Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Tổng quan thực vật chi solanum L

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.39 KB, 65 trang )

TỔNG QUAN THỰC VẬT CHI Solanum L.
Chi Solanum L. là một chi lớn nhất trong họ Cà (Solanaceae). Các loài thuộc
chi Solanum phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới ấm.
Vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ là nơi có số lượng loài thuộc chi Solanum nhiều
nhất, đa dạng nhất, sau đó đế châu úc, châu Phi và châu á nhiệt đới, trong đó có
Việt Nam [18].
Chi Solanum ở Việt nam có 28 loài [6], phân bố từ Bắc vào Nam, các loài thuộc
chi Solanum có giá trị thực tiễn như: làm thuốc, làm rau ăn và làm cảnh. Trong các
loài có tác dụng làm thuốc thì không ít loài có chứa alcaloid, nên việc sử dụng
chúng ta cần hết sức lưu ý. Alcaloid trong họ Cà nói chung và chi Solanum nói
riêng là những hợp chất vừa có tác dụng làm thuốc đồng thời lại vừa có độc tính.
Các loài được sử dụng làm rau ăn cũng có giá trị kinh tế không nhỏ, trong đó phải
kể đến một số loài đem lại lợi ích rất to lớn cho con người như: Khoai tây (S.
tuberosum), Cà chua (Lycopersicon esculentum)…
Cho đến nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vị trí phân loại,
phân bố, đặc điểm thực vật của chi Solanum L Trong khi đó, ở Việt Nam các
nghiên cứu về vấn đề này còn chưa nhiều.
1. Vị trí phân loại chi Solanum L. và họ Cà (Solanaceae Juss.) trên thế giới và
ở Việt Nam trong các hệ thống phân loại thực vật
Trên thế giới, ngay giữa thế kỷ 18, C. Linnaeus (1753) [46] đã biết dựa vào một số
đặc điểm của thực vật (chủ yếu là số lượng nhị) để sắp xếp các chi và loài thực vật
(trong đó có các loài sau này thuộc họ Cà) vào các nhóm khác nhau. Đây là kiểu
phân chia “tự nhiên” chủ quan. Mặc dù vậy, nó vẫn là kiểu phân chia tiến bộ nhất
thời bấy giờ, nên các tác giả sau đó đã sử dụng cách phân chia này để nghiên cứu
hệ thực vật của mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Năm 1789, A. Jussieu [44] công bố tên gọi của họ Cà: Solaneae Juss. (lấy từ tên
chi Solanum L.). Tên gọi Solanae của Juss. về sau được chỉnh lại cho đúng với tên
gọi của luật danh pháp: SolanaceaeJuss., typus: Solanum L.
Sau công bố của Juss. 1789, nhiều nhà nghiên cứu đã biết dựa vào các đặc điểm
hình thái như: hoa, quả, hạt… để mô tả họ và các taxon trong họ. Tuy nhiên, khi
sắp xếp các taxon trong họ còn nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn, R. Brown


(1810) [43] đã dựa vào các nhóm đối lập nhau về hình thái của tràng (xếp nếp đối
lập không xếp nếp), nhị (nhị nhiều đối lập với hai nhị khoẻ), phôi (phôi cong đối
lập với phôi hơi cong hình cung) để chia Solaneae ra thành hai Section. Đến Kunth
(1818) [45] lại dựa vào sự đối lập về hình thái của quả (quả mọng đối lập với quả
nang) để chia Solaneae ra thành hai Section. Mặc dù có những ý kiến khác nhau,
nhưng nhìn chung đây vẫn là bước tiến rất quan trọng so với thời của C. Linnaeus
(1953) [46], bởi nó đã đưa được các taxon có quan hệ thân cận về gần với nhau
hơn.
Về sau, nhiều tác giả khi nghiên cứu họ Solanaceae đã xây dựng được các hệ
thống phân loại. Trải qua một thời gian dài, đến nay đã có không ít các hệ thống
phân loại ra đời. Các hệ thống được xây dựng trên cơ sở các taxon xếp sau thường
có nhiều đặc điểm tiến hoá hơn các taxon xếp trước. Và khi xây dựng hệ thống các
tác giả đều chủ yếu dựa vào những đặc điểm điển hình nhất của cơ quan sinh sản.
Tuy nhiên ở mỗi thời kỳ, mỗi tác giả lại có cách nhìn nhận riêng trong việc xây
dựng hệ thống của mình. Qua nghiên cứu các hệ thống phân loại về
họ Solanaceae của một số tác giả ở thời kỳ khác nhau, chúng tôi nhận thấy có một
số quan điểm phân chia sau đây:
1.1. Quan điểm 1: Họ Solanaceae được phân chia thành các tông. Tiêu biểu cho
quan điểm phân chia này có một hệ thống phân loại nổi tiếng như: G. Bentham &
J. D. Hooker (1864) [42], H. Melchior (1964) [39], V. H. Heywood (1993) [26].
a: Theo hệ thống phân loại của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42]:
họ Solanaceae được chia thành 5 tông, với 66 chi. Đó là:
Trib. 1. Solaneae: Thuỳ tràng gấp nếp, xếp van; quả mọng… (31 chi):
Lycopersicum, Solanum, Cyphomandra, Phyalis, Capsicum…
Trib. 2. Atropeae: Thuỳ tràng không gấp nếp, xếp lợp; quả mọng … (6 chi):
Grabowskia, Lycium, Atropa, Mandragora, Dyssochroma, Solandra.
Trib. 3. Hyoscyameae: Thuỳ tràng gấp nếp, xếp lợp; quả nang … (4 chi)
Datura, Scopolia, Physochlaina, Hyoscyamus.
Trib. 4. Cestrineae: ống tràng hình trụ, thuỳ tràng xếp lợp hay van cong vào hay
gấp nếp; quả mọng hay quả nang… (10 chi): Cestrum, Nicotiana

