1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO CHO VAY
DOANH NGHIỆP TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về cho vay doanh nghiệp
1.1.1.
Khái niệm cho vay doanh nghiệp
Các NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, do vậy mọi hoạt động kinh doanh của
chúng đều phải đem lại doanh thu. Một trong những hình thức kinh doanh tạo nguồn
thu lớn nhất cho các NHTM là hoạt động cho vay doanh nghiệp. Thuật ngữ chung về
cho vay của NHTM xuất hiện trên nhiều tài liệu, như:
PGS.TS Mai Văn Bạn, Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Đại học
Thăng Long, Nhà xuất bản Tài chính, năm 2009 đưa ra khái niệm cho vay của NHTM
như sau: “Cho vay của NHTM là việc chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
NHTM (người sở hữu) sang khách hàng vay (người sử dụng) sau một thời gian nhất
định quay trở lại NHTM với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Hay có thể
hiểu cho vay của NHTM là quan hệ giữa một bên là người cho vay (NHTM) bằng cách
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên người vay (khách hàng vay) để sử dụng trong
một thời gian nhất định với cam kết của người vay là hoàn trả cả gốc và lãi khi đến
hạn.”
Trong Luật các tổ chức tín dụng, số 47/2010/QH12 do Quốc hội ban hành giải
thích từ ngữ cho vay như sau: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay
giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định đã thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi.”
Nói chung, cho vay của NHTM được hiểu là hình thức cấp tín dụng của NHTM đối
với các đối tượng đi vay với mục đích xác định trong thời hạn cho vay theo thỏa thuận
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Cho vay của NHTM bao gồm một danh mục
các sản phẩm đa dạng như cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng; cho vay ngắn, trung
và dài hạn; cho vay theo món, cho vay theo hạn mức tín dụng; cho vay trực tiếp, cho
vay gián tiếp; cho vay có đảm bảo bằng tài sản, cho vay tín chấp. Tuy vậy, hoạt cho
vay chủ yếu của các NHTM tập trung vào đối tượng các doanh nghiệp. Khối lượng
cho vay doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ cho vay của các
NHTM. Dựa vào tính chất của đối tượng, cho vay doanh nghiệp được hiểu như sau:
Cho vay doanh nghiệp là một hình thức cho vay của NHTM, theo đó NHTM giao hoặc
cam kết giao cho doanh nghiệp một khoản tiền để sử dụng vào mục đích sản xuất –
kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn
trả cả gốc và lãi.
Thang Long University Library
2
1.1.2.
Đặc điểm của cho vay doanh nghiệp
Hoạt động cho vay doanh nghiệp có một số đặc điểm như sau:
Số lƣợng nhỏ nhƣng dƣ nợ lớn: Số lượng khách hàng doanh nghiệp vay vốn tại
NHTM thường chiếm tỷ trọng thấp, nhưng dư nợ cho vay doanh nghiệp luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của NHTM; vì nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp cao. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp thì DNCVDN thường lớn.
Đối tƣợng khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp: Hoạt động cho vay doanh
nghiệp của các NHTM hướng tới các chủ thể khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp
hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trừ những đối tượng mà pháp luật cấm.
Mục đích vay vốn là để phục vụ sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp: Có
điều này là do các doanh nghiệp là các tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện
hoạt động sản xuất, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Các NHTM cấp vốn cho doanh
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để phục vụ sản xuất, kinh doanh; dịch vụ, đầu tư
phát triển, không phục vụ mục đích tiêu dùng của doanh nghiệp.
Thời gian cho vay doanh nghiệp đa dạng, bao gồm: cho vay ngắn hạn, trung
và dài hạn. Các NHTM và doanh nghiệp thoả thuận thời hạn cho vay căn cứ vào chu
kỳ sản xuất- kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của phương án/dự án đầu tư, khả năng
trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của NHTM.
Loại tiền cho vay doanh nghiệp của các NHTM: Do mục đích sử dụng vốn của
doanh nghiệp đa dạng, có thể vay vốn để thanh toán công nợ trong nước hoặc cũng có
thể là công nợ với nước ngoài nên loại tiền mà NHTM cho doanh nghiệp vay bao gồm
cả nội tệ và ngoại tệ.
Quy mô khoản vay đa dạng: Phụ thuộc vào nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp,
các NHTM cấp các khoản vay với quy mô lớn, vừa và nhỏ.
Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay cụ thể được NHTM và doanh nghiệp thỏa
thuận theo phương thức lãi suất cố định trong suốt thời gian vay vốn hoặc lãi suất cho
vay có điều chỉnh, phù hợp với quy định của NHTM và pháp luật trong từng thời kỳ.
Nguồn trả nợ từ hiệu quả sử dụng vốn vay: Tùy thuộc vào thời hạn của khoản
vay mà nguồn trả nợ của doanh nghiệp là khác nhau, cụ thể với các khoản vay ngắn
hạn thì nguồn trả nợ của doanh nghiệp lấy từ doanh thu bán hàng; đối với các khoản
vay trung và dài hạn, nguồn trả nợ lấy từ lợi nhuận sau thuế và khấu hao của doanh
nghiệp.
3
1.1.3.
Vai trò của cho vay doanh nghiệp
Đứng trên góc độ vĩ mô, NHTM đóng vai trò là cầu nối của nền kinh tế thông qua
hai nghiệp vụ chính là huy động vốn và cho vay. NHTM nhận tiền từ nơi thừa vốn, có
thể là các cá nhân, tổ chức,… thông qua huy động vốn để đưa đến nơi thiếu vốn, có thể
là cá nhân, tổ chức, hộ gia đình,… thông qua hoạt động cho vay. Để đạt được chức
năng trung gian này, hoạt động quan trọng phải kể đến là cho vay doanh nghiệp.
NHTM cấp vốn cho các doanh nghiệp với mức lãi suất nhất định, nhằm phát triển các
hoạt động sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng các doanh nghiệp, tạo ra của cải
cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, các NHTM cho các doanh nghiệp vay vốn nhằm tăng
sức mạnh tài chính để mở rộng ứng dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến, đầu tư các dây
chuyền sản xuất hiện đại, cải thiện quy trình sản xuất, kinh doanh làm tăng hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Nhìn chung, hoạt động cho vay doanh nghiệp của các NHTM có
mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật.
Đối với phạm vi thu hẹp, hoạt động cho vay doanh nghiệp của các NHTM có vai
trò quan trọng đối với cả bên cho vay và bên đi vay. Trước hết, vai trò của hoạt động
cho vay đối với bên đi vay. Các doanh nghiệp được đáp ứng về nhu cầu vốn để mở
rộng quy mô hay tiếp tục hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình. Hơn nữa, khi
tham gia vào HĐTD, doanh nghiệp phải cam kết trả nợ gốc và lãi đúng hạn; điều này
thúc đẩy doanh nghiệp nỗ lực trong hoạt động kinh doanh của mình để tạo ra lợi nhuận
tối đa sau khi bù đắp các chi phí, phục vụ nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước và trả nợ
cho ngân hàng đúng hạn. Có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh giúp cho doanh
nghiệp đầu tư vào cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng nhân sự làm tăng hiệu quả
kinh doanh. Bên cạnh đó, làm giảm khả năng doanh nghiệp đi vay vốn trên thị trường
chợ đen, gây mất ổn định thị trường. Hoạt động cho vay doanh nghiệp không chỉ đem
lại lợi ích cho bên đi vay, nó còn là nguồn thu chính của các ngân hàng thông qua việc
thu lãi vay giúp bù đắp chi phí huy động và các chi phí khác, cũng như mang lại thu
nhập chính cho ngân hàng.
1.1.4.
Phân loại cho vay doanh nghiệp
Cho vay doanh nghiệp là sản phẩm tín dụng phổ biến của các NHTM hiện nay. Phụ
thuộc vào quy mô, loại hình kinh doanh và nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp mà
ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay khác nhau.
(1) Căn cứ vào tiêu chí thời gian: Cho vay doanh nghiệp được phân thành cho
vay doanh nghiệp ngắn hạn, trung và dài hạn. Dưới đây là đặc điểm cụ thể của từng
loại cho vay doanh nghiệp dựa trên tiêu chí thời gian:
Cho vay doanh nghiệp ngắn hạn: Là các khoản cho vay doanh nghiệp có thời hạn
tới 12 tháng nhằm cung ứng vốn cho doanh nghiệp để sản xuất - kinh doanh. Đây là
Thang Long University Library
4
phương thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn thường xuyên hay nhu cầu vốn theo
đặc điểm sản xuất kinh doanh có tính mùa vụ. Phần lớn các khoản cho vay này đều có
thế chấp hoặc cầm cố TSBĐ.
