xuất khẩu hàng lương thực thực phẩm như bột mì, bông, rau
quả trị giá tới trên 53 tỉ USD, bình quân mỗi giờ nông dân Mỹ đã tạo ra giá trị
tới 6 triệu USD hàng xuất khẩu nông sản, thực phẩm. Sản lượng của 1/3 đất
12
đai canh tác ở Mỹ có liên hệ với thi trường xuất khẩu thế giới, 17% nông sản
sản phẩm dùng cho xuất khẩu, thu nhập từ xuất khẩu chiểm 25% tổng thu
nhập của toàn nhành nông nghiệp.
Số liệu của Bộ nông nghiệp Mỹ cho biết hiện nay Mỹ có 2,2 triệu nông

trường, tang trại lớn nhỏ với bình quân diện tích là 41.800 m
2
. Ngoài ra còn
các hộ gia đình nông dân riêng lẻ, nhưng diện tích canh tác cũng rất lớn.
Thậm chí một gia đình chỉ có 6 người nhưng canh tác tới trên 1.000 ha. Sở dĩ
nông dân Mỹ có thể canh tác với diện tích lớn như vậy là do tất cả các khâu
đều được tự động hóa, cơ giới hóa, lên mạng số hóa và vệ tinh hóa. Các khâu
như gieo trồng, bón phân, trừ sâu đều dùng máy bay tiến hành. Việc tưới
nước, chăm sóc và thu hoạch đều được vệ tinh thông báo, hướng dẫn và chỉ
đạo. Việc thiêu thụ sản phẩm hầu hết thông qua mạng Internet để đưa hàng
hóa tới thị trường có nhu cầu.
Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp được sự hỗ trợ đắc lực của Nhà nước để
đảm bảo “đầu vào lớn, đầu ra nhiều”. Chính sách hỗ trợ và nâng đỡ sản xuất
nông nghiệp của chính phủ Mỹ thể hiện trên những mặt sau:
Một là, nhà nước cấp khoản hỗ trợ tài chính và tiền vốn to lớn cho sản
xuất nông nghiệp. Số liệu thống kê của Mỹ cho thấy sự hỗ trợ vào lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp của Nhà nước còn cao hơn vào lĩnh vực chế tạo của
công nghiệp. Theo luật định, trong vòng 10 năm kể từ năm 2002 đến nay nhà
nước hỗ trợ 190 tỉ USD cho sản xuất nông nghiệp, bình quân mỗi năm là 19 tỉ
USD. Năm 2004, tổng các dịch vụ và hạng mục đầu tư cho nông nghiệp tới
74 tỉ USD, tăng 1,4 tỉ USD so với năm 2003, kinh phí cho bảo vệ môi trường
nông nghiệp cao nhất tới 30 tỉ USD, trong đó nhà nước hỗ trợ 6,2 tỉ USD.
Riêng khâu an toàn lương thực, thực phẩm được nhà nước hỗ trợ tới gần 900
triệu USD. Năm 2004, nhà nước cũng hỗ trợ 196 triệu USD để nâng cấp
mạng số hoá hệ thống Internet cho nông dân nhằm tìm thị trường và có thông
tin nhanh nhạy để cạnh tranh trên trường quốc tế.
13
Hai là, Nhà nước thực hiện chính sách “lấy công bù nông”, tức hỗ trợ
cho các doanh nghiệp công nghiệp có các hạng mục phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, như xây dựng đường sá, cầu cống, điện lực phục vụ phát triển

nông thôn và cải thiện đời sống nông dân. Những doanh nghiệp có các
chương trình phục vụ nông nghiệp như kỹ thuật nông nghiệp, thông tin, mạng
tin chuyên về giá cả thị trường hàng nông sản trong và ngoài nước đều được
nhà nước hỗ trợ.
Ba là, Nhà nước thực hiện ưu đãi thuế cho nông dân, như hàng năm có
25% chủ trang trại được miễn giảm thuế thu nhập, 50% chủ trang trại được
hưởng mức thuế thấp 15%, còn lại 5% chủ trang trại và chủ nông trường lớn
nộp thuế như quy định. Xăng dầu dùng cho sản xuất nông nghiệp đều được
bán với giá ưu đãi. Đây là nhân tố tích cực thúc đẩy và khơi dậy tính tích cực
của nông dân trong sản xuất nông nghiệp.
 Trung Quốc
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc đóng vai trò rất quan
trọng với tiến trình mở cửa, cải cách ở nước này. Tuy nhiên trong những năm
gần đây sự phát triển mạnh mẽ ở khu vực công nghiệp đã đem lại cho Trung
Quốc một nguồn tài lực lớn, nhưng đồng thời cũng đưa đến sự tụt hậu của khu
vực nông thôn về tốc độ và chất lượng tăng trưởng so với khu vực đô thị.
Đồng thời, chính do một thời gian dài không kịp thời quan tâm đến những
thay đổi trong sản xuất nông nghiệp, đời sống nông dân, nên khu vực này có
những biến chuyển không tốt. Đó là, đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp do
các dự án sản xuất công nghiệp, đầu tư cho nông nghiệp không theo kịp yêu
cầu ngày càng tăng của nền kinh tế hiện đại. Trong khi đó nguwoif nông dân
vẫn phải đóng thuế nông nghiệp.
Từ năm 2002, nhằm tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp và khu vực
nông thôn, Trung Quốc đã bắt đầu bỏ 4 loại thuế, trong đó đáng chú ý nhất là
thuế chăn nuôi và thuế nông nghiệp; đồng thời tiến hành trợ cấp 4 loại cho
14

×