Trib. 5. Salpiglossideae: Thuỳ tràng gấp nếp cong vào; xếp lợp hay xếp van; quả
nang, hiếm khi quả mọng… (15 chi): Petunia, Salpiglossis, Browallia, Brunfelsia
Như vậy, hệ thống phân loại của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] dựa vào
sự khác biệt chủ yếu của các đặc điểm hình thái như: tràng, quả để phân chia
họ Solanaceae ra thành 5 tông khác nhau. Đây là một hệ thống phân loại khá nổi
tiếng thời bấy giờ. Rất nhiều tác giả trên thế giới đã từng lựa chọn hệ thống này để
nghiên cứu thực vật ở mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.
b: H. Melchior (1964) [39] dựa vào sự khác nhau của phôi và xếp đặc điểm cấu
tạo này là đặc điểm quan trọng nhất để phân chia họ Solanaceae ra thành hai
nhóm: nhóm A (gồm 3 tông), nhóm B (gồm 2 tông). Sau đó tác giả chủ yếu dựa
vào các đặc điểm cấu tạo của bầu (mặc dù bầu trong họSolanaceae là bầu 2 ô,
nhưng do ở một số chi có vách ngăn giả nên đã hình thành bầu có 3-5 ô) và số
lượng nhị để phân chia họ Solanaceae ra thành 5 tông. Ngoài ra, tác giả còn tiếp
tục phân chia tôngSolaneae ra thành 4 phân tông và tông Cestreae ra thành 3 phân
tông với 85 chi trong họ. Đó là:
Trib.1. Nicandreae: Bầu 3-5 ô, có vách ngăn giả không đều; quả mọng: Nicandra.
Trib.2. Solaneae: Bầu thường 2 ô, hiếm khi hơn.
Subtrib. Lyciinae: Nhị đính gốc; tràng hình ống hoặc chuông; quả
mọng: Lycium, Atropa…
Subtrib. Hyoscyaminae: Nhị đính gốc, tràng hình phễu hoặc chuông; quả
nang:Hyoscyamus
Subtrib. Solaninae: Nhị đính gốc; tràng hình bánh xe hoặc chuông; quả
mọng; Physalis,Capsicum, Solanum, Lycopersicon…
Subtrib. Mandragorinae: Bao phấn đính lưng; quả
mọng: Cyphomadra, Mandragora…
Trib. 3 Daturea: Bầu 4 ô do có vách ngăn giả mà thành; quả mọng hay
nang: Solandra, Datura…
Phôi thẳng hoặc hơi cong. Bầu 2 ô.
Trib. 4. Cestreae: Nhị 5, bằng hoặc không bằng nhau.
Subtrib. Cestrinae: Hạt có nội nhũ; quả mọng: Cestrum…

Subtrib. Goetzeinae: Hạt không có nội nhũ; quả mọng: Goetzea…
Subtrib. Nicotianinae: Hạt có nội nhũ; quả nang: Nicotiana, Petunia…
Trib. 5. Salpiglossideae: Nhị 2-4; quả nang hiếm khi quả mọng: Brunfelsia,
Browallia…
Đây là hệ thống phân loại rất được thịnh hành trong thế kỷ 20. Nó đã được nhiều
nhà thực vật trên thế giới chọn để làm cơ sở cho việc phân loại thực vật của mỗi
quốc gia hay vùng lãnh thổ.
c: Về sau, V. H. Heywood (1993) [26] cũng phân chia họ Solanaceae ra thành 5
tông như hệ thống H. Melchior (1964) [39], rồi chia nhỏ tiếp thành các chi, chứ
không qua bậc trung gian là phân tông. ở hệ thống này, tác giả cũng chủ yếu dựa
vào đặc điểm phôi thẳng hay phôi cong để phân chia họSolanaceae thành 2 nhóm:
*Nhóm 1: Phôi cong, gồm 3 tông là
Trib.1. Nicandreae: Bầu 3-5 ô, có vách ngăn không đều: Nicandra.
Trib.2. Solaneae: Bầu 2 ô: Lycium, Phyalis, Capsicum, Lycopersicon, Solanum
Trib.3. Datureae: Bầu 4 ô, có vách ngăn đều: Datura…
*Nhóm 2: Phôi thẳng hoặc hơi cong, gồm 2 tông là:
Trib.4. Cestreae: 5 nhị hữu thụ: Cestrum, Nicotiana, Petunia…
Trib.5. Salpiglossideae: 2 hoặc 4 nhị hữu thụ: Salpiglossis
Qua các hệ thống đã nêu trên đây, có thể lập bảng so sánh một cách tổng quát như
sau (bảng 1.1)
Bảng 1.1. Tóm tắt các hệ thống G. BENTHAM & J. D. HOOKER (1864), H.
MELCHIOR (1964) Và V. H. HEYWOOD (1993)
Bảng 1.1 cho thấy, toàn bộ các tông trong các hệ thống của H. Melchior (1964)
[39] và V. H. Heywood (1993) [26] đều có sự xáo trộn so với hệ thống của G.
Bentham & J. D. Hooker (1864) [42]. Đó là chi Nicandra được nâng lên thành
tông Nicandreae vì có bầu 3-5 ô, với vách ngăn không đều. Bãi bỏ
tông Antropeae và Hyoscyameae, đồng thời chuyển các chi (Antropa, Lycium,
Mandragora của tông Antropeae; Hyoscyamus của tông Antropeae; Datura của
tông Hyoscyameae) có bầu 4 ô với vách ngăn đều thành tông Datureae. Ngoài ra,
chi Petunia vì có 5 nhị nên đã được chuyển từ tôngSagiglossideae sang

tông Cestreae. Như vậy, so với hệ thống G. Bentham & J. H. Heywood (1993) [26]
đã có sự thay đổi rõ rệt. Toàn bộ các tông do G. Bentham & J. D. Hooker (1864)
[42] công bố đều bị các hệ thống H. Melchior (1964) [39] và V. H. Heywood
(1993) [26] sắp xếp lại. Còn giữa hệ thống H. Melchior (1964) [39] và V. H.
Heywood (1993) [26] thì chỉ có sự khác nhau trong việc phân chia taxon ở bậc
thấp hơn như 2 trong số 5 tông ở hệ thống của H. Melchior (1964) [39] còn có sự
phân chia thành các phân tông rồi mới đến chi, trong khi hệ thống của V. H.
Heywood (1993) [26] lại phân chia trực tiếp thành các chi.
Qua sự phân tích 3 hệ thống tiêu biểu trên cho thấy: hệ thống phân loại G.
Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] là hệ thống đã quá lạc hậu và có nhiều sự bất
hợp lý; hệ thống của V. H. Heywood (1993) [26] khắc phục được những nhược
điểm của hệ thống G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] nhưng quá ngắn gọn,
nên sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc sắp xếp các taxon thuộc 2
tông: Solaneae vàCestreae; trong khi đó hệ thống H. Melchior (1964) [39] vừa
khắc phục được những nhược điểm của hệ thống G. Bentham & J. D. Hooker
(1864) [42] lại vừa giải quyết được việc sắp xếp các taxon trong 2
tông: Solaneae và Cestreae. Vì hai tông này còn có sự phân chia nhỏ thành các
phân tông. Do vậy, trong 3 hệ thống trên, hệ thống H. Melchior (1964) [39] là hợp
lý hơn cả cho việc sắp xếp các taxon thuộc họ Solanaceae.
1.2. Quan điểm 2: Họ Solanaceae được phân chia thành các phân họ (Subfam.)
Quan điểm này chủ yếu gặp ở các hệ thống của A. L. Takhtajan (1981, 1987 &
1996) [49], [50], [30]
a. Trong hệ thống A. L. Takhtajan (1981) [49], tác giả đã chia
họ Solanaceae thành 2 phân họ:
Subfam.1. NOLANOIDEAE: Nolana
Subfam.2. SOLANOIDEAE:
Trib.1. Nicandreae: Nicandra.
Trib. 2. Solaneae: Licium, Atropa, Hyoscyamus, Physalis, Capsicum, Solanum,
Lycopersicon, Cyphomandra, Mandragora
Trib. 3. Datureae: Datura, Brugmasia, Solandra

