Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

phương pháp dạy học vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn ở khối trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.24 KB, 21 trang )

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu và được
sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà giáo dục, nhất là của các thầy giáo, cô giáo.
Nhưng việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học không phải
là việc dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả ngay từ đầu. Trước đây, chúng ta
dạy học vẫn theo phương pháp truyền thống với quan niệm : học là quá trình
tiếp thụ và lĩnh hội qua đó hình thành kiến thức, kỹ năng, tư tưởng tình cảm.
Giáo viên luôn là người truyền thụ toàn bộ những kiến thức, những hiểu biết
của mình về một vấn đề nào đó; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời
giảng của giáo viên. Chính vì vậy mà phương pháp đó dẫn đến chỗ học sinh là
người thụ động và qúa trình nhận thức mang tính chất áp đặt, một chiều. Học
sinh học để đối phó với thi cử và sau khi thi xong những điều đã học thường bị
bỏ quên hoặc ít dùng đến. Hiện nay, phương pháp dạy học truyền thống không
còn thích hợp với mục tiêu giáo dục - đào tạo, hơn thế việc đổi mới chương trình
sách giáo khoa càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy
học. Bởi chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo
được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng
động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên
thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII(1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII(1996),được thể chế hóa trong luật giáo dục (2005). Điều 28.2 trong Luật
giáo dục đã ghi : “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh;phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rền luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011


1
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
sinh “ . Có thể nói cốt lõi của việc đối mới dạy học là hướng tới hoạt động học
tập chủ động; chống lại thói quen học tập thụ động.
Tuy nhiên, đối với mỗi môn học trong nhà trường tùy theo đặc trưng bộ môn
mà vận dụng việc đổi mới phương pháp sao cho thích hợp, linh hoạt để đạt mục
tiêu cần đạt . Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng phương pháp dạy học mới
vẫn còn hạn chế . Giáo viên chỉ say mê khám phá văn bản và khổ công tìm tòi
cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý học sinh học bài đó như thế
nào ? Mục đích của giờ dạy học văn theo quan điểm, phương pháp mới không
phải người giáo viên là người truyền thụ lời giảng của mình một cách chủ quan
mà mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh dưới sự hướng dẫn của
giáo viên chủ động khám phá, tiếp nhận tác phẩm và đồng thời bộc lộ được tình
cảm bản thân.
Trong quá trình giảng dạy văn học, có nhiều phương pháp dạy học tích cực
được áp dụng và mỗi phương pháp đều được thử thách qua thời gian. Chẳng hạn
phương pháp thuyết trình; phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn
đề ; phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ; dạy học theo dự án Kết
quả của mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Một trong
những phương pháp dạy học tích cực đưa lại kết quả cao trong học tập, phát huy
được tính chủ thể của học sinh là phương pháp vấn đáp.
Trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phương
pháp dạy học vấn đáp trong dạy học môn Ngữ văn ở khối trung học phổ
thông. Tôi đã quyết định chọn đề tài này để trước hết là bản thân có điều kiện
khái quát nâng cao chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây
mong được chia sẻ với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất
lượng chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong phạm
vi nhà trường THPT.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.


Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
2
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
- Dựa trên một số lí luận cơ bản về triết học, về tâm lí học, về việc đổi mới
phương pháp dạy học văn để đề ra một số biện pháp trong phương pháp dạy
học vấn đáp .
- Nhằm mục đích nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự
giác chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả
năng diễn đạt một vấn đề, gây hứng thú học tập cho học sinh
III. THỜI GIAN, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
- Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 09 năm 2008 đến tháng 09 năm 2010
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp vấn đáp trong việc dạy học môn Ngữ
Văn.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối : 10, 11, 12
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi đề xuất một số nhiệm vụ của đề
tài:
+ Xác định cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của dạy học vấn đáp (đàm thoại) .
+ Đề xuất một số biện pháp dạy học vấn đáp trong môn Ngữ Văn.
+ Thực hiện một số công việc trong phương pháp vấn đáp.
+ Thiết kế một bài dạy vận dụng phương pháp vấn đáp
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương
pháp chủ yếu:
1. Phương pháp thống kê, nêu ví dụ.
2. Phương pháp thực nghiệm qua giảng dạy, dự giờ, bài kiểm tra, bài thi, số
điểm.


Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
3
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
3. Phương pháp so sánh.
4. Phương pháp phân loại, phân tích.
5. Phương pháp tổng hợp.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I : NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP VẤN
ĐÁP TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN.
1.Cơ sở tâm lí học.
Nhận thức thế giới xung quanh, tìm hiểu những sự vật, hiện tượng xảy ra
xung quanh mình là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Đây là một
trong ba mặt cơ bản của đời sống, của tâm lí con người (Nhận thức - Tình cảm
- Hành động). Nhờ có nhận thức mà chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực
xung quanh mình mà cả hiện thực của bản thân nữa, không chỉ phản ánh cái bên
ngoài, cái hiện tại mà cả cái bên trong, cái sẽ tới và các quy luật phát triển của
hiện thực.
Mục tiêu của nhà trường phổ thông nói chung và mục tiêu của trường
THPT nói riêng là hình thành nhân cách của học sinh, phát triển toàn diện và
trưởng thành về mặt xã hội của học sinh. Trong nhà trường phổ thông, học sinh
được giáo dục bằng nhiều phương pháp, nhiều ngành học trong đó bộ môn
Ngữ văn được coi là một môn học chủ công trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách.
Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lí cá nhân quy định
giá trị xã hội và hành vi của họ. Học sinh là một nhân cách trong chừng mực nào
đó mà các phẩm chất xã hội ở đó được phát triển để nó trở thành chủ thể có ý
thức đối với mọi hoạt động công ích của mình. Như vậy có nghĩa là một trong
những con đường để hình thành và phát triển nhân cách là con đường hoạt động
của chính học sinh. Con đường tác động có mục đích tự giác của xã hội bằng

giáo dục đến học sinh sẽ trở nên vô hiệu hoá nếu như học sinh không tiếp nhận,

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
4
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt
động nhằm phát triển tâm lí, hình thành nhân cách. Chính vì vậy qua giờ học
vấn vận dụng phương pháp vấn đáp, học sinh có dịp bù đắp những tri thức mà
mình chưa được biết, chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ, để tự mình tiếp nhận và hoàn
thiện mình về tư tưởng, đạo đức và hành vi trong học tập và trong cuộc sống.
2.Cơ sở nhận thức .
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người nhưng sự
phản ánh này không phải giản đơn, thụ động mà là quá trình biện chứng dựa trên
hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ đối với khách thể. Nhưng không
phải con người nào cũng đều là chủ thể của nhận thức. Con người trở thành chủ
thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể.
Trong nhà trường học sinh chính là chủ thể của hoạt động nhận thức; còn khách
thể chính là những tri thức kinh nghiệm của nền văn minh nhân loại. Theo cơ sở
triết học: con người tự làm ra mình bằng chính hoạt động của mình nhưng cái
quan trọng là làm ra cái đó như thế nào và bằng cách nào?
Đối với môn Ngữ Văn học sinh đến trường để học tập thực chất là để tiếp
nhận, chiếm lĩnh những giá trị của tác phẩm văn chương. Vì mục đích ấy, học
sinh tự đọc lấy tác phẩm, tự chiếm lĩnh lấy tác phẩm, nắm bắt được cái hồn của
tác phẩm chứ không phải học lấy những điều giáo viên giảng giải, giáo viên cắt
nghĩa như xưa nay người ta vẫn thường làm. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn,
chỉ bảo cho học sinh những hướng tiếp cận tác phẩm sao cho có hiệu quả nhất,
học sinh từ đó mà tự chiếm lĩnh tác phẩm. Đồng thời cùng với sự chiếm lĩnh tác
phẩm ấy, học sinh dưới những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt của giáo viên mà trình
bày những suy nghĩ, cách hiểu của mình về vấn đề đặt ra trong tác phẩm.

Chính vì những vấn đề đó mà rất cần có một giờ học vấn đáp để qua giờ
học ấy học sinh có thể khẳng định họ thật sự là những chủ thể sáng tạo trong quá
trình nhận thức bằng chính hoạt động của mình.

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
5
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
3.Cơ sở văn học.
Nếu hình tượng hội hoạ được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; âm
nhạc được xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu, âm thanh thì hình tượng văn học
được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Do lấy ngôn từ làm chất liệu cho nên
hình tượng văn học chỉ tác động vào trí tuệ, tâm hồn, tình cảm gợi nên sự liên
tưởng và tưởng tượng trong tâm trí người đọc. Nhờ liên tưởng và tưởng tượng
trên những nét tương đồng giữa thế giới âm thanh và hình ảnh, giữa thế giới hữu
hình và thế giới vô hình trở thành hiện hình qua phương tiện ngôn ngữ.
Thực chất của vấn đề phát huy chủ thể học sinh trong giờ Ngữ văn là
khêu gợi, kích thích và nuôi dưỡng, phát triển ở học sinh nhu cầu đồng cảm và
khát vọng nhận thức cái mới qua hình tượng, tính cách nhân vật. Và cũng qua đó
việc học tác phẩm văn học thực sự trở thành một hoạt động cá thể hoá sâu sắc đi
từ nhận thức khách quan hình tượng đến chỗ tự nhận thức; do đó có khát vọng
sống và hành động theo nhân vật lí tưởng.
Chính vì vậy trong giờ học văn rất cần có sự trao đổi giữa giáo viên và
học sinh, giữa học sinh và giào viên để qua giờ học ấy thu được kết quả cao hơn
và cũng qua giờ học ấy học sinh có dịp bộc lộ mình, tự khẳng định mình, đồng
thời giáo viên cũng có cơ hội để nắm được trình độ tiếp nhận của học sinh.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI
Qua quá trình dạy học, kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng
nghiệp , tôi nhân thấy :
- Một số giáo viên chủ yếu vẫn dạy theo phương pháp dạy học truyền thống:

giáo viên sử dụng các phương pháp diễn giảng truyền thụ toàn bộ những kiến
thức một chiều ; còn học sinh là người ghi nhớ, tiếp thu mọi lời giảng của giáo
viên. Giờ học trở nên khô khan, trầm, thậm chí căng thẳng, học sinh tham gia
học bài một cách chiếu lệ. Rõ ràng điều đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả giờ học
không cao.

