Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.45 KB, 18 trang )

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
MỤC LỤC
Trang
A- MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài. 4
2. Mục đích nghiên cứu. 4
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu. 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu. 5
5. Các phương pháp nghiên cứu. 5
6. Phạm vi nghiên cứu. 5
B- NỘI DUNG.
I. Cơ sở lí luận. 57
1
SỞ GD & ĐT TỈNH THÁI NGUYÊN
PHÒNG GD&ĐT PHÚ LƯƠNG


Người thực hiện: Nguyễn Thị Nga
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Yên Đổ 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN SKKN:
“Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc -hiểu
cho học sinh lớp 4.”
***

Yên Đổ, tháng 05 năm 2012.

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
A- MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm :
Trong dạy học môn Tập đọc ở Tiểu học, việc rèn đọc hiểu chiếm vị trí


đặc biệt quan trọng. Việc đọc hiểu được sử dụng để tìm hiểu nội dung bài học.
Rèn đọc hiểu giúp việc nâng cao năng lực tư duy của học sinh, từ đó các em tự
chiếm lĩnh kiến thức mới và vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân.
Ta nhận thấy rằng, việc đọc hiểu ở tiểu học có nhiều phương pháp (cách
dạy) khác nhau, phương pháp nào cũng mang tính đặc trưng riêng của phương
pháp đó, sao cho có tính khoa học, tính logic Nhưng qua thực tế giảng dạy, việc
rèn kĩ năng đọc hiểu thì một số giáo viên còn chưa hiểu được một cách sâu sắc
yêu cầu đặc trưng của môn học.
Trong sự phát triển chung của giáo dục, có sự thay đổi cải tiến của môn
Tiếng Việt nói chung và môn Tập đọc nói riêng về cả nội dung cũng như phương
pháp dạy học. Mục tiêu của môn học theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp, phù hợp với tâm sinh lý đang phát triển của học sinh tiểu học. Tuy vậy
vẫn còn không ít nhưng hạn chế vướng mắc trong quá trình dạy và học. Một
trong những vẫn đề tôi quan tâm trong giảng dạy đó là: Đọc- hiểu của học sinh
tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học môn Tập đọc lớp 4 tôi tiến hành nghiên cứu
việc “Rèn kĩ năng đọc- hiểu cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng và đưa ra một số biện pháp giúp học sinh có kĩ năng đọc –
hiểu nội dung bài trong phân môn Tập đọc, lớp 4 Trường Tiểu học Yên Đổ 2 , xã
Yên Đổ , huyện Phú Lương ,tỉnh Thái Nguyên.
2
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
III. Phạm vi nghiên cứu:
3.1 Đối tượng: Những biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 4.
3.2 Khách thể nghiên cứu: Học sinh líp 4A Trường Tiểu học Yên Đổ 2 ,xã Yên
Đổ , huyện Phú Lương , tỉnh Thái Nguyên.
3.3 Giả thuyết khoa học:
Nếu đề tài hoàn thiện và được đưa vào sử dụng thì giúp học sinh lớp 4 có
kỹ năng đọc- hiểu văn bản tốt hơn.