Trib. 4. Cestreae: Cestrum, Nicotiana, Petunia…
Trib. 5. Salpiglossideae: Brufelsia, Salpiglossis
Trong hệ thống này, tác giả chỉ đưa thêm phân họ Nolanoideae vào
họ Solanaceae còn phân họSolanoideae gồm toàn bộ 5 tông như trong hệ thống
của H. Melchior (1964) [39] nhưng không phân chia tiếp thành các phân tông.
b. Đến hệ thống Takhtajan A. L. (1987) [50], tác giả lại phân
họ Nolanoideae thành họNolanaceae và tách Solanoideae thành 2 phân
họ: Solanoideae và Cestroideae. Đồng thời, tác giả chia nhỏ hầu hết các tông trong
hệ thống A. L. Takhtajan (1981) [49] và nâng số tông ở hệ thống A. L. Takhtajan
(1987) [50] lên tới 12, với 90 chi. Đó là:
Subfam.1. SOLANOIDEAE (7 tông):
Trib.1. Solaneae: Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon, Cyphomandra
Trib. 2. Datureae: Datura, Brugmasia
Trib.3. Jaboroseae: Jaborosa
Trib.4. Lycieae: Lycium…
Trib.5. Nicandrea: Nicandra.
Trib.6. Solandreae: Solandra
Trib.7. Juanulloeae: Juanulloa
Subfam.2. CESTROIDEAE (5 tông):
Trib.8. Cestreae: Cestrum…
Trib.9. Nicotianeae: Nicotiana, Petunia
Trib.10. Schwenckieae: Schwenckia…
Trib.11. Parabouchetieae: Parabouchetia…
Trib.12. Salpiglossideae: Salpiglossis, Browallia…
c: Nhưng đến hệ thống A. L. Takhtajan (1996) [30], tác giả lại đưa
họ Nolanaceae trở thành phân họ Nolanoideae của họ Solanaceae, đồng thời tiếp
tục chia nhỏ và nâng số tông lên 14. Do vậy họSolanaceae trong hệ thống này gồm
3 phân họ (Subfam.), 14 tông (Trib.), với 96 chi (Genus). Đó là:
Subfam.1. CESTROIDEAE (6 tông)
Trib.1. Anthocercideae: Anthocercis

Trib.2. Cestreae: Cestrum…
Trib.3. Nicotianeae: Nicotiana, Petunia…
Trib.4. Schwenckieae: Schwenkia…
Trib.5. Parabouchetieae: Parabouchetia
Trib.6. Salpiglossideae: Salpiglossis, Browllia
Subfam.2. SOLANOIDEAE (8 tông)
Trib.7. Solaneae: Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon, Cyphomandra…
Trib.8. Hyoscyameae: Mandragora, Hyoscyamus…
Trib.9. Datureae: Datura, Brugmasia…
Trib.10. Jaboroseae: Jaborosa…
Trib.11. Lycieae: Lycium…
Trib.12. Nicandreae: Nicandra.
Trib. 13. Solandreae: Solandra…
Trib. 14. Juanulloeae: Juanulloa
Subfam.3. NOLANOIDEAE (1 chi): Nolana.
Từ các hệ thống của A. L. Takhtajan (1981, 1987 & 1996) [49], [50], [30] ta có
thể lập bảng so sánh như sau (bảng 1.2):
Bảng 1.2. Tóm tắt các hệ thống của Takhtajan A. L. (1981, 1987 & 1996)
Qua bảng 1.2 cho thấy, việc đưa họ Nolanaceae trở thành phân
họ Nolanoideae của Solanaceaetrong các hệ thống A. L. Takhtajan (1981 & 1996)
[49], [30] là không thoả đáng, bởi vì trong khi ởSolanaceae có kiểu đính noãn trụ
giữa, nội nhũ nạc, thì ở Nolanaceae có kiểu đính noãn gốc, nội nhũ rất ít hay
không có. Trong hệ thống của A. L. Takhtajan 1987 [50], họ Solanaceae không
chứa phân họNolanoideae, nên hợp lý hơn các hệ thống A. L. Takhtajan (1981 &
1996) [49], [30].
Như vậy, hệ thống H. Melchior (1964) [39] và hệ thống A. L. Takhtajan 1987 [50]
là hai hệ thống tiêu biểu nhất cho hai quan điểm nêu trên. So sánh 2 hệ thống này
với nhau cho thấy, hệ thống A. L. Takhtajan 1987 [50] có ưu điểm là phân chia
thành 2 phân họ rõ ràng, còn hệ thống H. Melchior (1964) [39] chỉ phân chia thành
2 nhóm tông. Tuy nhiên, đặc điểm duy nhất để hệ thống A. L. Takhtajan 1987 [50]