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
6
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
- Còn một số giáo viên có vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong
giờ học song chưa hiệu quả, còn hình thức . Chẳng hạn vận dụng phương pháp
vấn đáp : giáo viên đặt ra những câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời song chưa tạo
ra được không khí tranh luận sôi nổi giữa học sinh với nhau hay giữa học sinh
với giáo viên.
Một trong những nguyên nhân đẫn tới tình trạng trên là một số giáo viên
nhận thức chưa rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà
trường không đơn thuần là giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản,
đó là quá trình đối thoại giữa học sinh, thầy giáo và tác giả đằng sau văn bản .
Đó là hình thức giao tiếp , đối thoại vượt thời gian , không gian, không phải là
truyền thụ một chiều.Bên cạnh đó một số giáo viên vẫn còn nhiều ngộ nhận về
lí thuyết và lúng túng trong biện pháp thực thi việc cải cách, đổi mới phương
pháp dạy học vấn đáp . Chẳng hạn các phương pháp đổi mới là gì ? Khi đổi mới
phương pháp dạy học thì vai trò của người thầy có bị hạ thấp không ? Câu hỏi
như thế nào là đổi mới?Bao nhiêu câu hỏi là vừa ?
Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ, đặc biệt là chưa xây
dựng được hế thống câu hỏi phù hợp với bài dạy, chưa chú ý tới việc chuẩn bị
bài học của học sinh, chưa phân loại đối tượng học sinh trong từng lớp Giáo
viên chưa ý thức rõ về dạng câu hỏi, mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu
tổ chức dạy học tìm hiểu bài học thiếu tính khoa học, tình trạng giáo viên hỏi

một đằng học sinh trả lời một nẻo hoặc trả lời không đúng trọng tâm yêu cầu.
Chính vì vậy, vần đề vận dụng đổi mới phương pháp dạy và học văn càng
được quan tâm hơn bao giờ hết đặc biệt là phương pháp vấn đáp . Tuy nhiên,
việc đổi mới phương pháp dạy học văn không có nghĩa là gạt bỏ các phương
pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy
học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp các phương pháp hiện đại.
CHƯƠNG III: NỘI DUNG DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI).
I.QUAN NIỆM VỀ DẠY HỌC VẤN ĐÁP (ĐÀM THOẠI).

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
7
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
1. Thế nào là phương pháp vấn đáp?
Phương pháp vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra các câu
hỏi để học sinh trả lời , hoặc tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học
sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Phương pháp vấn đáp, đàm thoại khác với
thuyết trình ở chỗ nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua lời giảng
của người dạy mà được thực hiện bởi hệ thống câu trả lời của người học, dưới
sự gợi mở bởi các câu hỏi của người dạy đề xuất . Các câu hỏi này được tổ chức
thành một hệ thống phù hợp với nội dung bài học, đối tượng học sinh.
2. Mục đích và yêu cầu của phương pháp vấn đáp
Mục đích của phương pháp vấn đáp là nâng cao chất lượng giờ học bằng
cách tăng cường hình thức hỏi đáp, đàm thoại giữa giáo viên và học sinh , rèn
cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể . Muốn
thực hiện điều đó, đòi hỏi giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù
hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn , sát đối tượng, xác định được vai trò chức
năng của từng câu hỏi , mục đích hỏi , các yếu tố kết nối hệ thống câu hỏi. Câu
hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và phải được
chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng, vụn vặt,

thiếu hệ thống,đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt học sinh thâm nhập và cắt
nghĩa văn bản . Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi thích
đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và có
hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Ngoài ra người giáo viên cần dự án các
phương án trả lời của học sinh để có thể thay đổi hình thức , cách thức mức độ
hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi phụ tránh đơn điệu nhàm chán, nặng nề bế
tắc ; tạo hứng thú học tập cho học sinh và tăng hấp dẫn của giờ học .
3. Các nhân vật tham gia trong giờ học vấn đáp.
a. Người giáo viên trong giờ học vấn đáp.