IV. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng và đưa ra những biện pháp thiết thực rèn kỹ năng đọc -hiểu
cho học sinh dân tộc thiểu số.
V. Các phương pháp nghiên cứu:
5.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận.
5.2 Các phương pháp nghiên cứu tài liệu.
5.3 Các phương pháp thống kê toán học.
VI. Đóng góp mới về đề tài:
Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này đã tiến
hành trong thời gian dài, được bản thân rút kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy
các môn học, đặc biệt là phân môn Tập đọc Những kết quả giảng dạy được bản
thân thường xuyên cập nhật để so sánh, rút kinh nhiệm vào từng thời điểm trong
năm học và so sánh kết quả với những năm học trước. Từ đó đề ra những biện
pháp để giảng dạy đạt kết quả cao hơn.
Trên thực tế chắc chắn đã có rất nhiều người nghiên cứu về vấn đề này .
Nhưng trên thực tế xã hội càng phát triển kéo theo sự đổi mới về phương pháp
giáo dục học sinh. Hơn nữa ở cùng một đề tài nhưng mỗi người nghiên cứu ở
3
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
hoàn cảnh khác nhau , đối tượng nghiên cứu khác nhau nên cũng có những sáng
kiến khác nhau .Tôi nghiên cứu đề tài này dựa trên những yêu cầu mới về dạy và
học mới hiện nay với mong muốn sẽ đóng góp một phần kinh nghiệm nhỏ của
tôi với sự phát triển của ngành giáo dục trong thời đại ngày nay
VII.Kế hoạch nghiên cứu:
- Tháng 9 : điều tra khảo sát tình hình thực tế lớp chủ nhiệm.
- Tháng 10 tìm hiểu nội dung chính của đề tài
- Tháng 11 : Tìm hiểu số liệu thống kê và lập đề cương đề tài.
- Tháng 12 : đến tháng 4 : Nghiên cứu áp dụng các biện pháp vào thực tiễn và rút
ra bài học kinh nghệm

- Tháng 5 : Ghi chép hoàn thiện đề tài.
B- NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận:
Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đòi hỏi phải đổi mới chương
trình môn Tiếng Việt. Chương trình tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về:
- Mục tiêu giáo dục.
- Nội dung và phương pháp dạy học.
- Cách thức đánh giá học tập của học sinh.
Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát
triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá
trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh
kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân.
Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học có nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ
đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân môn
4
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan
trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho kĩ
năng “đọc” nói chung và “đọc hiểu” nói riêng. Một kĩ năng quan trọng hàng đầu
của bậc tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa khoá, là phương tiện để
học sinh tiếp nhận tri thức loài người.
Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ.
Tập đọc đặc biệt là đọc hiểu giúp các em học được cách nói, cách viết một
cách chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện
kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ
đó, các em sẽ học tốt các môn học khác bởi đọc đúng, hiểu được chính xác nội
dung một vấn đề nào đó. Từ đó, các em sẽ làm Toán đúng, viết đúng và nói
đúng
Với tư cách, nhiệm vụ là một phân môn thực hành Tiếng Việt, Tập đọc

hiểu góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học
sinh. Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa lớp 4 mới là những
bài văn, bài thơ hay trong kho tàng văn học trong nước và nước ngoài. Chính vì
thế mà các em có vốn văn học dân tộc, hay trên thế giới khá lớn. Bên cạnh đó, có
các bài tập đọc còn cung cấp cho các em vốn từ ngữ phong phú, thuộc nhiều chủ
đề để sử dụng vào việc tập viết, tập chép đoạn văn, bài thơ Và đặc biệt là việc
viết các bài Tập làm văn . Sử dụng vào việc giao tiếp, ứng xử hàng ngày, Mặt
khác các bài tập đọc còn là bức tranh muôn hình, muôn vẻ về đề tài thiên nhiên,
xã hội phong phú, về phong tục tập quán, lối sống và kinh nghiệm sống. Cho nên
việc đọc hiểu giúp các em càng thêm hiểu biết về con người, về đất nước trong
quá khứ cũng như trong hiện tại và tương lai.
5
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
Khi học phân môn Tập đọc, đặc biệt là phần đọc hiểu giúp trí tuệ của các
em ngày càng được nâng cao, bồi dưỡng cho các em tình yêu, niềm tin trong
cuộc sống. Dạy Tập đọc và rèn kĩ năng đọc - hiểu nội dung văn bản sẽ giúp các
em phát triển tư duy logic, rèn luyện khả năng thông hiểu ngôn ngữ, khả năng
suy nghĩ logic và tổng hợp.
Cũng như các môn học khác ở các cấp học, môn Tập đọc đòi hỏi giáo viên
phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm., học sinh giữ vai trò chủ
đạo trong quá trình học tập. Tự tìm tòi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức dưới
sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy thì
người giáo viên phải là người tổ chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình huống
phong phú cho học sinh. Tránh nhồi nhét vào đầu các em những kiến thức mà
chính các em không hiểu gì cả.
Trong chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 4 đã được chọn lọc kĩ
càng. Được sắp xếp theo từng chủ đề, nội dung các bài tập đọc cung cấp, bồi
dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao đông, yêu
người thân ở xung quanh các em.
Vì thế, việc đọc hiểu từng bài tập đọc nhằm trau dồi lòng hướng thiện đạo