phân chia họ Cà thành 2 phân họ là đặc điểm của phôi, đây là đặc điểm không dễ
dàng nhận biết được bằng mắt thường, lại không dễ thấy ở các tiêu bản, nên rất khó
cho việc nghiên cứu bằng phương pháp hình thái so sánh. Ngoài ra, ở hệ thống
Takhtajan 1987 [50] họ Cà được phân chia tới 12 tông, trong đó có một nửa số
tông không thấy có đại diện ở Việt Nam. Nên lựa chọn hệ thống Takhtajan 1987
[50] cho việc phân loại họ Cà ở Việt Nam là không thoả đáng. Còn hệ thống H.
Melchior (1964) [39] có số lượng tông vừa phải, đa số các tông đều có đại diện ở
Việt Nam, đồng thời cách phân chia của hệ thống này khá dễ dàng cho việc sắp
xếp các taxon trong họ. Do vậy, việc lựa chọn hệ thống H. Melchior (1964) [39] để
sắp xếp các taxon trong họ Cà ở Việt Nam là hợp lý hơn cả.
Ở các nước trong khu vực với Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu
họ Solanaceae.
S. Kurz (1987) [27] dựa vào sự đối lập của quả (quả mọng đối lập với quả nang),
đài đồng trưởng (không bao bọc kín quả đối lập với bao bọc kín quả)… để chia
họ Solanaceae thành các nhóm nhỏ dần theo kiểu khoá lưỡng phân. Ngoài ra, trong
công trình này, chi Gardneria (nay thuộc họ Loganiacea) vẫn được tác giả xếp
trong họ Solanaceae.
C. A. Backer (1877) [27] dựa vào sự đối lập của quả (quả mọng đối lập với quả
nang), đài đồng trưởng (không bao bọc kín quả đối lập với bao bọc kín quả) để
phân chia họ Solanaceae thành các nhóm nhỏ dần theo kiểu khoá lưỡng phân.
Ngoài ra, trong công trình này, chi Gardneria (nay thuộc họLoganiaceae) vẫn
được tác giả xếp trong họ Solanaceae.
ở Inđônexia, C. A. Backer & R. C. Bakhuizen van den Brink Jr. (1965) [35] công
bố 18 chi, với 65 loài thuộc họ Solanaceae có ở Java, các chi và loài viết dưới dạng
khoá định loại, không có mô tả chi tiết và không có hình vẽ minh hoạ, danh pháp
các taxon không được chỉ dẫn đầy đủ, thiếu tài liệu công bố và mẫu nghiên cứu.
ở Trung Quốc, K. Z. Kuang & A. M. Lu (1978) [38] trên cơ sở hệ thống H.
Melchiol (1964 ) [39] đã sắp xếp các taxon của họ Solanaceae trong 4 tông, 5 phân
tông, 24 chi, với 105 loài có kèm theo hình vẽ của một hay nhiều bộ phận. ở đây
tác giả mô tả khá chi tiết các chi và loài, có một số hình vẽ minh hoạ. Tuy nhiên,

các tác giả đã không chỉ ra typus., mẫu nghiên cứu, và về mặt danh pháp cũng còn
một số nhầm lẫn.
Z. Y. Zhang, A. M. Lu & W. G. D’Arcy (1994) [32] đã mô tả 20 chi với 101 loài
có ở Trung Quốc bằng tiếng Anh. So với công trình bằng tiếng Trung Quốc (1978)
[38], công trình này các tác giả đã không mô tả 2 chi được trồng làm cảnh
là Atropa và Cyphomandra, nhập chi Scopolia vào chiAnisodus và nhập
chi Archiphysalis vào chi Physaliastrum, đồng thời nhập loài Solanum
cathayanumvào loài Solanum lyratum… nên số chi chỉ còn 20 chi, với 101 loài.
Ngoài ra các tác giả cũng đã chỉnh lý và sữa chữa những sai sót về danh pháp. Tuy
nhiên typus và mẫu nghiên cứu cũng không được trích dẫn, nên không thuận lợi
cho người tra cứu và sử dụng.
ở Việt Nam, J. Loureiro (1790) ed. 2 by C. L. Willdenow (1793) [47] đã mô tả 6
chi, với 23 loài về sau này thuộc họ Solanaceae. Cũng giống như Linnaeus, tác giả
đã xếp chung các chi và loài này vào nhóm 5 nhị cùng với các chi và loài của các
họ khác. Công trình của Loureiro chỉ là những nghiên cứu sơ khai và còn có sự
nhầm lẫn giữa các loài với nhau.
Đáng chú ý là công trình của G. Bonati (1915-1927) [34]. Đây là công trình
nghiên cứu họSolanaceae dưới dạng một taxon riêng biệt đầu tiên ở Việt Nam. Tác
giả mô tả 8 chi, với 31 loài có ở Đông Dương; trong đó ở Việt Nam có 7 chi, với
27 loài. ở công trình này, tác giả đã không phân chia các taxon theo bậc tông như
hệ thống của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] mà chỉ từ họ xuống chi. Đây
là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về họ Solanaceae ở Đông Dương, nó
vẫn được sử dụng làm tài liệu cho những ai quan tâm đến họ này ở nước ta. Song
về mặt danh pháp có khá nhiều sai sót cần được sửa chữa, chỉnh lý, và đặc biệt là
số lượng loài còn quá ít so với số lượng loài đang có tại Việt Nam.
Phạm Hoàng Hộ (1972) [3] đã mô tả ngắn gọn với hình vẽ đơn giản của 8 chi, 31
loài thuộc họSolanaceae gặp ở miền Nam Việt Nam. Năm 1993 [4] tác giả mô tả
51 loài thuộc 16 chi trên lãnh thổ Việt Nam. Trong lần tái bản năm 1999 [5] tác giả
đã bổ xung 12 loài, đưa tổng số loài từ 51 lên 63. Nhìn chung trong cả 3 công trình
của Phạm Hoàng Hộ, tác giả đều mô tả quá sơ sài với hình vẽ đơn giản, phần danh

pháp còn nhiều sai sót, chưa chỉ dẫn mẫu nghiên cứu.
Lê Khả Kế và cộng sự (1974) [9] đã mô tả, nêu đặc điểm sinh học, sinh thái, giá
trị sự dụng kèm theo hình vẽ của 24 loài thường thấy thuộc 8 chi của
họ Solanaceae ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Phú (1984) [11] ghi nhận họ Solanaceae ở Tây Nguyên có 7 chi, với
16 loài.
Nguyễn Thị Nhan (1996) [48] ghi nhận họ Solanaceae ở Việt Nam có 13 chi, với
53 loài.
Nguyễn Tiến Bân (1997) [12] đã ghi nhận họ Solanaceae ở Việt Nam có 16 chi,
gần 50 loài.
Vũ Văn Hợp & Nguyễn Thị Nhan (2005) ghi nhận họ Solanaceae ở Việt Nam có
16 chi, với 58 loài [7].
Có thể so sánh một số công trình nghiên cứu điển hình trong bảng 1.3
Bảng 1.3: So sánh các chi và loài thuộc họ Cà (Solanaceae) ở Việt Nam qua
một số nghiên cứu điển hình
J. LOUREIRO
(1790)
G. BOTANI
(1915-1927)
Phạm Hoàng Hộ
(1993)
Lycium (2)
Physalis (4)
Lycium (1)
Physalis (2)
Lycium (2)
Physalis (2)
Capsicum (3)
Solanum (12)
Datura (1)