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
8
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài trước khi cải cách giáo dục người
ta đã từng quan niệm học văn là một quá trình thầy đọc, giảng, cảm thụ còn trò
chỉ là những cỗ máy ghi chép.Theo cách dạy học truyền thống, người giáo viên
trong giờ học là người quyết định một cách toàn diện chất lượng dạy học và
được coi là chủ thể của hoạt động dạy. Thế nhưng, trước yêu cầu ngày càng cao
của xã hội và sự bùng nổ về tri thức, thông tin đã đặt người học trước một nhiệm
vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của sự học ngày nay đã thay đổi. Học bao giờ
cũng phải đi đôi với hành “học và hành phải kết hợp chặt chẽ…phải gắn liền
với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội” giáo viên không còn đóng vai trò
đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực
chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái
độ theo yêu cầu của chương trình. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư
công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mời có thể thực
hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài
trong các hoạt động tìm tòi tranh luận của học sinh . Giáo viên phải có trình độ

chuyên môn sâu, rộng, có trình độ sư phạm mới có thể tổ chức hướng dẫn các
hoạt động của học sinh.
Với giờ đọc - hiểu văn bản Ngữ văn, giáo viên là người điều khiển, hướng
dẫn để học sinh tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Người giáo viên
phải chuẩn bị kĩ nội dung bài học như xác định rõ mục tiêu bài học, tiến trình tổ
chức dạy học . Đặc biệt là quá trình tổ chức hướng dẫn dạy - học bài mới. Giáo
viên phải xây đựng được một hệ thống câu hỏi vấn đáp phù hợp với nội dung bài
học.Câu hỏi phải khơi gợi được hứng thú tham gia hoạt động của học sinh và
phải được chuẩn bị một cách chu đáo và thực sự khoa học, không thể tùy hứng,
vụn vặt, thiếu hệ thống,đặc biệt là không có tác dụng dẫn dắt học sinh thâm nhập
và cắt nghĩa văn bản. Câu hỏi không cần nhiều nhưng phải là những câu hỏi
thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống buộc học sinh phải suy nghĩ và

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
9
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
có hứng thú bộc lộ cảm nghĩ của mình. Có thể nói xây dựng được hệ thống câu
hỏi vấn đáp có chất lượng có tác dụng gợi dẫn học sinh thâm nhập khám phá tác
phẩm là một nghệ thuật đòi hỏi sự công phu và tài năng thực sự của giáo viên.
Theo kinh nghiệm của tôi, đối với mỗi câu hỏi, người giáo viên phải xác định
được mức độ, mục đích, nội dung và hình thức câu hỏi, cũng như tính hệ thống,
đẫn dắt của môĩ câu hỏi .Cũng cũng phải lưu ý một điều là tùy vào tình huống
thực tế, vào đối tượng học sinh mà người giáo viên có thể thay câu hỏi hoặc bổ
sung các câu hỏi cho phù hợp với tình huống, đối tượng học sinh và mục tiêu bài
học. Chẳng hạn, đứng trước một vấn đề mà học sinh khó phát hiện cũng như
khó trả lời, người giáo viên cần có câu hỏi gợi mở để từ đó giúp học sinh có sự
định hướng và trả lời.
b. Người học sinh trong giờ học vấn đáp.
Trong cơ chế dạy học văn theo lối cũ, mối liên hệ giữa giáo viên và học

sinh là mối liên hệ giữa người giảng với người nghe, người truyền thụ với người
tiếp thu, người thông tin với người tiếp nhận, người trình bày với người ghi
nhớ. Như vậy những năng lực chủ quan của bản thân học sinh không được phát
huy. Trong giờ học văn , học sinh chỉ có nhiệm vụ, nghe nhớ, và lặp lại điều đã
nhớ được qua lời giảng của giáo viên. Học sinh được xem như là khách thể, một
đối tượng thụ động chịu sự tác động của giáo viên, của tài liệu, của tiến trình
giảng dạy mà không thấy rõ học sinh cũng là chủ thể năng động trong tiến trình
tổ chức dạy học.
Tư tưởng đổi mới dạy học văn hiện nay là coi trọng, chú trọng đến người học,
là phát huy cao độ tiềm năng sáng tạo của người học . Do đó, khi dạy một bài
Ngữ văn, giáo viên không chỉ chú trọng đến văn bản, đến việc dạy cái gì và cách
dạy như thế nào mà còn phải chú ý tới người học sẽ học như thế nào . Sai lầm
lâu nay của cách dạy học cũ là giáo viên chỉ say mê khám phá văn bản và khổ
công tìm tòi cách thức lên lớp sao cho hấp dẫn mà không chú ý học sinh học bài

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
10
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
đó như thế nào. Xác định đúng đắn vai trò của học sinh như là một chủ thể cảm
thụ trong giờ dạy học văn sẽ đưa đấn những đổi mới cơ bản trong phương pháp
dạy học văn.
Trong giờ đọc hiểu văn bản, khi giáo viên vận dụng phương pháp vấn đáp
gợi mở dẫn dắt, học sinh không chỉ tự cảm thụ, rung cảm, cảm xúc trước cái
hay, cái đẹp mà còn được trao đổi, thảo luận với bạn bè, được tiếp thu tri thức
mới và được tự do phát biểu những suy nghĩ, sáng kiến của mình. Với hệ thống
câu hỏi phát vấn trong giờ học Văn, giáo viên có thể phát huy những năng lực tư
duy và phẩm chất trí tuệ của từng học sinh. Năng lực độc lập, tự làm việc, óc tìm
tòi suy nghĩ, thói quen giao tiếp xã hội của học sinh được phát huy một cách tích
cực.