Cho vay doanh nghiệp trung và dài hạn: Là hình thức cho vay doanh nghiệp của
NHTM có thời hạn trên 12 tháng. Vốn cho vay trung và dài hạn gắn liền với quá trình
luân chuyển vốn cố định của doanh nghiệp hay tài trợ về vốn thiếu hụt cho doanh
nghiệp. Đây là phương thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tài trợ cho TSCĐ và tài
sản lưu động thường xuyên hay nhu cầu tài trợ cho các dự án riêng biệt.
(2) Căn cứ vào phƣơng thức cho vay, cho vay doanh nghiệp được phân thành hai
hình thức như sau:
Cho vay doanh nghiệp từng lần (Cho vay doanh nghiệp theo món): Là hình thức
cho vay phổ biến của NHTM đối với doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn thường
xuyên, doanh nghiệp có nhu cầu vay từng lần hoặc ngân hàng xét thấy phải áp dụng
loại cho vay này để giám sát việc sử dụng vốn chặt chẽ hơn. Đây là hình thức cho vay
doanh nghiệp của NHTM mà theo đó làm một bộ hồ sơ vay một lần nhất định với mức
vay NHTM và doanh nghiệp thoả thuận. Số tiền cho vay được xác định căn cứ vào nhu
cầu vay vốn của doanh nghiệp, giá trị TSBĐ, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, khả
năng nguồn vốn của ngân hàng, giới hạn cho vay của pháp luật và của NHTM.
Cho vay doanh nghiệp theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay theo đó
ngân hàng thỏa thuận cung cấp cho doanh nghiệp hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng
là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và
doanh nghiệp đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay. Căn cứ để cho vay doanh nghiệp
là kế hoạch tài chính của doanh nghiệp, cụ thể là dự báo về tài sản và vốn của doanh
nghiệp.
(3) Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, cho vay doanh nghiệp được phân thành
hai hình thức như sau:
Cho vay doanh nghiệp bổ sung vốn lưu động: Là hình thức cho vay nhằm đáp
ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động để thanh toán các chi phí phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh hoặc có nhu cầu mở rộng quy mô hoạt động nhưng nguồn vốn lưu
động bị thiếu hụt của doanh nghiệp. Thời hạn cho vay tối đa 12 tháng.
Cho vay doanh nghiệp theo dự án đầu tư: Là phương thức cho vay nhằm hỗ trợ
tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư các dự án mới, các dự án nâng cấp,
mở rộng sản xuất kinh - doanh; giúp các doanh nghiệp thuận lợi trong việc triển khai
hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ hoặc mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mình. NHTM cho vay dựa trên dự án đầu tư do doanh nghiệp lập,
5
chủ yếu tài trợ cho việc hình thành nên TSCĐ, dự án có độ phức tạp cao. Quy mô
khoản vay thường lớn và rủi ro trong hoạt động cho vay thường cao. Nguồn trả nợ của
các doanh nghiệp là từ hiệu quả sử dụng vốn vay, như lợi nhuận sau thuế, khấu hao.
(4) Căn cứ vào loại đồng tiền cho vay, cho vay doanh nghiệp bao gồm:
Cho vay doanh nghiệp bằng nội tệ: Là hình thức NHTM cho doanh nghiệp vay
vốn bằng đồng nội tệ của quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp để
sản xuất, kinh doanh trong nước.
Cho vay doanh nghiệp bằng ngoại tệ: Là hình thức NHTM cho doanh nghiệp vay
vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ. Chẳng hạn, cho vay ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn để doanh nghiệp thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng
hóa, dịch vụ khi doanh nghiệp vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để
trả nợ vay; cho vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu vốn ở trong nước nhằm thực hiện
phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới quốc gia
mà doanh nghiệp vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay; cho vay để
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các dự án, công trình quan trọng quốc gia,…
1.1.5.
Nguyên tắc cho vay doanh nghiệp
(1) Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay
doanh nghiệp. Doanh nghiệp vay vốn phải thực hiện nguyên tắc này vì mục đích sử
dụng vốn vay là cơ sở để ngân hàng thẩm định và đưa ra quyết định cho vay doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích mới đảm bảo nguồn trả nợ
cho ngân hàng. Đồng thời mục đích sử dụng vốn vay cũng là cơ sở để ngân hàng tiến
hành thẩm định, giám sát khoản vay trong quá trình doanh nghiệp sử dụng vốn. Đó
cũng là cơ sở để ngân hàng xử lý khoản vay khi doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục
đích.
Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng
cho vay doanh nghiệp. Nguồn vốn đi vay của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn huy
động, vì ngân hàng là người “đi vay để cho vay”. Do vậy việc thu hồi nợ gốc và lãi là
yếu tố quan trọng, quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thu đủ gốc và
lãi nhằm giúp ngân hàng bù đắp được chi phí huy động vốn, các chi phí khác phát sinh
trong quá trình CVDN, chi phí quản lý kinh doanh và tạo ra một phần thu nhập cho
NHTM. Vì vậy, ngân hàng phải xác định thời hạn trả nợ của doanh nghiệp trong hợp
đồng cho vay. Đồng thời, ngân hàng phải thường xuyên theo dõi, giám sát, đốc thúc
doanh nghiệp trả nợ. Nếu ngân hàng không thu hồi được nợ sẽ dẫn đến giảm khả năng
thanh toán và nguy cơ phá sản.
Thang Long University Library
6
1.1.6.
Các biện pháp đảm bảo tiền vay cho vay doanh nghiệp
Biện pháp đảm bảo tiền vay là hệ thống các biện pháp NHTM đặt ra nhằm tạo cơ
sở kinh tế, pháp lý giúp ngân hàng thu hồi đủ nợ gốc và lãi trong tương lai. Các biện
pháp đảm bảo tiền vay giúp giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động cho vay, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, kích thích hoạt động cho vay của các NHTM.
Có hai biện pháp đảm bảo tiền vay là: đảm bảo tiền vay bằng tài sản và đảm bảo tiền
vay không bằng tài sản.
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản: Là việc NHTM yêu cầu doanh nghiệp vay vốn
phải có tài sản để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của mình trong thời gian vay vốn tại
ngân hàng; đảm bảo tiền vay bằng tài sản bao gồm các biện pháp: cầm cố, thế chấp
bằng tài sản của doanh nghiệp vay; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Đảm bảo
tiền vay bằng tài sản cụ thể như sau:
Cầm cố bằng tài sản của doanh nghiệp: Là việc doanh nghiệp (bên cầm cố) giao
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho NHTM (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ vay của mình bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn (nếu
có). Giao dịch cầm cố có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận
cầm cố. Tài sản cầm cố gồm: Đồng nội tệ, ngoại tệ, số dư trên tài khoản tiền gửi, trái
phiếu, tín phiếu, thương phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ
khác có giá trị như tiền; nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá quý và các
vật có giá khác (là tài sản không phải là bất động sản); tài sản hình thành trong tương
lai. Trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản bảo hiểm cũng thuộc tài sản
cầm cố.
Thế chấp bằng tài sản của doanh nghiệp: Là việc doanh nghiệp (bên thế chấp)
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với
NHTM (bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Trong hoạt động cho vay doanh nghiệp của ngân hàng, đây là biện pháp bảo đảm được
sử dụng phổ biến hơn cả. Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có
vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Tài sản
thế chấp gồm: tài sản là bất động sản; tài sản là động sản; tài sản là hoa lợi, lợi tức; tài
sản hình thành trong tương lai.
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Là việc bên bảo lãnh cam kết với NHTM
về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của mình để thực
hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho doanh nghiệp đi vay, nếu đến hạn trả nợ mà doanh
nghiệp thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, bao gồm các tài sản theo quy định về
việc cầm cố tài sản hoặc thế chấp tài sản nêu trên. Các bên cũng có thể thoả thuận về
việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả
7
năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Không phải lúc nào bên đi vay cũng có đủ tài sản
để cầm cố hay thế chấp đảm bảo trả nợ khi đến hạn. Do vậy, quy định mở về sự tham
gia của bên thứ ba sẽ giúp cho nhiều tổ chức, cá nhân có khả năng được vay vốn, tháo
gỡ khó khăn, còn bên bảo lãnh cũng không bị ràng buộc quá nhiều trách nhiệm pháp lý
theo luật khi giao kết giao dịch bảo đảm
Đảm bảo tiền vay không bằng tài sản hay còn gọi là tín chấp: NHTM lựa chọn
cho vay doanh nghiệp không bảo đảm bằng tài sản trong trường hợp doanh nghiệp đi
vay có quan hệ tín dụng tốt với các NHTM, hiệu quả sử dụng vốn cao, khả năng trả nợ
tương đối chắc chắn, sẽ được NHTM xem xét cho vay mà không yêu cầu khách hàng
phải có đảm bảo bằng tài sản. Việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập
thành văn bản có ghi rõ số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất, quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm của người vay, NHTM cho vay và tổ chức bảo đảm.