lí, truyền thống dân tộc
II.Thực trạng của việc dạy môn Tập đọc hiện nay:
Nhìn chung, có ý kiến của giáo viên đều cho rằng dạy Tập đọc cho học sinh
ở Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng, là dạy cho học sinh đọc to, đọc đúng,
đọc rõ ràng là đạt yêu cầu. Còn vấn đề đọc hiểu và bước đầu đọc diễn cảm chưa
chú trọng. Phần đọc hiểu còn được xem nhẹ. Tất cả các giáo viên đều chuẩn bị
những thiết kế bài dạy một cách chung chung như sách hướng dẫn. Đặc biệt là
6
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
phần đọc hiểu còn chưa sâu, mới chỉ đưa ra hình thức giáo viên hỏi để học sinh
trả lời câu hỏi.
Do đó, đa số giáo viên sử dụng phương pháp giảng giải là chủ yếu. Giáo
viên tập trung vào giảng từ, giảng nội dung câu, của đoạn chính. Đôi khi việc
giảng từ còn chưa sát, còn lan man sa đà vào giảng văn. Chưa chú trọng đến việc
rèn đọc hiểu cho học sinh. Điều đó khiến cho học sinh dễ bị thụ động trong việc
lĩnh hội kiến thức của bài. Chất lượng đọc hiểu chưa cao, chỉ mới dừng lại ở mực
độ đọc đúng. Kĩ năng đọc hiểu còn chưa cao dẫn đến kết quả đọc chưa đáp ứng
được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng cơ bản quan trọng.
Đối với học sinh: lớp 100 % là học sinh dân tộc thiểu số nên đọc còn ngọng,
lỗi phát âm địa phương còn phổ biến và khó sửa chữa vì trong gia đình bố mẹ
chưa có điều kiện quan tâm đến việc học hành của con.
Vì là học sinh dân tộc thiểu số nên vốn từ của các em chưa phong phú, từ ngữ
còn hạn chế.Khả năng đọc hiểu của học sinh còn kém.
Các em không có nhiều thời gian dành cho việc học vì còn phải phụ giúp bố
mẹ công việc đồng áng , việc nhà.
Kết quả khảo sát đầu năm học môn đọc hiểu:
Định kỳ
Tổng số
học sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu

SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ
Đầu năm 18 2 11,2% 4 22,4% 8 44% 4 22,4%
III. Các giải pháp và kết quả đạt được:
1.Giải pháp
Từ những cơ sở lý luận trên tôi xin đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng
đọc hiểu trong giờ tập đọc cho học sinh lớp 4 như sau:
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn áp dụng nhiều phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học. Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, không
7
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
áp đặt, không cứng nhắc. Những phương pháp đặc biệt chú trọng là những
phương pháp sau:
- Đọc sách, đọc tài liệu.
- Mô tả.
- Giảng giải.
- Hỏi đáp.
- Trực quan.
- Rèn luyện theo mẫu.
- Thực hành giao tiếp và tổ chức trò chơi.
- Tổng kết rút kinh nghiệm.
Kĩ năng đọc hiểu là một kĩ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình lâu dài.
Quá trình đọc, ngày càng nâng cao. Học sinh cần phải chiếm lĩnh văn bản cả về
nội dung và nghệ thuật. Vì thế, cần hình thành cho học sinh các bước tìm hiểu
văn bản.
- Hiểu các từ, các cụm từ.
- Hiểu các câu.
- Hiểu các đoạn, những tập hợp câu dùng đẻ phát biểu một ý kiến trọn vẹn.
- Hiểu được cả bài thơ hay bài văn.
Trong hai tiết Tập đọc, để giúp các em hiểu sâu vấn đề tạo nên hững thú
trong giờ học, giáo viên nên cho học sinh tự phát hiện kiến thức hoặc tự kiểm tra