Nicotiana (1)
Tổng số: 6 chi, 23 loài
Capsicum (4)
Solanum (17)
Cyphomandra (1)
Datura (1)
Nicotiana (1)
Tổng số: 7 chi, 27 loài
Capsicum (1)
Tubocapsicum (1)
Solanum (27)
Lycianthes (4)
Lycopersicon (1)
Cyphomandra (1)
Datura (2)
Brugmansia (1)
Cestrum (2)
Nicotiana (1)
Petunia (1)
Brunfelsia (1)
Browallia (1)
Atrichodendron (1)
Tổng số: 16 chi, 51 loài
(Chú thích: số trong ngoặc đơn sau tên chi là số loài)
Bảng 1.3 cho thấy: so với trước kia thì giờ đây không chỉ có số chi và loài tăng
lên, mà còn có sự sắp xếp lại cac taxon. Chẳng hạn, chi Capsicum trước có từ 3
loài (Lour. 1790) hay 4 loài (Bonati, 1915-1927) thì nay đã nhập lại thành 1 loài
(P. H. Hộ, 1993); còn một số loài trong chi Solanum (Lour. 1790) hay (Bonati,
1915-1927) nay được chuyển sang các chi Lycianthes, Lycopersicon (P. H. Hộ,
1993).

2. Đặc điểm thực vật của chi Solanum L.
2.1. Đặc điểm hình thái chi Solanum L.
Đặc điểm hình thái của của chi Solanum do Linné mô tả đầu tiên vào năm 1753
dựa trên đặc điểm thực vật của loài S. nigrum L.
Cây thảo, cây bụi, cây leo, cây gỗ nhỏ, đôi khi có gai; có lông che chở, lông phân
nhánh hoặc hình sao, đôi khi có lông tiết.
Lá đơn mọc cách hoặc thành từng cặp không đều, mép nguyên, có răng, có thuỳ
hoặc xẻ thuỳ sâu, phần lớn có cuống lá.
Cụm hoa ở nách lá, ngoài nách, đối diện với lá hoặc ở đỉnh cành, mọc thành dạng
xim bọ cạp, xim bọ cạp ghép cặp, xim hai ngả kép của xim bọ cạp, có hiện tượng
lôi cuốn, dạng chùm, dạng chùm phân nhánh, dạng tán hay chỉ là hoa (mọc) đơn
độc. Hoa lưỡng tính hoặc đực và lưỡng tính cùng gốc, thường mẫu 5, rất hiếm khi
mẫu 4 (Solanum procumbens). Đài xẻ thuỳ, có tai cao, có lông ở mặt ngoài. Tràng
hình bánh xe hay hình chuông, tràng hoa dạng ống ngắn, xẻ thành 5 hoặc 10 cánh.
Nhị có chỉ nhị rất ngắn, đính trên tràng, bao phấn thuôn, nhọn đầu, bao phấn chụm
lại hoặc nối thành vòng tròn quanh vòi nhuỵ, mở lỗ ở đỉnh hay gần đỉnh, mở theo
đường nứt dọc. Vòi nhụy ngắn và nhỏ; bầu trên, thường 2 ô (có thể hơn do vách
giả), với giá noãn rộng, noãn nhiều; núm nhuỵ nhỏ.
Quả mọng phần lớn mọng nước. Đài ở quả thỉnh thoảng phát triển bao quanh quả
mọng. Hạt nhiều, dẹt dạng đĩa hoặc thấu kính lồi; phôi hướng ngoài. Đặc biệt giải
phẫu có vòng libe quanh tủy ở cuống và gân lá. Biểu bì mang lông che chở và lông
tiết [37]
Hạt phấn hình cầu có 3 u lồi, 3 lỗ rãnh, đường kính 7-28 µm
Số lượng nhiễm sắc thể n=12 [36]
Hình 2.1: Solanum nigrum L.
1. Cành mang hoa và quả; 2: hoa; đài mở; tràng mở và nhị; 5 nhị; 6 nhuỵ. (hình
theo Kuang & Lu, 1978)
Hình 2.2: Hạt phấn của Solanum nigrum
2.2. Một số đặc điểm khác
2.2.1. Số lượng nhiễm sắc thể

Theo một số công trình nghiên cứu về nhiễm sắc thể của Gordian (2006)
[25], Swaminatha (1953) [29], Amalia Barone (1999) [13], D’Arcy (1974) [22],
Yamagata (1969) [31] số lượng nhiễm sắc thể của các loài thuộc chi Solanum được
thống kê ở phụ lục 2.1
Nhận xét: Số liệu ở phụ lục 2.1 cho thấy, đa số các loài thuộc chi Solanum có số
nhiễm sắc thể 2n=24 và cao nhất ở S. indicum 2n=69. Số lượng nhiễm sắc thể cơ
bản của chi Solanum X=12-36. Trong đó số ưu thế và cũng coi như số gốc của chi
X=12. Hiện nay X=12 được coi là số đặc trưng cho các đại diện gần với dạng tổ
tiên.
2.2.2. Hạt phấn
Hạt phấn của các loài thuộc chi Solanum L., hình cầu có 3 u lồi, 3 lỗ rãnh, đường
kính 7-28 µm, thể tích hạt phấn từ 1,4-8 µm
3
. Chúng có lớp vỏ ngoài mỏng 1-1,5
µm.
Kích thước hạt phấn rất khác nhau, hạt phấn của S. carchiense có đường kính
khoảng 28,6 µm có kích thước lớn nhất. Hạt phấn của loài S. subvelutinum có
đường kính khoảng 7,2 µm có kích thước nhỏ nhất [40].
3. Sự phân bố của chi Solanum L.
Chi Solanum bao gồm hơn 1200 loài, phân bố rộng rãi trên khắp thế giới Các loài
thuộc chiSolanum phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới
ấm. Nhiều nhất là vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ, sau đó đến châu úc, châu Phi
và châu á nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Loài được biết đến nhiều nhất trong chi
là Khoai tây (S. tuberosum), có nhiều loài là cây cỏ mọc hoang dại, có nhiều loài
phân bố ở những vùng núi cao, bán sa mạc, bờ biển và ven sông [37], [15], [20],
[19], [16], [21], [17], [34]. Sự phân bố các loài thuộc chi Solanum L. được mô tả ở
hình 1 (nguồn: Cartographic Research Lab., University of Alabama
Hình 3.1: Bản đổ phân bố chi Solanum L. trên thế giới
4. Phân loại chi Solanum L.
Số lượng các loài thuộc chi Solanum L, trên thế giới được ghi trong các tài liệu