1.1.7.
Quy trình cho vay doanh nghiệp
Quy trình cho vay doanh nghiệp là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân
hàng trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp; cụ thể như sau:
Sơ đồ 1.1. Quy trình cho vay doanh nghiệp tại NHTM
(Nguồn: Tự tổng hợp)
Bƣớc 1: Thiết lập hồ sơ cho vay doanh nghiệp
Hồ sơ CVDN của một ngân hàng là tài liệu bằng văn bản, biểu hiện mối quan hệ
tổng thể của ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn. Chất lượng cho vay phụ thuộc rất
lớn vào sự hoàn chỉnh và chính xác của hồ sơ cho vay. Vì vậy, khi thiết lập một hồ sơ
cho vay phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố:
Thiết lập hồ sơ
cho vay
Thu thập thông
tin tín dụng
Phân tích cho
vay
Quyết định cho
vay doanh
nghiệp
Giải ngân cho
doanh nghiệp
Kiểm tra, giám
sát vả xử lý vốn
vay
Thanh lý hợp
đồng tín dụng
Thang Long University Library
8
- Các thông tin cơ bản về doanh nghiệp vay vốn;
- Thông tin về tài chính hiện tại của doanh nghiệp vay vốn;
- Lịch sử tài chính của doanh nghiệp vay vốn;
- Thông tin về mục đích vay vốn;
- Phương hướng hoạt động kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp;
- Đánh giá, nhận xét của ngân hàng và doanh nghiệp về việc vay vốn và trả nợ;
- Những thông báo của ngân hàng cho doanh nghiệp;
- Báo cáo về kết quả kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay.
Tùy vào từng loại cho vay, kỹ thuật cho vay và quy mô của các khoản cho vay mà
NHTM quy định việc thiết lập bộ hồ sơ cho phù hợp. Bộ hồ sơ cho vay doanh nghiệp
thường bao gồm các loại sau:
Hồ sơ pháp lý: Là hồ sơ chứng minh cho ngân hàng biết về năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự của doanh nghiệp vay vốn, bao gồm:
- Quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp;
- Điều lệ của doanh nghiệp;
- Quyết định bổ nhiệm tổng giám đốc (giám đốc, kế toán trưởng), quyết định công
nhận Ban quản trị;
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
- Giấy phép hành nghề;
- Giấy phép đầu tư (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài);
- Hợp đồng liên doanh (đối với doanh nghiệp liên doanh);
- Quyết định giao vốn và cá văn bản bàn giao tài sản của Cục quản lý vốn và tài sản
Nhà nước tại doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp Nhà nước).
Hồ sơ dự án (đối với cho vay trung và dài hạn): Là hồ sơ tập hợp các tài liệu có
tính xác thực và minh bạch theo quy định của pháp luật nhằm cung cấp cho ngân hàng
những thông tin về dự án của doanh nghiệp vay vốn, bao gồm:
- Quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hoặc giấy phép đầu tư của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền;
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật và phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền;
- Thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán đã được phê duyệt;
- Ý kiến của cơ quan quản lý ngành, cơ quan chuyên môn, chính quyền sở tại và của
Chính phủ về dự án;
- Nghị quyết của hội đồng quản trị, sáng lập viên về việc đầu tư của dự án;
- Các hồ sơ khác có liên quan được pháp luật quy định.
9
Hồ sơ kinh tế: Là hồ sơ tập hợp các tài liệu có tính xác thực và minh bạch theo
quy định của pháp luật nhằm cung cấp cho ngân hàng những thông tin khái quát về kế
hoạch sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính cùng các tài liệu khác chứng minh năng
lực hoàn trả vốn vay của doanh nghiệp; bao gồm:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ;
- Bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh kỳ trước liền kề với
kỳ vay vốn;
- Báo cáo thực hiện sản xuất kinh doanh kỳ trước liền kề với kỳ vay vốn;
- Giấy đề nghị vay vốn;
- Dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ;
- Bản sao hợp đồng mua hàng hoặc báo giá, phiếu nhập kho, các chứng từ thanh toán
(nếu có).
Hồ sơ đảm bảo tiền vay: Là những giấy tờ pháp lý chứng minh quyền sở hữu tài
sản mà dự định dùng để cầm cố, thế chấp tại NHTM hay giấy tờ chứng minh quyền sở
hữu tài sản, chứng năng lực pháp lý, năng lực tài chính của người bảo lãnh, bao gồm:
- Bản sao giấy tờ sở hữu, sử dụng hợp pháp tài sản như giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở, tờ khai lệ phí trước bạ, hợp đồng mua bán,…
- Các giấy tờ khác chứng minh về nguồn hình thành và giá trị tài sản, như hợp đồng
mua bán, hóa đơn Giá trị gia tăng,…
- Trường hợp dùng tài sản cá nhân để đảm bảo cho doanh nghiệp vay vốn yêu cầu
phải có: bản sao Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu, hộ khẩu của người có tài sản
(cả vợ và chồng); bản sao Đăng ký kết hôn hoặc Giấy khai sinh của con (nếu hai vợ
chồng không cùng hộ khẩu),…
- Biên bản định giá TSBĐ.
Hồ sơ tham khảo khác:
- Thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN;
- Hợp đồng tín dụng với các ngân hàng khác, các giấy tờ tham khảo khác (nếu có);
- Bảng chấm điểm khách hàng doanh nghiệp.
Bƣớc 2: Thu thập thông tin tín dụng
Để hạn chế tối đa rủi ro trong quá trình cho vay, bên cạnh việc thiết lập hồ sơ cho
vay, NHTM cần phải thu thập thêm thông tin tín dụng của doanh nghiệp từ các nguồn
như thông tin lưu tại ngân hàng, thông tin từ cơ quan Nhà nước, thông tin từ phía đối
tác của doanh nghiệp và thông tin từ phương tiện thông tin đại chúng. Các thông tin đó
có trên các tài liệu như:
Thang Long University Library
10
- Tài liệu thuyết minh về việc vay vốn như kế hoạch hoặc phương án sản xuất kinh
doanh, giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, các hợp đồng cung cấp, tiêu thụ sản
phẩm;
- Các tài liệu kế toán: Bảng tổng kết tài sản, bản thuyết minh về tình hình công nợ,
bản giải trình về kết quả kinh doanh, bản phân tích chi tiết về lỗ, lãi;
- Các tài liệu liên quan đến đảm bảo tín dụng;
- Ngoài ra, ngân hàng còn dựa vào các thông tin khác như: phỏng vấn trực tiếp người
vay, thông tin qua hồ sơ lưu trữ về người vay tại ngân hàng, thông tin từ các doanh
nghiệp có quan hệ kinh tế với người vay, thông tin của trung tâm CIC,…
- Các nguồn thông tin phi tài chính: Các mục thông tin trên báo, các tạp chí thương
mại, báo cáo tổng hợp, báo cáo cổ đông, báo cáo của các nhà tư vấn,…
- Các nguồn thông tin tài chính: Báo cáo kế toán thường niên, báo cáo kế toán tạm
thời, các dự báo về vốn luân chuyển, doanh thu, lợi nhuận; các báo cáo của cơ quan
xếp hạng tín nhiệm,…
Bƣớc 3: Phân tích cho vay doanh nghiệp
Bản chất của hoạt động CVDN là rủi ro không thể tránh khỏi. Vì vậy, NHTM chỉ
có thể tiến hành các biện pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế các rủi ro; giảm thiểu tối đa
các tổn thất mà rủi ro xảy ra có thể gây ra. Do đó, trong quá trình CVDN, trước khi ra
quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp NHTM phải tiến hành thẩm định năng lực
tài chính, khả năng trả nợ, triển vọng phát triển của khách hàng một cách chi tiết,
chính xác.