Như vậy, trong giờ văn theo phương pháp vấn đáp học sinh luôn là một
chủ thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm cũng như giáo viên. Người giáo
viên không cảm thụ hộ mà là người đứng ra tổ chức quá trình học sinh tiếp nhận,
chiếm lĩnh văn bản văn học. Từ đó, học sinh được rèn luyện và phát triển một
số kĩ năng tự tiếp nhận văn bản văn học cũng như các vấn đề trong cuộc sống.
II.MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP
Tuy là một giáo viên mới vào nghề, kinh nghiệm còn hạn chế, nhưng qua
một thời gian công tác giảng dạy, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp
bước đầu làm căn cứ cơ sở cho vận dụng phương pháp vấn đáp trong giờ đọc
hiểu Ngữ văn ở trường THPT :
- Trong giờ học văn, giáo viên phải là người điều khiển, hướng dẫn để học sinh
tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Học sinh là một chủ thể trực tiếp
tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm. Học sinh có điều kiện phát huy những khả năng
mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay bản thân các em chưa khám phá, bộc lộ hoặc còn
rụt rè, lúng túng Từ đó, tạo cho các em học sinh sự mạnh dạn, tự tin khi diễn
đạt một vấn đề trước tập thể.

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
11
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
- GV cần phải nắm vững bản chất của phương pháp vấn đáp, đặc biệt là phải
phân biệt được các loại, mức độ vấn đáp để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi
thích đáng, trọng tâm, then chốt, có tình huống, khơi gợi được hứng thú tham
gia hoạt động của học sinh, phù hợp với nội dung bài học .
Qua tài liệu tham khảo và kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy có ba
phương pháp (mức độ) vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích chứng
minh và vấn đáp tìm tòi, phát hiện, sáng tạo
+ Vấn đáp tái hiện : Đây là phương pháp giáo viên đặt ra câu hỏi yêu cầu học
sinh chỉ cần nhớ lại và tái hiện nội dung bài học .Đây là dạng vấn đáp ở mức độ

bình thường, không đòi hỏi học sinh phải tư duy mà chỉ cần huy động trí nhớ
hoặc dựa vào văn bản văn học.
Chẳng hạn khi tổ chức cho học sinh tìm hiểu chung về văn bản văn học,
giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp vấn đáp tái hiện .
Ví dụ dạy học bài Việt Bắc, sau khi đọc phần tiểu dẫn, giáo viên đặt câu hỏi:
Em hãy cho biết phần tiểu dẫn giới thiệu nội dung gỡ?. Học sinh lắng nghe và
căn cứ vào văn bản để trả lời :- Hoàn cảnh và mục đớch sỏng tỏc bài thơ Việt
Bắc. Giới thiệu khỏi quỏt về bố cục bài thơ .
Hay khi tổ chức hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản Việt Bắc, giáo viên đặt
câu hỏi tái hiện : Cuộc chia giữa kẻ ở người đi tay được miờu tả như thế nào
trong tám câu thơ đầu? Học sinh đọc văn bản và tái hiện cảnh chia tay: Trên nền
cảnh núi rùng Việt Bắc, diễn ra cảnh chia tay đầy bịn rịn lưu luyến giữa đồng
bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng miền xuôi .Lời của người Việt Bắc lờn tiếng
trước.
Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu những phát hiện của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh trongvăn bản Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu) , giáo viên
đặt câu hỏi vấn đáp tái hiện : Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn bay bổng trong
những cảm xúc thẫm mỹ, đang tận hưởng cái khoảng khắc trong ngần của

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
12
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra điều gì tiếp
theo ngay sau bức tranh ? Tâm trạng người nghệ sĩ khi đó như thế nào? .
HS tái hiện : Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người
đàn bà xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ; một cảnh tượng tàn
nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo đứa con thương mẹ đã đánh lại
cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát Chứng kiến cảnh
tượng đó người nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ. Người nghệ sĩ như chết

lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt.
⇒ Vấn đáp tái hiện có thể xem là bước đầu khi đi sâu tìm hiểu, khám phá,
phát hiện giá trị của văn bản văn học. Đây còn là cơ sở để giáo viên đặt ra
những câu hỏi nêu vấn đề nhằm hướng dẫn, giúp học sinh phát hiện giá trị, vẻ
đẹp của văn bản văn học.
+ Vấn đáp giải thích, chứng minh . Giáo viên phải xây dựng hệ thống câu
hỏi yêu cầu học sinh phải tư duy, biết vận dụng các thao tác lập luận giải
thích(dùng lí lẽ, lí giải nội dung, bản chất của vấn đề để mọi người cùng hiểu
vấn đề ), phân tích, chứng minh( chia tách đối tượng thành từng khía cạnh, từng
phần xem xét đánh giá, kết hợp dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, đối
tượng ).
Với phương pháp này, giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh đi sâu khám
phá các giá trị của tác phẩm văn học nay bản chất vấn đề của bài học . Tuy nhiên
vấn đề đặt ra là giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp giải thích, chứng
minh như thế nào để hấp dẫn học sinh đồng thời đảm bảo được mục tiêu cần đạt.
Theo kinh nghiệm của bản tôi, người giáo viên nên căn cứ vào mục tiêu cần đạt
kết hợp với hệ thống câu hỏi Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, thể loại
văn bản, dung lượng bài học . Ngoài ra, còn phải chú ý đến đối tượng học sinh
từng lớp, từng nhóm, thậm chí từng cá nhân trong lớp trong lớp về các mặt như