thực vật rất khác nhau. Phần lớn các tài liệu thống kê khoảng 1200 loài [37].
Có rất nhiều khoá phân loại thực vật trên thế giới và ở Việt nam: Flora of
Panama (1973) [37] (phụ lục 4.1), Flore de Madagascar et des Comores (1994)
[19], Flora Générale de l’Indochine (1927) [34], Flora of China (1994) [41] (phụ
lục 4.2), Flora of Taiwan (1983) [24], A Catalogue of the Vascular Plants of
Madagascar (2007) [28], Flora of Chile (2007) [23]
Hiện nay có 4 cách phân loại chi Solanum L. được sử dụng nhiều trong các tài liệu
khoa học, đó là khoá phân loại của
- D’Arcy (Flora of Panama 1973) [37]. Số lượng các loài trong khoá phân loại này
được mô tả rất chi tiết và rõ ràng, tuy nhiên đa số các loài trong khoá phân loại này
chủ yếu phân bố ở Châu Mỹ, rất ít loài có mặt ở Việt Nam.
- G. Bonati (Flora Générale de l’Indochine 1927) [34]: Đây là công trình nghiên
cứu tương đối đầy đủ về họ Solanaceae và chi Solanum ở Đông Dương, nó vẫn
được sử dụng làm tài liệu cho những ai quan tâm đến họ này ở nước ta. Song về
mặt danh pháp có khá nhiều sai sót cần được sửa chữa, chỉnh lý, và đặc biệt là số
lượng loài còn quá ít so với số lượng loài đang có tại Việt Nam.
- Z. Y. Zang (Flora of China 1994) [32]: Các tác giả cũng đã chỉnh lý và sữa chữa
những sai sót về danh pháp. Tuy nhiên typus và mẫu nghiên cứu cũng không được
trích dẫn, nên không thuận lợi cho người tra cứu và sử dụng.
- Vũ Văn Hợp (2006) [6]. Tác giả là đã xây dựng khoá phân loại các loài thuộc
chi Solanum chi tiết và đầy đủ nhất ở Việt Nam, khoá phân loại này phù hợp cho
việc nghiên cứu các loài thuộc chiSolanum ở Việt Nam.
5. Khoá phân loại các loài thuộc Solanum L. ở Việt Nam
Vũ Văn Hợp (2006) [6] lần đầu tiên đã công bố khoá phân loại các loài thuộc
chi Solanum L. ở Việt Nam chi tiết và đầy đủ nhất. Khoá phân loại này dựa trên hệ
thống phân loại của H. Melchior (1964) [39] hệ thống này có số lượng tông vừa
phải, đa số các tông đều có đại diện ở Việt Nam, đồng thời cách phân chia của hệ
thống này khá dễ dàng cho việc sắp xếp các taxon trong họ. Khoá phân loại các
loài thuộc chi Solanum L. ở Việt Nam gồm 28 loài được mô tả như sau:
1A. Cây không có gai. Bao phấn hình bầu dục hay hình trứng.

2A. Thuỳ tràng tròn, có khía. Quả hình trứng hoặc hình bầu dục… S. laciniatum
2B. Thuỳ tràng hình tam giác, hình trứng, hình bầu dục hay hình mũi mác. Quả
hình cầu, hiếm khi có hình trứng.
3A. Cây có lông hình sao bao phủ toàn bộ. Cuống chung của cụm hoa to và chắc
… S. erianthum
3B. Cây nhẵn hoặc có lông đơn. Cuống chung của cụm hoa thường nhỏ và
mảnh.
4A. Hoa (mọc) đơn độc, mọc từng đôi hay cụm hoa đơn: dạng chùm, tán, gần
như dạng tán hay dạng xim bọ cạp.
5A. Cụm hoa đơn. Quả mọng chín mầu vàng hay mầu đen.
6A. Lá thường mọc thành từng cặp không đều. Quả mọng chín mầu vàng.
7A. Lá nhẵn. Cụm hoa dạng xim bọ cạp. Tràng dài 5mm. Bao phấn dài
1,5mm …. 3. S. diphyllum
7B. Lá có lông ở nách của gân mặt dưới. Cụm hoa dạng chùm. Tràng dài 8-
10mm. Bao phấn dài 3-3,5mm …. 4. S. spirale
6B. Lá đơn mọc cách. Quả mọng chín mầu đen …. 5. S. nigrum
5B. Hoa (mọc) đơn độc hoặc từng đôi. Quả mọng chín mầu đỏ …. 6. S.
pseudo-capsicum
4B. Cụm hoa kép: dạng xim bọ cạp ghép cặp, dạng xim hai ngả kép của xim bọ
cạp hay dạng chuỳ.
8A. Cụm hoa dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp. Lá nguyên hay có
thuỳ.
9A. Lá thường mọc thành từng cặp không đều. Bao phấn dính nhau ….
7. S. dulcamara
9B. Lá đơn mọc cách. Bao phấn không dính nhau.
10A. Cành và lá có lông. Lá hình bầu dục hoặc hình đàn … 8. S.
lyratum
10B. Cành và lá nhẵn. Lá hình mũi mác hoặc hình trứng hẹp …. 9. S.
pittosporifolium
8B. Cụm hoa dạng xim bọ cạp ghép cặp hay dạng chuỳ. Lá xẻ thuỳ sâu.