Cơ sở để tiến hành phân tích, thẩm định là các hồ sơ tài liệu do doanh nghiệp
cung cấp và dựa trên các khảo sát thực tế như kiểm tra thực tế tình hình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, TSBĐ và các vấn đề khác có liên quan, các nguồn thông tin
khác,…
Nội dung thẩm định, phân tích thƣờng bao gồm:
Thẩm định chung về khách hàng doanh nghiệp: CBTD tìm hiểu chung về doanh
nghiệp, tư cách pháp lý, mô hình tổ chức, cơ cấu lao động, khả năng quản trị, điều
hành của ban lãnh đạo công ty.
Phân tích tình hình quan hệ với ngân hàng: Xem xét quan hệ tín dụng, quan hệ
tiền gửi và các quan hệ khác giữa doanh nghiệp và ngân hàng.
Thẩm định khả năng tài chính: Kiểm tra tính chính xác của BCTC, tiến hành đối
chiếu các khoản mục cơ bản trong bản tổng kết tài sản, BCKQKD: khoản mục các
khoản phải thu, hàng tồn kho, các khoản vay, các khoản thanh toán lớn, khấu hao tài
sản,… Phân tích tình hình công nợ, hàng tồn kho, các khoản phải thu,…
11
Phân tích cơ cấu tài sản/nguồn vốn
Phân tích đánh giá các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp
Thẩm định về thị trường: Tình hình thị trường, ngành hàng chung; thị trường đầu
vào của doanh nghiệp; thị trường đầu ra của sản phẩm; đánh giá thị phần và đối thủ
cạnh tranh.
Phân tích nhu cầu vốn:
- Tính khả thi của tiêu thụ hàng hóa và hiệu quả của phương án kinh doanh;
- Tỷ suất lợi nhuận có phù hợp với tình hình hoạt động hiện tại và ngành nghề kinh
doanh của doanh nghiệp;
- Đánh giá tính khả thi của nguồn trả nợ vay từ phương án và nguồn trả nợ bổ sung;
- Phân tích kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp như đánh giá kế hoạch doanh thu,
sản lượng, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp trong 12 tháng tới so với tình hình
hoạt động kinh doanh hiện tại; căn cứ đánh giá các hợp đồng đã ký kết và dự kiến ký,
tốc độ tăng trưởng của ngành hàng, dịch vụ đó, khả năng đạt được kế hoạch đề ra;
đánh giá sự thay đổi của thị trường đầu vào,…
- Tính toán nhu cầu vốn lưu động trong kỳ kế hoạch, bao gồm: đánh giá vòng quay
vốn lưu động, cơ cấu vốn tham gia trong tổng nhu cầu vốn; đánh giá tính hợp lý của
nhu cầu vốn vay.
Phân tích nguồn trả nợ: Xác định dự kiến các nguồn trả nợ cho ngân hàng, thuyết
minh nguồn trả nợ bổ sung (nếu có); các nguồn trả nợ phải đảm bảo khả năng trả nợ
đầy đủ, đúng hạn; đề xuất các biện pháp theo dõi, quản lý nguồn trả nợ của doanh
nghiệp nhằm hạn chế rủi ro CVDN,…
Thẩm định biện pháp đảm bảo tiền vay và các vấn đề liên quan đến TSBĐ
Các nội dung và yêu cầu cụ thể về thẩm định đối với từng đối tượng doanh nghiệp
được thực hiện theo hướng dẫn của lãnh đạo.
Bƣớc 4: Quyết định cho vay doanh nghiệp
Đối với khoản vay nhỏ ngân hàng thường giao quyền cho lãnh đạo ngân hàng
quyết định, đối với những khoản vay lớn thuộc quyền phán quyết của Hội đồng tín
dụng. Trường hợp này CBTD trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn có trách nhiệm kiểm tra
tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ và thẩm định các điều kiện vay vốn của hồ sơ, đánh
giá điểm mạnh, điểm yếu và phải đưa ra được ý kiến có nên cho vay hay không cho
vay và lập trờ trình lãnh đạo ngân hàng. Trên cơ sở hồ sơ vay vốn và tờ trình của
CBTD, lãnh đạo ngân hàng xem xét, kiểm tra lại hồ sơ vay vốn và tờ trình để ra quyết
định cho vay hay không cho vay. Nếu hồ sơ vay vốn bị từ chối thì cũng phải thông báo
cho khách hàng biết lý do từ chối cho vay. Nếu yêu cầu vay vốn được chấp thuận thì
Thang Long University Library
12
lãnh đạo ngân hàng cùng doanh nghiệp tiến hành ký HĐTD và hợp đồng đảm bảo tiền
vay (nếu có).
Bƣớc 5: Giải ngân cho doanh nghiệp
Sau khi HĐTD được ký kết, có hiệu lực, các bên có trách nhiệm phải thực hiện
đúng cam kết đã ký kết. Mỗi HĐTD có thể thực hiện giải ngân tiền vay một lần hay
nhiều lần phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Mỗi lần
nhận tiền vay, doanh nghiệp phải xác nhận nợ (lập giấy nhận nợ). Tiền vay có thể
được giải ngân bằng nhiều hình thức như tiền mặt, chuyển khoản,… theo thỏa thuận
của các bên trong hợp đồng.
Bƣớc 6: Kiểm tra, giám sát và xử lý vốn vay
Quá trình kiểm tra, giám sát sau cho vay là công việc rất quan trọng, nhằm phát
hiện những sai sót trong quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp; những thay đổi
về năng lực tài chính và TSBĐ của doanh nghiệp để đảm bảo vốn vay được sử dụng
đúng mục đích và đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Đó là cơ sở chắc chắn để doanh
nghiệp có nguồn trả nợ cho ngân hàng. Nếu xảy ra những sai sót, ngân hàng phải tiến
hành các biện pháp xử lý kịp thời.
Bƣớc 7: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Khi ngân hàng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi của doanh nghiệp thì tiến hành tất toán
khoản vay, thanh lý hợp đồng tín dụng; giải tỏa các hợp đồng bảo đảm tiền vay như
hoàn trả TSBĐ,… và CBTD doanh nghiệp thực hiện lưu trữ, quản lý hồ sơ theo quy
định của NHTM.
1.2. Khái quát về rủi ro cho vay doanh nghiệp trong ngân hàng thƣơng mại
1.2.1.
Khái niệm rủi ro cho vay doanh nghiệp
Môi trường kinh doanh là luôn luôn biến động, thị trường kinh doanh ngân hàng lại
luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Một trong những hoạt động chính đem lại nguồn lợi cho
ngân hàng là hoạt động cho vay. Tuy vậy, nghiệp vụ này đem lại nhiều rủi ro cho ngân
hàng. Để hiểu được rủi ro CVDN là thế nào, tổn thất do nó gây ra có ảnh hưởng gì,
trước tiên cần hiểu được bản chất của hai từ rủi ro. Theo định nghĩa truyền thống, rủi
ro là những sự kiện xảy ra có thể làm cho mất mát tài sản hay làm phát sinh một
khoản nợ. Định nghĩa hiện đại lại cho rằng rủi ro bao hàm nghĩa rộng hơn, tức rủi ro
còn có tính tích cực và không chỉ tính đến rủi ro tài chính mà còn bao gồm cả những
rủi ro liên quan đến mục tiêu hoạt động và mục tiêu chiến lược. Hay rủi ro là khả năng
những sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể không đạt được
những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như những chi phí cơ hội của
việc làm mất những cơ hội. Tóm lại có thể hiểu một cách đơn giản, rủi ro là những sự
13
kiện bất ngờ, không mong đợi, nếu nó xuất hiện thường gây ra những tổn thất, nhưng
cũng đem lại những lợi ích, những cơ hội.
Như đã nói, bản chất của hoạt động ngân hàng là chấp nhận rủi ro. Các ngân hàng
cần phải đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra
những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Ngân hàng
sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được
trong phạm vi nguồn lực tài chính của ngân hàng. Rủi ro rất đa dạng và được phân
chia theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi hoạt động của ngân hàng, có
những rủi ro cơ bản như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro
danh tiếng, rủi ro chiến lược, rủi ro hoạt động và rủi ro tập trung. Trong phạm vi khóa
luận này, tác giả tập trung đề cập đến rủi ro trong CVDN, một mảng chính trong rủi ro
tín dụng. Dựa trên bản chất của rủi ro, có thể hiểu rủi ro cho vay doanh nghiệp là rủi
ro phát sinh khi ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn mà không thu được gốc và lãi
đúng hạn, hoặc chỉ thu được một phần gốc và lãi, hoặc không thu được cả gốc và lãi
của khoản cho vay đó. Rủi ro cho vay doanh nghiệp có thể dẫn đến tổn thất lớn cho
NHTM, vì nghiệp vụ cho vay doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ
cho vay.
1.2.2.
Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho vay doanh nghiệp
Trên thực tế hoạt động CVDN của NHTM thời gian qua cho thấy rủi ro CVDN xảy
ra xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp vay vốn: Đây được coi là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến rủi ro CVDN và thường xuất phát từ việc doanh nghiệp mất khả năng trả
nợ hay cố ý chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Trường hợp doanh nghiệp mất khả năng trả nợ do kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng
hóa không tiêu thụ được dẫn đến không hình thành được nguồn trả nợ đầy đủ cho ngân
hàng. Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn vay sai mục đích, mạo hiểm đầu tư vào những
hoạt động sản xuất, kinh doanh nhiều rủi ro với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao nhưng
không có khả năng tính toán trước những bất trắc có thể xảy ra khiến cho việc kinh
doanh liều lĩnh trở nên thất bại, hay kém hiệu quả nên khả năng gây ra tổn thất với
ngân hàng là rất lớn. Ngoài ra, một số nguyên nhân dẫn đến giảm khả năng trả nợ của
doanh nghiệp là do chủ doanh nghiệp thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo; hay
mất đoàn kết trong hội đồng quản trị, ban điều hành khiến cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Trường hợp doanh nghiệp cố ý lừa đảo, chiếm dụng vốn vay của ngân hàng. Để đạt
được mục tiêu tiếp cận vốn vay giá rẻ của NHTM, các doanh nghiệp sẵn sàng tìm mọi
thủ đoạn để ứng phó với các quy định, yêu cầu của ngân hàng như mua chuộc CBTD;
Thang Long University Library
14
làm giả BCTC, và cung cấp nhiều thông tin sai lệch hay sử dụng một TSBĐ đi thế
chấp vay nhiều ngân hàng,… Khi doanh nghiệp cố ý lừa đảo, các CBTD rất khó phát
hiện nên thường đánh giá sai về khả năng tài chính, nhu cầu vay vốn và thời hạn sử
dụng vốn của doanh nghiệp dẫn đến cho vay không hợp lý, là mầm mống tiềm ẩn
nhiều rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng. Ngoài ra, có trường hợp doanh nghiệp cố ý
chiếm dụng vốn vay của NHTM, khi doanh nghiệp có lãi song vẫn không trả nợ cho
ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định tiếp tục không trả nợ hoặc kéo dài
thời gian sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng: Đây được xem là nguyên nhân nội tại do chính
bên cho vay mắc sai lầm khi tiến hành CVDN.
Thứ nhất phải nhắc đến là ngân hàng đưa ra chính sách tín dụng không hợp lý dẫn
đến doanh nghiệp lợi dụng những sơ hở nhằm chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
Thứ hai, do sự yếu kém của CBTD cả về năng lực và phẩm chất đạo đức; buông
lỏng kiểm soát nội bộ hoạt động CVDN. Một CBTD non kém về trình độ, thiếu kiến
thức, thiếu kinh nghiệm, thiếu am hiểu thị trường, về đặc điểm loại hình doanh nghiệp,
ngành nghề kinh doanh thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh
giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay, lãi suất và kỳ hạn vay không phù hợp; dẫn
đến chất lượng CVDN thấp, khả năng dẫn đến rủi ro cao. Ngoài ra, nếu CBTD không
tuân thủ theo đúng quy trình CVDN như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay
không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy
ra. Hơn nữa, CBTD mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị
cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối
quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục
cần thiết. Đây chính là hậu quả của việc ngân hàng buông lỏng công tác kiểm tra nội
bộ với hoạt động CVDN.
Thứ ba, do tính cạnh tranh giữa các ngân hàng gia tăng, xuất hiện hành vi cạnh
tranh không lành mạnh; ngân hàng đối thủ lôi kéo khách hàng bằng những mánh khóe,
chiêu trò không lành mạnh, cung cấp những thông tin sai lệch về ngân hàng cho
vay,…
Thứ tư, ngân hàng chưa đa dạng hóa các danh mục đầu tư, được xem là một trong
những công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị rủi ro, là biện pháp ngăn ngừa rủi ro
hữu hiệu nhất trong quản trị rủi ro CVDN. NHTM tập trung quá nhiều vốn vào một
doanh nghiệp hoặc một ngành nghề kinh tế nào đó dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro là
rất lớn nếu doanh nghiệp đó bị thua lỗ, hay bỗng nhiên ngành nghề kinh doanh đó bị
pháp luật hạn chế hoặc cấm.
15
Thứ năm, giá trị TSBĐ chịu sự biến động theo chiều hướng bất lợi (BĐS,…); ngân
hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ TSBĐ. Trong hoạt đông cho vay, việc
đảm bảo tài sản cho các khoản vay được định giá gốc và ký kết giữa ngân hàng cho
vay và doanh nghiệp vay. Rủi ro có thể xảy ra do ngân hàng cho vay không đánh giá
đúng giá trị TSBĐ hoặc giá trị tài sản thế chấp có biến động theo chiều hướng xấu.
Nguyên nhân từ môi trƣờng kinh tế kinh doanh:
Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình
kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được
để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin
ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ
thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được
những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho
vay.
Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng
lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động cho vay. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm
phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro
CVDN với ngân hàng là rất lớn. Nhiều doanh nghiệp vay có thể thích ứng và vượt qua
khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều doanh nghiệp bị đình trệ hoạt động sản xuất,
kinh doanh dẫn đến thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm
bảo.
Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán trong các
chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như
như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn,
cũng như hoạt động CVDN của ngân hàng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật
về TSBĐ, dự trữ, trích lập dự phòng rủi ro,… Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp
luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng
như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong CVDN.
1.2.3.
Hậu quả khi xảy ra rủi ro cho vay doanh nghiệp trong ngân hàng thương
mại
Rủi ro CVDN là vấn đề quan tâm hàng đầu trong hoạt động CVDN cũng như công
tác quản trị rủi ro của các NHTM, CVDN là nghiệp vụ đem lại thu nhập chủ yếu cho
các NHTM cho nên tác động của rủi ro CVDN ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt
động của các NHTM. Vì vậy khi rủi ro CVDN xảy ra gây tổn thất rất lớn về mặt tài
Thang Long University Library
16
chính và danh tiếng của NHTM cho vay, toàn bộ hệ thống ngân hàng và tác động tiêu
cực đến nền kinh tế.
Đối với ngân hàng gặp rủi ro:
Rủi ro CVDN làm phát sinh tăng chi phí, giảm lợi nhuận: Khi các ngân hàng cho
vay xuất hiện những khoản nợ quá hạn, việc đầu tiên là các ngân hàng cho vay phải
tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn vừa làm mất thời gian của CBTD, vừa
làm tăng khoản chi phí thu hồi nợ. Nếu các khoản nợ này có liên quan đến nhiều bên
thì ngân hàng cho vay phải chi phí về cả thời gian lẫn tiền cho công việc thương
lượng, gặp gỡ các bên trong quá trình xử lý nợ. Đây là những chi phí trước mắt mà các
ngân hàng cho vay phải bỏ ra. Bên cạnh đó các ngân hàng cho vay phải bỏ ra chi phí
cơ hội rất lớn: Các khoản nợ quá hạn làm chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi
các khoản đầu tư khác của ngân hàng, đó là chưa kể đến sự ảnh hưởng lớn của nợ quá
hạn với tâm lý của CBTD. Nợ quá hạn phát sinh làm cho CBTD phải mất thời gian xử
lý nợ, không tiếp cận được những món vay mới, đồng thời còn làm cho CBTD ngần
ngại mở rộng hoạt động cho vay. Tất cả những vấn đề này làm giảm thu nhập tiềm ẩn
và làm tăng chi phí cho các ngân hàng cho vay, từ đó làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng cho vay.
Rủi ro CVDN làm giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng cho vay:
Các ngân hàng cho vay khi gặp rủi ro, kinh doanh kém hiệu quả, uy tín sẽ bị giảm sút
trên thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc
huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các
ngân hàng khác. Đây là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường được giá trị.
Rủi ro CVDN khiến ngân hàng cho vay không thu được nợ gốc và lãi: Khi rủi ro
xảy ra, ngân hàng cho vay không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết do nhiều
nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp vay vốn mất khả năng trả nợ hoặc cố ý chậm trễ
trả nợ.
Rủi ro CVDN khiến ngân hàng bị thất thoát vốn: Ngân hàng sử dụng nguồn vốn
huy động được để cấp vốn cho doanh nghiệp, khi rủi ro xảy ra ngân hàng không thu
hồi được nợ gốc của khoản vay. Điều này khiến ngân hàng bị thâm hụt một lượng vốn.