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
13
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
lứa tuổi, tâm sinh lý, trình độ ,vốn sống, khả năng nhận thức, khả năng diễn
đạt Trên cơ sở đó giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp .
Chẳng hạn khi tìm hiểu vẻ hung bạo của con sông Đà trong tùy bút
“Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, giáo viên nêu câu hỏi: có ý kiến
nhận xét cho rằng : Nguyễn Tuân đã có sự quan sỏt cụng phu, tỡm hiểu kĩ càng
để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ. Em có đồng ý với ý kiến trên

không? Vì sao ?.
Học sinh thảo luận rồi trả lời : Quả đúng là Nguyễn Tuân đã có sự quan sỏt
cụng phu, tỡm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ . Từ đó,
học sinh vận dụng thao tác giải thích ,chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề. Kết
quả học sinh trả lời : Trong phạm vi 1 lũng sụng hẹp, như chiếc yết hầu bị đá bờ
sông chẹt cứng.Lại có những quãng sông hàng cây số của một thế giới đầy gió
gùn ghè, đá giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xóa Tả cái hút nước
quóng Tà Mường Vát, những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy
sâu Những trùng vi thạch trận sẵn sàng nuốt chết con thuyền và người lái.
Âm thanh luôn thay đổi
Chẳng hạn khi tìm hiểu dáng vẻ, diện mạo con sông Hương phía thượng
nguồn trong bút kí : Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
của , giáo viên nêu câu hỏi : Tại sao nói : Sông Hương tựa như “một bản trường
ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội .Học sinh căn cứ vào văn
bản suy ngẫm thảo luận trả lời : Sông Hương tựa như “một bản trường ca của
rừng già” với nhiều tiết tấu hựng trỏng, dữ dội : khi “ rầm rộ giữa bóng cây đại
ngàn”, lúc “ mónh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi “ cuộn xoáy như cơn lốc vào
những đáy vực sâu”, lúc “ dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Sông Hương hiện ra tựa “Cô gái Digan phóng
khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong
sáng”.
+ Vấn đáp tìm tòi, phát hiện, sáng tạo. Đây là dạng câu hỏi vấn đáp đòi

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
14
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
hỏi học sinh không chỉ biết giải thích, chứng minh mà hơn thế phải biết khái
quát, phát hiện ra bản chất của vấn đề, tầng lớp nghĩa ẩn của văn bản văn học,
hơn thế học sinh phát hiện ra những tấng lớp nghĩa mới. Vận dụng những câu

hỏi vấn đáp ở mức độ này, đòi hỏi giáo viên phải lưu ý tới mục đích, hình thức
hỏi tránh đưa ra những câu hỏi mang tính chất đánh đố học sinh, đặc biệt phải
chú ý tới đối tượng tiếp nhận (học sinh khả năng nhận thức, tư duy) . Khi đặt ra
câu hỏi này giáo viên thường hướng tới đối tượng là học sinh khá, giỏi nhằm
phát huy khả năng nhận thức, tư duy, sáng tạo của các em. Tuy nhiên giáo viên
có thể đưa ra câu hỏi dẫn dắt gợi mở nhằm giúp các em có sức học trung bình
cũng có thể khám phá, phát hiện và trả lời.
Chẳng hạn khi tìm hiểu mạch cảm xúc, bố cục của văn bản văn học giáo viên
nên đặt câu hỏi dạng này . Ví dụ khi tìm hiểu bố cục bài thơ Tây Tiến(Quang
Dũng), giáo viên nêu câu hỏi : Sau khi nghe xong bài thơ, em hãy căn cứ vào
mạch cảm xúc của bài thơ cho biết bài thơ chia thành mấy đoạn ? Nêu nội
dung chính của từng đoạn ? Học sinh suy ngẫm, thảo luận và trả lời : theo
mạch cảm xúc, bài thơ có thể chia làm 4 đoạn( 4 khổ)
+ Khổ 1: Nhớ núi rừng Tây Bắc, nhớ con đường hành quân.
+ Khổ 2: Nhớ những kỉ niệm về cuộc sống và con người nơi núi rừng Tây Bắc.
+ Khổ 3: Nhớ đoàn quân Tây Tiến.
+ Khổ 4: Lời thề quyết tâm chiến đấu và lời thề không thể nào quên “ Tây
Tiến”
Ví dụ khi phân tích, tìm hiểu hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm cùng
tên của nguyễn Trung Thành, giáo viên đặt câu hỏi : Ngoài ý nghĩa tạo ra
khụng gian xỏc định cho truyện, đem lại chất Tây Nguyên đậm đà cho câu
chuyện, Rừng xà nu, cõy xà nu cũn mang ý nghĩa nào khỏc? (có thể gợi mở :
có ý kiến cho rằng cây xà nu còn mang nghĩa tượng trưng. Em có đồng ý với ý
kiến trên không ? Tại sao ? ) .Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải suy ngẫm tìm