11A. Lá xẻ thuỳ lông chim đứt đoạn. Đài có lông tơ thưa; thuỳ đài
hình mũi mác. Quả mọng xanh hay vàng xanh … S. tuberosum
11B. Lá xẻ thuỳ hình lông chim. Đài nhẵn; thuỳ đài hình tam giác
ngắn hoặc cụt. Quả mọng đỏ …. S. seaforthianum
1B. Cây có gai, rất hiếm khi không gai. Bao phấn hình mũi mác.
12A. Quả nhỏ, hình cầu, đường kính thường nhỏ hơn 1,5cm.
13A. Đài ở quả chỉ bao bọc phần gốc quả.
14A. Cây không có gai hoặc có gai dài 1mm. Lá nguyên hoặc gần như nguyên.
15A. Cây không có gai. Thuỳ tràng hình mũi mác. Bao phấn dài 8-9mm
……. S. robinsonii
15B. Cây có gai. Thuỳ tràng hình trứng-tam giác. Bao phấn dài 4-6mm ….
13. S. nienkui
14B. Cây có gai dài hơn 1mm. Lá có thuỳ hoặc xẻ thuỳ.
16A. Cỏ bò hay leo. Cụm hoa dạng xim bọ cạp.
17A. Hoa mẫu 4. Thuỳ đài hình tam giác. Thuỳ tràng hình mũi mác …. 14.
S. procumbens
17B. Hoa mẫu 5. Thuỳ đài hình mũi mác có mũi nhọn. Thuỳ tràng hình
trứng … 15. S. trilobatum
16B. Cỏ hay bụi đứng. Cụm hoa dạng chùm đơn hay chùm phân nhánh.
18A. Cụm hoa dạng chùm phân nhánh. Tràng mầu trắng. Vòi nhuỵ nhẵn.
Quả mọng chín mầu vàng …. 16. S. torvum
18B. Cụm hoa dạng chùm đơn. Tràng mầu lam tím. Vòi nhuỵ có lông.
Quả mọng chín mầu da cam …. 17. S. violacem
13B. Đài ở quả bao bọc kín trên 1/2 quả
19A. Tràng mầu tím. Bầu có lống tuyến …. 18. S.
cyanocarphium
19B. Tràng mầu trắng. Bầu nhẵn.
20A. Lá hình trứng hẹp. Thuỳ đài hình tam giác dạng chỉ ở đỉnh. Bao
phấn dài 4-4,5mm … 20. S. neogriffithii
12B. Quả lớn, có hình dạng khác nhau, đường kính trên 1,5cm.

21A. Quả có lông. Cụm hoa dạng chùm.
22A. Đài ở quả chỉ bao bọc một ở gốc quả, không có gai … 21. S. lasiocarpum
22B. Đài ở quả bao bọc gần như toàn bộ quả, có nhiều gai … 22. S. fefox
21B. Quả nhẵn. Cụm hoa dạng xim bọ cạp hay hoa (mọc) đơn độc.
23A. Quả có vú. Chỉ có cụm hoa dạng xim bọ cạp … S. mammosum
23B. Quả không có vú. Có cả cụm hoa dạng xim bọ cạp và hoa (mọc) đơn độc.
24A. Quả chín mầu đỏ. Hạt có cánh …… 24. S. capsicoides
24B. Quả chín mầu vàng, tím hay trắng. Hạt không có cánh.
25A. Tràng xẻ thuỳ sâu. Bầu có lông …. 25. S. viarum
25B. Tràng xẻ thuỳ nông. Bầu nhẵn.
26A. Quả hình cầu, đường kính nhỏ hơn 3cm.
27A. Lá thường không có gai. Đài không có gai … 26. S. album
27B. Lá có nhiều gai. Đài có gai … 27. S. incanum
26B. Quả có nhiều hình dạng khác nhau, đường kính lớn hơn 3cm ……
28. S. melongena
6. Các loài thuộc chi Solanum L. có ở Việt Nam
Dựa trên khoá phân loại chi Solanum L. của Vũ Văn Hợp (2006) [6], chúng tôi đã
xây dựng danh sách về đặc điểm thực vật, sinh học và sinh thái, phân bố và giá trị
sử dụng của 28 loài thuộc chiSolanum L. có ở Việt Nam.
6.1. Solanum laciniatum Ait. – Cà úc
Tên khác - Cà (lá) xẻ.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 1-4m, gốc hoá gỗ và to tới 6-10 cm. Thân nhẵn, ngoại
trừ có ít lông tơ trên chóp non và búp. Lá thường mọc thành từng cặp không đều;
mép lá nguyên hay xẻ 3-5 thuỳ sâu; lá xẻ thuỳ hình trứng rộng, cỡ 12-17 x 6-13
cm; lá nguyên hình mũi mác, cỡ 10-20 x 1,5-3 cm; cuống lá dài 0,5-1,5 cm. Cụm
hoa dạng chùm, dài 8 cm, ở nách lá, ngoài nách lá hay ở đỉnh cành; cuống hoa dài
1,5-3cm. Đài dài 5-7 mm; thuỳ hình tam giác, dài 2-3 mm, dai như da, chóp có mũi
nhọn. Tràng mầu lam tím, dài 2-2,5 cm; thuỳ tròn, có khía. Chỉ nhị dạng dùi; bao
phấn hình bầu dục, dài 3-4 mm. Vòi nhuỵ dài 8 mm. Quả mọng vàng da cam, hình
trứng hoặc bầu dục, cỡ 3 x 2,5 cm, rủ xuống. Hạt gần như hình trứng, cỡ 3 x 2 mm,

dẹp.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 4-6, có quả tháng 7-9.
Phân bố: Nhập trồng ở Hà Nội (Văn Điển), Lâm Đồng (Đà Lạt) và một số nơi
khác. Nguồn gốc từ Ôxtrâylia.
Alcaloid: Solasodin, Solasonin và Solamargin (Zang Z. Y. et al. 1994) [32]
Giá trị sử dụng: Trong cây, nhất là ở quả có chứa Solasodin, nguồn hoạt chất để
chế thuốc ngừa thai [4]
6.2. Solanum erianthum D. Don – La
Tên đồng nghĩa: S. verbascifolium auct. Non L.: Bonati,. 1915.
Tên khác: La rừng, Ngoi, Cà hôi, Cà lông, Cà hoa lông, Chìa bôi, Phô bức.
Đặc điểm thực vật: Cây bụi, cao 2-4 m, có khi là cây gỗ nhỏ cao tới 10 m, có lông
hình sao. Lá hình trứng hoặc hình bầu dục, cỡ 9-29 x 5-15 cm, chóp nhọn hoặc có
mũi nhọn, gốc tròn hoặc tù, mép nguyên hoặc lượn sóng; cuống lá chắc dài 3-8 cm.
Cụm hoa dạng xim hai ngả kép của xim bọ cạp (có dạng như cụm hoa ngù) thẳng
đứng thường xuất hiện ở đỉnh cành; cuống chung to và chắc, dài 3-12 cm; cuống
hoa dài 3-5 mm. Đài hình chuông, đường kính 1 cm; thuỳ đài hình trứng, dài 3
mm. Tràng hoa mầu trắng, thuỳ tràng cỡ 6-8 x 3-4 mm. Chỉ nhị dài 1 mm; bao
phấn dài 2 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 4-6 mm. Quả mọng vàng nâu, hình cầu,
đường kính 0,8-1 cm. Hạt dẹp, đường kính 1-2 mm
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả gần như quanh năm. Mọc ở nơi đất hoang, bụi
rậm, rải rác ở ven rừng.
Phân bố: Lào cai (Đản Khao), Sơn La (Sông Mã, Mộc Châu), Tuyên Quang (Na
Hang), Cao Bằng (Trà Lĩnh, Thạch An: Đức Xuân; Trùng Khánh), Bắc Cạn (Chợ
Đồn), Lạng Sơn (Cai Kinh, Hữu Lũng, Chi Lăng), Quảng Ninh, Phú Thọ, Bắc
Giang, Hà Nội, Hà Tây (Ba Vì), Hoà Bình (Kỳ Sơn, Lạc Thuỷ: Chi Nê; Lương
Sơn, Mai Châu: Pà Cò), Hải Phòng, Hà Nam (Kim Bảng: Ba Sao), Ninh Bình (Cúc
Phương, Đồng Giao), Thanh Hoá (Bá Thước: Pù Luông), Nghệ An (Con Cuông:
Yên Khê; Nghĩa Đàn), Quảng Trị, Kon Tum (Đak Gley), Gia Lai (An Khê, Kon
Hà Nừng), Đắk Lắk (Buôn Ma Thuột), Đắk Nông (Đắk Mil), Lâm Đồng (Lạc
Dương, Đa M’Rông), Khánh Hoà (Nha Trang), Đồng Nai (Định Quán). Còn có ấn