Rủi ro CVDN khiến ngân hàng mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản:
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân hàng
mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Khi đó ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, bởi
huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài
với việc hàng loạt người gửi tiền đến rút tiền, ngân hàng sẽ không đảm bảo khả năng
thanh toán, buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
17
Rủi ro trong hoạt động CVDN còn gây ra tổn thất gián tiếp cho hệ thống ngân
hàng: Nếu có sự thất thoát lớn trong hoạt động CVDN dù chỉ ở một ngân hàng cho
vay trực thuộc, không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên hiệu ứng domino đe doạ
đến an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Rủi ro CVDN tác động đến nền kinh tế: Ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế thị trường. Nó liên quan đến mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, là
khâu cốt yếu cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến
chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Do vậy khi một ngân
hàng bị phá sản nó sẽ gây ảnh hưởng đến các bộ phận còn lại trong xã hội, trước tiên là
các ngân hàng khác, bởi có quan hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân
hàng sụp đỗ có thể dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra việc sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn, người gửi tiền không lấy
lại tiền được. Những hậu quả này còn giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc
và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các chính sách tiền tệ của
Chính phủ.
Rủi ro CVDN tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại: Khi rủi ro CVDN xảy ra,
có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, hình ảnh hệ thống NHTM và toàn bộ nền kinh tế
quốc gia. Điều này làm giảm vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, giảm các dự án
đầu tư nước ngoài vào quốc gia cũng như hạn mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với
các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Đây thực sự là điều bất lợi đối với quốc
gia khi xảy ra sự giảm sút hay sụp đổ của hệ thống tài chính – hệ thống NHTM quốc
gia
1.3. Quản trị rủi ro cho vay doanh nghiệp trong ngân hàng thƣơng mại
1.3.1.
Khái niệm quản trị rủi ro cho vay doanh nghiệp trong ngân hàng thương mại
Bản chất của kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, vì vậy công tác quản trị
rủi ro được xem là mối quan tâm lớn nhất trong hoạt động quản trị của ngân hàng.
Quản trị rủi ro được xem là nỗ lực nhằm xác định, nhận dạng, đo lường, theo dõi, giám
sát và quản lý sự không chắc chắn, bao gồm cả việc lựa chọn, triển khai các biện pháp
nhằm hạn chế, kiểm soát rủi ro của ngân hàng. Mục tiêu của quản lý rủi ro nhằm giảm
mức độ rủi ro xuống mức đã xác định trước có thể chấp nhận được. Quản lý rủi ro
không chỉ đơn thuần tuân thủ quy định và kiểm soát nội bộ mà trở thành một phần
không thể tách rời trong mỗi quyết định kinh doanh của ngân hàng. Phương pháp tiếp
cận khi tiến hành quản trị rủi ro mang tính phòng ngừa, dự báo trước và có sự lựa
chọn; không còn chỉ là quản lý rủi ro sau khi rủi ro xảy ra. Vì các quyết định kinh
doanh của ngân hàng luôn dựa trên lựa chọn giữa rủi ro và cơ hội lợi ích phù hợp với
mức rủi ro có thể chấp nhận được. Công tác quản trị rủi ro được thực hiện thông qua
Thang Long University Library
18
việc tiếp cận với các loại rủi ro của ngân hàng như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi
ro thanh khoản, rủi ro hoạt động,… và quản lý rủi ro theo từng đặc điểm của chúng.
Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn tiến hành quản lý rủi ro tổng thể.
Trong phạm vi nghiên cứu khóa luận này, tác giả tập trung nghiên cứu đến công tác
quản trị rủi ro CVDN hay mô hình quản trị rủi ro CVDN tại NHTM. Mô hình này
phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về cơ chế, chính sách, quy trình, nghiệp vụ
nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong một
quy trình nghiệp vụ; các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự
tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới phát sinh và các phương án, biện
pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra. Nói cách khác, quản trị
rủi ro CVDN là hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ chức quản lý rủi ro, mô
hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách
đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản lý CVDN của ngân hàng. Quản trị
rủi ro CVDN tại NHTM thường bao gồm các nội dung sau: nhận dạng rủi ro, đo
lường rủi ro, kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro CVDN.
1.3.2.
Sự cần thiết phải quản trị rủi ro cho vay doanh nghiệp
Đối với nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến
rất nhiều các thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho tới các
tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng là trung gian giúp nền kinh tế luân chuyển và phân
bổ nguồn vốn một cách có hiệu quả. Hơn nữa hoạt động CVDN được suôn sẻ giúp
ngân hàng hoàn thành tốt vai trò cung ứng vốn ra thị trường của mình. Vì vậy để đảm
bảo hoạt động CVDN đạt hiệu quả hay quá trình luân chuyển vốn của nền kinh tế được
duy trì; NHTM phải tiến hành công tác quản trị rủi ro CVDN thật tốt.
Kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền
kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc rất lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thể có kết quả tốt
khi hoạt động kinh doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt động kinh
doanh của ngân hàng sẽ có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro. Rủi ro
xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, gây khó khăn cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời
sống xã hội. Do đó, phòng ngừa và hạn chế rủi ro CVDN không những là vấn đề sống
còn với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế góp phần vào sự ổn
định và phát triển của toàn xã hội.
Đối với doanh nghiệp vay vốn: Trong quá trình thực hiện công tác quản trị rủi ro
CVDN, thông qua chính sách cho vay, ngân hàng thắt chặt thẩm định khách hàng và
19
giám sát khoản vay, đốc thúc doanh nghiệp tạo cơ chế quy củ giúp doanh nghiệp sử
dụng vốn có hiệu quả và kịp thời điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho phù hợp trong
từng thời kỳ. Bên cạnh đó, công tác quản trị rủi ro CVDN của ngân hàng giúp doanh
nghiệp nắm bắt cơ hội kinh doanh, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh; giúp
doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngành.
Đối với bản thân NHTM:
Các nhà kinh tế thường gọi ngân hàng là “ngành kinh doanh rủi ro”. Thực tế đã
chứng minh không một ngành nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại lớn như trong lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ- tín dụng. Ngân hàng phải gánh chịu những rủi ro không những
do nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn phải gánh chịu những rủi ro khách hàng
gây ra. Vì vậy “rủi ro CVDN của ngân hàng không những là cấp số cộng mà có thể là
cấp số nhân rủi ro của nền kinh tế”. Do đó, công tác quản trị rủi ro CVDN là thực sự
cần thiết đối với hoạt động quản trị của NHTM.
Hơn nữa, quá trình đo lường rủi ro CVDN giúp ngân hàng tính toán, đo lường được
khả năng xảy ra rủi ro, mức độ tổn thất mà rủi ro có thể gây ra; tạo cơ sở cho ngân
hàng ra quyết định tài trợ hay không tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Từ đó giúp ngân
hàng tận dụng triệt để các cơ hội kinh doanh mang lại thu nhập cao dựa trên cơ sở xác
định tương đối chính xác các rủi ro của khách hàng doanh nghiệp, qua đó nâng cao
khả năng sinh lợi cho ngân hàng.
Thông qua những biện pháp kiểm soát rủi ro, tài trợ rủi ro CVDN giúp ngân hàng
kịp thời xử lý những rủi ro; hạn chế được tổn thất do nó gây ra. Chính những điều này
làm giảm những chi phí bù đắp tổn thất lớn nhất mà đáng lẽ ngân hàng phải gánh chịu
nếu rủi ro xảy ra, tạo cơ sở để ngân hàng gia tăng lợi nhuận cho mình.
Nhìn chung, công tác quản trị rủi ro CVDN nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro
CVDN, là một việc làm cần thiết đối với bản thân các NHTM, doanh nghiệp vay vốn
và cả nền kinh tế quốc gia.
1.3.3.
Nội dung quản trị rủi ro cho vay doanh nghiệp
Rủi ro cho vay doanh nghiệp xảy ra là điều không tránh khỏi, do đây là tính chất
của hoạt động cho vay doanh nghiệp. Vì thế công tác QTRR cho vay có vai trò quan
trọng và thực hiện theo các bước cơ bản, bao gồm nhận dạng rủi ro, đo lƣờng rủi ro,
kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.3.3.1. Nhận dạng rủi ro cho vay doanh nghiệp
Nhận dạng rủi ro CVDN là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro có
thể ngân hàng gặp phải và nguồn gốc của các rủi ro; xác định khả năng chấp nhận rủi
ro của ngân hàng và mô tả dựa trên các mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Hay nói
Thang Long University Library
20
cách khác, “Nhận diện rủi ro CVDN bao gồm các nội dung: theo dõi, xem xét, nghiên
cứu môi trường hoạt động, quy trình tín dụng để thống kê các dạng rủi ro CVDN,
nguyên nhân từng thời kỳ và dự báo được những nguyên nhân còn tiềm ẩn có thể gây
ra rủi ro CVDN”.