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
15
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
tòi, phát hiện trên cơ sở những đặc tính của cây xà nu, sụ gắn bó mật thiết của

nó với nhân dân Tây Nguyên. Sau một thời gian tìm thảo luận học sinh trả lời :
- Cõy xà nu là biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất cao đẹp của người
Xụ Man:
+ Cõy xà nu chịu thương tớch, chết chúc bởi quõn thự tàn bạo cũng như
dõn làng Xụ Man bị chỳng giết hại ( Anh Xỳt, bà Nhan; mẹ con Mai) hoặc phải
mang thương tật suốt đời như anh Tnỳ.
+ Cõy xà nu cú sức sống mónh liệt khụng sức gỡ tàn phỏ nổi, chỳng ham
ỏnh sỏng và khớ trời, cũng như cỏc thế hệ người Xụ Man kế tiếp nhau đứng dậy
chiến đấu kiờn cường bất khuất giành lấy sự sống , tự do.
Ví dụ sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu cuộc đời, thân phận nô lệ tăm tối
của nhân vật Mị khi sống trong nhà thống lí(Vợ chồng A Phủ-Tô Hoài) giáo viên
đưa ra câu hỏi vấn đáp tìm tòi : Phải chăng nhà văn Tô Hoài chỉ dừng lại ở
cuộc đời tủi nhục, nô lệ của Mị .Tô Hoài đã phát hiện ra điều gì ở Mị khi sống
trong nhà thống lí ? Câu hỏi có tình chất nêu vấn đề đòi hỏi HS phải tìm tòi,
phát hiện : Tô Hoài không dừng lại ở cuộc đời tủi nhục, nô lệ của Mị mà đã đi
sâu khám phá và phát hiện ra đằng sau cuộc đời tăm tối, tủi nhục kia vẫn tiềm
ẩn một cô Mị ham sống , khát khao tự do hạnh phúc. Từ đó giáo viên tổ chúc
hướng dẫn học sinh đi sâu phát hiện sức sống tiềm tàng của Mị qua những biểu
hiện, chi tiết
Chẳng hạn khi sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu những phát hiện
bất ngờ về nghệ thuật cũng như cuộc đời của nghệ sĩ Phùng, giáo viên nêu câu
hỏi tìm tòi ; Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh châu muốn
người đọc nhận thức điều gì về cuộc đời ? Học sinh phát hiện ra ý tưởng nghệ
thuật của nhà văn : cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều
nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn : đẹp -
xấu , thiện- ác

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
16

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
- Trong quá trình tổ chức, điều khiển, hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản văn
học, giáo viên phải biết vận dụng kết hợp một cách linh hoạt, sáng tạo các loại
câu hỏi vấn đáp trong từng bài học, từng tình huống, đối tượng học sinh nhằm
phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Để tổ chức một giờ học vấn đáp hoàn chỉnh trong dạy văn, theo tôi, giáo
viên có thể tiến hành theo một số bước cơ bản sau đây:
* Thứ nhất: xác định vấn đề cần vấn đáp (đàm thoại).Thông qua việc hướng
dẫn đọc, giáo viên phải hướng dẫn hay gợi ý cho học sinh những chi tiết, hình
ảnh tiêu biểu chứa đựng nội dung bao quát cơ bản để trong quá trình đọc học
sinh cảm nhận được vấn đề mình cần phải trả lời hay tìm hiểu trong giờ học đó.
Vấn đề đưa ra vấn đáp với học sinh có khi chỉ là một hình ảnh, một chi tiết, một
khía cạnh nội dung hay một nhân vật nào đó trong tác phẩm. Nhưng chi tiết hoặc
hình ảnh đó phải tiêu biểu, đóng vai trò then chốt mà qua đó giúp học sinh nắm
được tư tưởng của đoạn trích hoặc tác phẩm.
* Thứ hai: hướng dẫn học sinh vấn đáp. Đây là một việc làm quan trọng của
giáo viên trong giờ học văn. Khi đã đưa ra một hệ thống câu hỏi, nếu học sinh
không thể tìm ra câu trả lời ngay được thì người giáo viên cần phải dẫn dắt, gợi
mở vấn đề bằng những câu hỏi phụ để từ đó học sinh tìm ra ý cho câu hỏi chính.
Trong thực tế, học sinh có thể nắm được nhiều các chi tiết của tác phẩm nhưng
chưa biết kết nối các chi tiết đó để có thể rút ra được các nhận định đánh giá.
Đây cũng là lý do khiến các em rụt rè khi trả lời, vì vậy đòi hỏi giáo viên gợi
mở, dẫn dắt.
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
I .Kết quả từ quan sát thực tế.
Kết quả chất lượng hs trong lớp tôi dạy, chất lượng đã tiến bộ rõ rệt
- Trong giờ học Văn không khí học tập sôi nổi, đã có sự cộng hưởng cảm xúc
giữa nhà văn - học sinh - giáo viên. Học sinh tích cục trao đổi thảo luận, hăng