Độ, Trung Quốc, các nước Đông Nam á, châu Đại Dương, châu Mỹ.
Alcaloid: Trong lá và quả chủ yếu chứa Solasodin. Ngoài ra, còn có Tomatodin và
Solaverbascin (M. M. Blomqvist & N. T. Ban, 1999) [14].
Giá trị sử dụng: Rễ dùng chữa đau dạ dày, phong thấp, rắn cắn, mụn nhọt ung
độc, gãy xương, bệnh bạch hầu mãn tính. Lá đắp trị viêm mủ da, loét lở, lòi dom,
hắc lào, lao hạch (Võ Văn Chi, 2003) [2]. Lá dùng chữa tiểu tiện đục và phụ nữ khí
hư (Đỗ Tất Lợi, 2005) [10].
6.3. Solanum diphyllum L. – Cà hai lá
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 0,5-1 m; thân và lá bóng. Lá mọc cách; phiến thon, cỡ
10 x 3,5 cm, đáy từ từ hẹp thành cuống, không lông, gân phụ 8-10 cặp; cuống lá
dài 3-5mm. Cụm hoa dạng xim bọ cạp, mọc đối diện với lá. Đài dài 2-2,5 mm.
Tràng mầu trắng, dài 5 mm. Nhị có bao phấn dài 1,5 mm. Quả mọng vàng, hình
cầu, đường kính 8-9 mm, nhẵn; cuống quả thẳng.
Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 3-8. Mọc rải rác ven đường, vườn, bãi hoang.
Phân bố: Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), Đồng Tháp. Còn có ở các nước
vùng nhiệt đới châu á, châu Phi và châu Mỹ.
6.4. Solanum spirale Roxb. -Chanh trường
Tên khác - Cà xoắn.
Đặc điểm thực vật: Cỏ cao 1-3 m, đôi khi hơi hoá gỗ. Lá đơn, thường mọc thành
từng cặp không đều; phiến lá hình bầu dục hẹp, cỡ 5,5-17 x 3-7 cm, chóp nhọn
hoặc có mũi nhọn, gốc nhỏ dần, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có bụi lông
ở nách của gân chính; cuống lá dài 5-15 mm. Cụm hoa dạng chùm đơn, mọc đối
diện với lá hoặc ở ngoài nách lá; cuống chung dài 3-12 mm, về sau mang những
vết sẹo cuống hoa dễ thấy; cuống hoa dài 1,5-2,5 mm, cong xuống khi ra hoa. Đài
dài 2-3 mm, có 4 hoặc 5 thuỳ; thuỳ đài hình tam giác, dài 0,5-1 mm. Tràng mầu
trắng, dài 8-10 mm, có thuỳ dài khoảng 5-7 mm. Chỉ nhị dài 1 mm; bao phấn dài 3-
3,5 mm. Bầu nhẵn; vòi nhuỵ dài 7 mm. Quả mọng vàng-da cam đậm, hình cầu,
đường kính 0,8-1,2 cm; cuống quả cong xuống. Hạt mầu vàng hoặc nâu nhạt, dạng
thận-hình đĩa, cỡ 2,5-3 mm
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 7-12. Mọc rải rác ven đường, ruộng, bãi

hoang.
Phân bố: Sơn La, Yên Bái (Nghĩa Lộ, Văn Chấn), Hà Giang (Vị Xuyên: Minh
Tân), Phú Thọ (Xuân Sơn), Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội, Hoà Bình (Đà Bắc: Núi
Biều; Kim Bôi, Kỳ Sơn, Lương Sơn, Mai Châu: Pà Cò), Lâm Đồng (Đà Lạt),
Khánh Hoà (Nha Trang). Còn có ở ấn Độ, Trung Quốc, Mianma, Lào.
Giá trị sử dụng: Quả ăn được và dùng làm gia vị. Toàn cây dùng chữa cảm mạo
phát nhiệt, ho, viêm họng, sốt rét, đau bụng, ỉa chảy, lị trực khuẩn, viêm bàng
quang, phong thấp, mụn nhọt, lở ngứa. Rễ dùng chữa kinh nguyệt không đều (Võ
Văn Chi, 2003) [2]. Lá khô sắc uống chữa đau chướng bụng, phù thũng (Đỗ Tất
Lợi, 2005) [10].
6.5. Solanum nigrum L. – Lu lu đực
Tên đồng nghĩa: S. americanum
S. photeinocarpum Nakam. & Odash.
Tên khác: Thù lù đực, Cà đen, Nụ áo, Nút áo, Gia cầu, Thiên già nhi miêu, Cà trái
dự.
Đặc điểm thực vật: Cỏ hàng năm, cao 30-100 cm, nhẵn hoặc có lông tơ. Lá đơn
mọc cách, mỏng như giấy, hình trứng, cỡ 3-11 x 1,5-6,5 cm, chóp nhọn, gốc hình
nêm thót dần tới cuống, mép nguyên hoặc có răng thưa, nhẵn hoặc có lông tơ;
cuống lá dài 1-1,5 cm. Cụm hoa gần như dạng tán, mọc ở ngoài nách lá; cuống
chung dài 1-2,5 cm; cuống hoa dài 5-10 mm. Đài hình chén, dài 1,5-2 mm, xẻ tới
gần nửa; thuỳ hình trứng, có lông tơ ở mặt ngoài. Tràng mầu trắng, hiếm khi tím,
dài 3-5 mm, xẻ thuỳ tới một nửa hoặc hơn; thuỳ tràng hình trứng thuôn, ở mặt

×