Các phương pháp nhận dạng rủi ro bao gồm: phương pháp phân tích báo cáo tài
chính, phỏng vấn và điều tra khảo sát tại các cơ sở của khách hàng, phối hợp với các
bộ phận khác trong ngân hàng, thông qua tư vấn của tổ chức xếp hạng tín nhiệm
chuyên nghiệp, phân tích hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ và các giấy tờ chứng
minh mục đích sử dụng vốn khác, nghiên cứu các số liệu tổn thất trong quá khứ (số
liệu thống kê). Thông qua các biện pháp nhận dạng rủi ro CVDN và dựa trên đánh giá
từ góc độ của các bên tham gia, có thể nhận thấy một số dấu hiệu rủi ro sau:
(1) Các dấu hiệu rủi ro CVDN xuất phát từ NHTM:
- Đánh giá, phân loại doanh nghiệp không đúng với mức độ rủi ro của họ, đánh giá
quá cao năng lực của doanh nghiệp;
- Chính sách cho vay phụ thuộc vào những sự kiện có thể xảy ra trong tương lai;
- Cấp tín dụng trên cơ sở không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của doanh nghiệp
như lời hứa duy trì số dư tiền gửi lớn hay các lợi ích mà doanh nghiệp mang lại khi
được cấp tín dụng;
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá năng lực, khả năng kiểm soát
cũng như nguồn vốn của ngân hàng;
- Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng khoản tín dụng;
- Tỷ lệ cấp tín dụng cho doanh nghiệp ngoài địa bàn hoạt động của ngân hàng cao;
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sót, không đồng bộ, thiếu sự tuân thủ hay tuân
thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng cho vay;
- Cấp tín dụng với khối lượng lớn doanh nghiệp không thuộc phân đoạn tối ưu của
ngân hàng;
- Tỷ lệ cho vay các công ty nội bộ cao;
- Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ như cho vay chứng khoán, BĐS;
- Không nhạy cảm với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế.
(2) Các dấu hiệu rủi ro CVDN xuất phát từ doanh nghiệp vay vốn:
Dấu hiệu rủi ro CVDN trong mối quan hệ với ngân hàng:
- Trả nợ không đúng kỳ hạn hoặc thất thường;
- Thường xuyên sửa đổi thời hạn, xin gia hạn;
- Thực hiện việc đảo nợ;
- Thất lạc hồ sơ (Đặc biệt là các BCTC);
- Dựa vào nguồn thu bất thường để trả nợ;
21
- Trì hoãn hoặc gây trở ngại cho quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất của
ngân hàng mà không có sự giải thích minh bạch và thuyết phục;
- Chấp nhận nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện;
- Có dấu hiệu sử dụng nguồn tài trợ ngắn hạn đầu tư dài hạn;
- Tài khoản tiền gửi thanh toán sụt giảm bất thường.
Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính, hoạt động
sản xuất kinh doanh của đơn vị:
- Có chênh lệch lớn giữa doanh thu và dòng tiền thanh toán so với dự kiến khi xin
vay vốn;
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản;
- Xuất hiện bất đồng, mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình
quản lý;
- Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như: chi phí tiếp khách, quảng
cáo, chi phí thiết bị văn phòng, phương tiện đi lại;
- Thay đổi thường xuyên của ban tổ chức, điều hành;
- Có dấu hiều xuất hiện việc phát hiện quá trình kiểm soát, thẩm định dự án sai dẫn
đến đầu tư không hiệu quả;
- Do áp lực nội bộ dẫn đến việc tung ra thị trường sản phẩm mới khi chưa hội tụ đủ
các yếu tố chín muồi hoặc đặt ra hạn mức kinh doanh, doanh số kinh doanh không hợp
lý;
- Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới do thay đổi chính sách của
Nhà nước hoặc do thiên tai ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh;
- Đối với doanh nghiệp tư nhân có dấu hiệu khách hàng bị bệnh kéo dài hoặc chết.
1.3.3.2. Đo lường rủi ro cho vay doanh nghiệp
Đối với hoạt động cho vay doanh nghiệp luôn chứa đựng nhiều rủi ro và không thể
né tránh. Mọi quyết định CVDN của NHTM đều dựa trên kết quả của những tính toán,
phân tích chính xác, cụ thể nhằm xác định rõ mức độ rủi ro của khách hàng doanh
nghiệp, những tổn thất mà nó có thể mang lại, từ đó NHTM tận dụng triệt để được
những cơ hội kinh doanh, tăng khả năng gia tăng lợi nhuận. Vì vậy, quá trình đo lường
rủi ro khi thực hiện hoạt động CVDN là rất quan trọng. Đo lường rủi ro CVDN được
hiểu là quá trình tính toán tần suất xuất hiện rủi ro, tiến độ và mức nghiêm trọng của
rủi ro, thông thường gồm hai nội dung chính: tính toán xác suất xảy ra rủi ro và tính
toán tác động của rủi ro. Hiện nay có nhiều giải pháp đo lường rủi ro CVDN, có giải
pháp thiên về định tính, có giải pháp thiên về định lượng thông qua các chỉ tiêu tài
chính cụ thể, như sử dụng một số mô hình điểm số Z, chấm điểm tín dụng, phân tích
Thang Long University Library
22
tín dụng,… và sử dụng các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp như nợ
quá hạn, nợ xấu,… Cụ thể như sau:
(1) Mô hình điểm số Z – Z score: Công thức tính điểm số Z để tính toán khả năng
phá sản của một doanh nghiệp được phát minh bởi Edward Altman vào năm 1968. Mô
hình này là một phương pháp đo lường định lượng thông qua biểu thị mối quan hệ
giữa các biến số. Điều này giúp cho các NHTM đánh giá được chất lượng tín dụng và
các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các doanh nghiệp.
Altman xây dựng mô hình điểm số Z như sau:
Z = 1,2X
1
+ 1,4X
2
+ 3,3X
3
+ 0,6X
4
+ 1,0X
5
Trong đó:
X
1
= Tỷ số “Vốn lưu động ròng/Tổng tài sản”
X
2
= Tỷ số “Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản”
X
3
= Tỷ số “Lợi nhuận trước thuế và tiền lãi vay/Tổng tài sản”
X
4
= Tỷ số “Thị giá cổ phiếu/Tổng nợ”
X
5
= Tỷ số “Doanh thu/Tổng tài sản”
Theo mô hình điểm số Z, nếu doanh nghiệp có điểm số Z càng thấp hơn 1,81 sẽ bị
xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Cụ thể như sau: Z < 1,81 (vỡ nợ), 1,81 <
Z < 2,99 (không rõ ràng), Z > 2,99 (lành mạnh). Do vậy, điểm số Z càng cao thì
doanh nghiệp có xác suất vỡ nợ càng thấp. Các NHTM và doanh đi vay có thể đo
lường và so sánh cụ thể điểm Z cho từng khoản vay. Do đó, sự biến động của điểm số
Z sẽ thay đổi mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp.
Từ nền tảng mô hình điểm số Z ban đầu, Altman đã phát triển thành điểm số Z
’
cho
doanh nghiệp tư nhân và điểm số Z” cho doanh nghiệp phi sản xuất và những thị
trường mới nổi. Cụ thể:
Z
’
= 0,718X
1
+ 0,847X
2
+ 3,107X
3
+ 0,42X
4
+ 0,998X
5
Trong đó:
X
1
= Tỷ số “(TSNH – Nợ ngắn hạn)/Tổng tài sản”
X
2
= Tỷ số “Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản”
X
3
= Tỷ số “Lợi nhuận trước thuế và tiền lãi vay/Tổng tài sản”
X
4
= Tỷ số “Giá trị ghi sổ của VCSH/Tổng nợ”
X
5
= Tỷ số “Doanh thu/Tổng tài sản”
Mô hình điểm số Z’ dùng để dự đoán khả năng phá sản của các doanh nghiệp tư
nhân. Theo mô hình điểm số Z
’
, nếu doanh nghiệp có điểm Z càng thấp hơn 1,23 sẽ bị
23
xếp hạng vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Cụ thể như sau: Z
’
> 2,9 (lành
mạnh); 1,23 < Z
’
< 2,9 (không rõ ràng); Z
’
< 1,23 (vỡ nợ).