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -

2011
17
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
hái xung phong phát biểu xây dựng bài. Học sinh thực sự hứng thú khi được học
môn Văn và tiếp xúc với các tác phẩm văn học. Chất lượng, hiệu quả giờ học
được nâng cao rõ rệt.
- Học sinh được rèn luyện nhiều về tư duy mới trong thảo luận phát vấn, được
rèn luyện cách diễn đạt trình bày phát biểu; các em tỏ ra chủ động, tự tin,linh
hoạt khi diễn đạt trước tập thể. Qua đó, đã hình thành được một số kĩ năng tự
tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm văn học cho học sinh.
C. KẾT LUẬN
Áp dụng phương pháp vấn đáp (đàm thoại) trong dạy học môn Văn ở
trường phổ thông là một việc làm cần thiết để nhằm nâng cao chất lượng học
sinh. Phương pháp dạy học nào thì cũng có mặt tích cực và hạn chế của nó.
Nhưng nói chung theo phương pháp dạy học mới hiện nay lấy học sinh làm
trung tâm thì việc dạy học theo phương pháp vấn đáp mang lại thành công nhiều
hơn.
Việc áp dụng phương pháp vấn đáp vào trong dạy học bộ môn Ngữ Văn
có tác dụng rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn của học sinh, rèn luyện
kỹ năng, phát huy sáng tạo của học sinh, phát huy hướng tìm tòi, phát hiện trong
quá trình học của học sinh. Nhưng với phương pháp này đôi khi cũng có hạn chế
đối với các lớp học sinh yếu, dễ gây mất thời gian.
Mỗi phương pháp đều có thế mạnh riêng. Người giáo viên là người tổ
chức hoạt động dạy và học, vì vậy phải biết tận dụng sức mạnh của mỗi phương
pháp để từ đó đạt hiệu quả cao trong học tập và giảng dạy.

D. Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM.
Thực hiện quá trình đổi mới phương pháp dạy học là công việc phức
tạp, đòi hỏi nhiều công sức tâm huyết của mỗi giáo viên chúng ta.Trong quá


Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
18
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
trình thực hiện, đổi mới đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều cấp độ.
Chính vì vậy, tôi xin nêu một vài kiến nghị đề nghị tới các cấp như sau:
- Sở giáo dục, phòng phổ thông nên tiếp tục tổ chức các đợt học tập chuyên đề
và tập trung nhiều hơn đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và tạo điều
kiện để các cụm tổ chức trao đổi kinh nghiệm về phương pháp dạy học môn
Ngữ văn nói riêng và các bộ môn khác trong nhà trường nói chung
- Ban chuyên môn nhà trường tiếp tục tăng cường kiểm tra dự giờ thường xuyên
để động viên, thúc đẩy giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất
lượng giáo dục.
- Tổ nhóm chuyên môn và mỗi người thầy chúng ta cần quan tâm đúng mức tới
công việc vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học, không chủ quan ỷ vào
kinh nghiệm, khả năng dạy vốn có; nếu không chính chúng ta là người lạc hậu
trì trệ.
- Đối với mỗi giáo viên : phải thường xuyên học tập, học hỏi để nâng cao trình
độ chuyên môn, tích cục chủ động đổi mới phương pháp dạy học, tích lũy kinh
nghiệm dạy học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm và ý kiến nhỏ của tôi, tất nhiên không
tránh khỏi thiếu sót, rất mong đồng nghiệp chia sẻ và bổ sung, .
Xin chân thành cảm ơn!.
Hải Phòng , ngày 20 tháng 02 năm 2011
Người viết


Vũ Thị Hương Giang
TÀI LIỆU THAM KHẢO.


Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
19
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
1. Hà Minh Đức; Lí luận văn học; Nxb GD; H; 1993.
2. Phan Trọng Luận (chủ biên) – Trương Dĩnh; Phương pháp dạy học Văn, tập
1; Nxb GD; H; 2001.
3. Phan Trọng Luận (chủ biên); Thiết kế bài học Ngữ văn ; Nxb GD; H; 2006.
4. Nguyễn Kim Phong (chủ biên); Kĩ năng đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10; ; Nxb
GD; H; 2006.
5. Nguyễn Khánh Toàn; Một số vấn đề giáo dục của Việt Nam; Nxb GD; H.
6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 10 môn Ngữ văn; ;
Nxb GD; H; 2006.
7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 11 môn Ngữ văn; ;
Nxb GD; H; 2007.
8. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 12 môn Ngữ văn; ;
Nxb GD; H; 2008.
9. Phương pháp dạy học Văn - Nhà xuất bản giáo dục- 1995.
10. Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông - Nhà xuất
bản giáo dục- 1998.

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
20
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:

Người thực hiện: Vũ Thị Hương Giang Năm học: 2010 -
2011
21

×