Z
’’
= 6,56X
1
+ 3,26X
2
+ 6,72X
2
+ 1,05X
4
Trong đó:
X
1
= Tỷ số “(TSNH – Nợ ngắn hạn)/Tổng tài sản”
X
2
= Tỷ số “Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản”
X
3
= Tỷ số “Lợi nhuận trước thuế và tiền lãi vay/Tổng tài sản”
X
4
= Tỷ số “Thị giá cổ phiếu/Tổng nợ”
Mô hình điểm số Z
’’
dùng để dự đoán khả năng phá sản của các doanh nghiệp phi
sản xuất và những thị trường mới nổi. Theo mô hình này, nếu doanh nghiệp có điểm Z
càng thấp hơn 1,1 sẽ bị xếp hạng vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Cụ thể: Z >
2,6 (lành mạnh); 1,1 < Z < 2,6 (không rõ ràng); Z < 1,1 (vỡ nợ).
Đây là một phương pháp đo lường định lượng các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ tín
nhiệm của doanh nghiệp. Mô hình có một số ưu điểm nổi bật so với những phương
pháp định tính, như kỹ thuật đo lường đơn giản, thể hiện tính nhất quán, khách quan,
không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của CBTD.
(2) Mô hình xếp hạng tín dụng: Mô hình này có thể do các NHTM tự xây dựng
hoặc của các cơ quan xếp hạng tín nhiệm lớn trên thế giới hiện nay như S&P, Moody’s
và Fitch Group. Xếp hạng tín nhiệm nhằm mục đích đánh giá các rủi ro cho vay liên
quan đến nghĩa vụ tài chính của một tổ chức trong tương lai. Xếp hạng tín nhiệm dài
hạn đánh giá rủi ro của các khoản cho vay có thời gian đáo hạn từ một năm trở lên,
phản ánh khả năng thực hiện cam kết trả nợ và rủi ro suy giảm nguồn tài chính trong
tương lai. Xếp hạng ngắn hạn chỉ dành cho các khoản cho vay đáo hạn dưới 13 tháng
và chỉ đánh giá về rủi ro trả nợ. Đối với NHTM, đây là biện pháp quan trọng để đo
lường khả năng ngân hàng có cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài để tránh sự tổn thất khi
xảy ra vỡ nợ.
Mô hình xếp hạng tín dụng hay còn gọi là mô hình chấm điểm tín dụng: Được
hiểu là quy trình đánh giá xác suất một khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ
tài chính của mình đối với ngân hàng. Mô hình sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm
của người vay để tính toán xác suất của rủi ro tín dụng hoặc để phân loại khách hàng
trên cơ sở mức độ rủi ro đã được xác định. Xếp hạng tín nhiệm nhằm cung cấp thông
tin, phục vụ cho công tác thẩm định và quyết định tín dụng. Đồng thời giúp ngân hàng
có phương pháp ứng xử phù hợp với từng loại khách hàng, thông qua đó giữ chân
khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới. Để có được kết quả đầu ra chính xác, cơ
quan xếp hạng tín nhiệm phải sử dụng những nguồn thông tin đầu vào có độ tin cậy
Thang Long University Library
24
cao như các thông tin phi tài chính của khách hàng, các BCTC của khách hàng, thông
tin được lưu giữ tại ngân hàng,…
Chấm điểm tín dụng phải dựa trên nguyên tắc: CBTD sẽ thu được điểm ban
đầu và điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng. Điểm ban đầu ở đây được hiểu là điểm
của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng; điểm tổng hợp bằng điểm ban đầu nhân với
trọng số. Trong đó, trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm tín
dụng (chỉ số tài chính hoặc yếu tố phi tài chính) xét trên góc độ tác động rủi ro tín
dụng. Đối tượng khách hàng được xếp hạng là khách hàng doanh nghiệp, tổ chức và
khách hàng cá nhân. Tuy nhiên, trong phạm vi khóa luận này, tác giả tập trung mô tả
về khách hàng doanh nghiệp. Cụ thể, khách hàng doanh nghiệp được phân theo ngành
nghề kinh doanh, bao gồm: nông, lâm, ngư và diêm nghiệp; thương mại và dịch vụ;
xây dựng và vật liệu xây dựng; sản xuất công nghiệp. Căn cứ để xếp hạng tín nhiệm
khách hàng doanh nghiệp:
Loại hình doanh nghiệp: Là một trong những căn cứ để đánh giá và xếp hạng tín
dụng. Ngân hàng phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề kinh doanh và quy mô.
Các chỉ tiêu tài chính, bao gồm: Tính thanh khoản, chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu về
đòn bẩy tài chính, chỉ tiêu về khả năng sinh lời.
Các chỉ tiêu phi tài chính, bao gồm: Chỉ tiêu về uy tín trong giao dịch, chỉ tiêu về
chất lượng quản lý, chỉ tiêu liên quan đến dòng tiền.
Các bƣớc để đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp:
Xác định quy mô doanh nghiệp:
Căn cứ vào quy định của Nhà nước và quy định của ngân hàng, xác định quy mô
hoạt động của doanh nghiệp là siêu nhỏ, nhỏ, vừa hay lớn;
Các tiêu chí để xếp hạng quy mô của doanh nghiệp, bao gồm: vốn, doanh thu,
nghĩa vụ nốp thuế với Nhà nước, số lượng lao động.
Đánh giá các chỉ tiêu tài chính: Các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp thường
khác nhau do ngành nghề kinh doanh và quy mô khác nhau. Ngân hàng đưa ra tiêu
chuẩn đánh giá riêng biệt cho từng ngành nghề. Trong mỗi ngành nghề, thước đo đánh
giá được thiết kế sao cho phản ánh được yếu tố quy mô của doanh nghiệp. Thông
thường sử dụng các nhóm chỉ tiêu căn bản như: Chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu hoạt
động, chỉ tiêu đòn bẩy tài chính, chỉ tiêu về khả năng sinh lời,…
Đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính: Dựa vào các thông tin thu thập được từ phía
khách hàng, thông tin được lưu trữ tại ngân hàng và các nguồn thông tin khác, ngân
hàng thực hiện việc đánh giá, xếp hạng các khách hàng doanh nghiệp. Cụ thể là các
25
nhóm chỉ tiêu: Chỉ tiêu liên quan đến dòng tiền, chỉ tiêu về chất lượng quản lý, chỉ tiêu
về uy tín trong giao dịch,…
Tổng hợp kết quả điểm và xếp hạng doanh nghiệp: Đứng trên quan điểm của
ngân hàng, tầm quan trọng của các chỉ tiêu tài chính là khác nhau. Tổng điểm đánh giá
về mặt tài chính của doanh nghiệp được xác định dựa trên công thức:
Tổng số điểm tài chính =
Trong đó: W
i
: Điểm thành phần; T
i
: Trọng số của từng chỉ tiêu
Đối với các chỉ tiêu phi tài chính, cứ ứng với mỗi chỉ tiêu khách hàng đạt được,
ngân hàng áp theo quy định cho điểm thành phần tương ứng, sau đó cộng lại tổng số
điểm theo từng nội dung mà khách hàng đạt được của mỗi chỉ tiêu. Sau đó, nhân trọng
số với các điểm tổng của từng phần đó. Công thức tổng quát tính tổng điểm phi tài
chính như sau:
Tổng số điểm phi tài chính =
Trong đó: P
i
: Điểm đạt được của từng nhóm chỉ tiêu; T
i
: Trọng số của tưng nhóm
chỉ tiêu.
Sau khi đã có tổng điểm tài chính và tổng điểm phi tài chính, ngân hàng sẽ căn cứ
xem mức độ tin cậy của các thông tin và tính ra điểm xếp hạng tín dụng cụ thể. Sau
khi đã tính toán ra tổng điểm cuối cùng, ngân hàng sẽ xếp hạng tín dụng của khách
hàng thành 10 hạng theo các chuẩn mực như của Moody’s: AAA, AA, BBB, BB, B,
CCC, CC, C, D hoặc của S&P,… Tùy từng thứ hạng tín dụng doanh nghiệp đạt được
mà ngân hàng sẽ giải thích ý nghĩa và đánh giá về tình hình tài chính và rủi ro tài chính
của khách hàng, tạo cơ sở cho việc ra quyết định cho vay và giám sát sau khi cho vay.
Bảng 1.1. Bảng xếp hạng tín nhiệm khách hàng theo mô hình của S&P
(Nguồn: standardandpoors.com, bank ratings methodology)
Thang Long University Library