bạn, hoặc kiểm tra chính mình. Như phần kiểm ta bài cũ, giáo viên nên cho học
sinh đọc một đoạn văn hoặc khổ thơ mà các em yêu thích và nêu lí do tại sao em
lại thích đoạn văn hay khổ thơ đó. Tổ chức cho các em kiểm tra lẫn nhau theo
nhóm nhỏ quay vào nhau để bàn bạc, thảo luận về việc đọc bài và trả lời câu hỏi có
trong bài. Như thế sẽ tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ đầu tiết học.
8
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
Phần kiểm tra bài cũ cũng có thể tổ chức cho học sinh đọc thầm một đoạn
văn, một khổ thơ, biết tìm và đặt câu hỏi trong bài để cho bạn mình trả lời.
Ví dụ: Khi dạy bài: Văn hay chữ tốt- Tiếng Việt 4 - tập 1 trang 129. Giáo
viên yêu cầu học sinh đọc thầm. Rồi tự nêu câu hỏi để tìm hiểu sự chịu khó khổ
luyện của Cao Bá Quát. Học sinh sẽ tự đọc, tự tìm hiểu và nêu một câu hỏi để
tìm hiểu đoạn văn. Sẽ có rất nhiều ý kiến khác nhau, chẳng hạn:
- Vì sao Cao Bá Quát thường bị điểm kém?
- Sự việc gì xảy ra khiến Cao Bá Quát phải ân hận?
- Cao Bá Quát quyết chí luyện viết như thế nào?
Từ những ý kiến mà học sinh đưa ra, giáo viên phải tổ chức để học sinh trả
lời, đồng thời kiểm tra hiểu bài của từng cá nhân học sinh.
Hình thức thứ hai có thể chuyển những hoạt động bằng lời của học sinh
thành các bài tập thông qua việc sử dụng vở bài tập phiếu học tập hay bảng phụ.
Ví dụ: Khi dạy bài Rất nhiều mặt trăng- Tiếng Việt 4- tập 1 (tiếp theo)
Giáo viên gọi 1, 2 học sinh đoạn cuối, cả lớp đọc thầm để tìm hiểu bài qua
câu hỏi:
- Cách giải thích của công chúa nói lên điều gì?
Hãy chọn câu trả lời phù hợp với ý em nhất:
A. Đồ chơi mang lại niềm vui rất lớn cho trẻ em.
B. Khi chơi trẻ em thường nghĩ về đồ chơi như về các vật có thật trong đời
sống hàng ngày.
C. Cách nhìn của trẻ em về thế giới xung quanh thường rất khác với người
lớn.

Việc tổ chức lớp học để học sinh tự phát hiện ý, phát hiện nghệ thuật là
yêu cầu căn bản đối với giáo viên. Trong lĩnh vực này, hầu như giáo viên chưa
9
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
chú ý cao. Giáo viên còn nói nhiều, giảng nhiều làm cho giờ học biến thành tiết
giảng văn. Hoặc giáo viên nêu câu hỏi để học sinh trả lời làm cho tiết học nhàm
chán, không khắc sâu, không cô đọng được nội dung bài, không hiểu được từ ngữ
hay, một số câu hoặc nội dung bài. Điều đó dẫn đến kết quả giờ tập đọc không
cao.
Phát hiện ý của bài: bao gồm phát hiện tình cảm chứa đựng trong bài thực
hiện việc phản ánh đời sống qua đoạn văn, khổ thơ, bài văn, bài thơ.
Phát hiện tính cách nhân vật được thể hiện như thế nào? Em hãy tỏ thái độ
yêu hay không yêu với các nhân vật trong bài. Qua đó giáo dục tình cảm thái độ
cho học sinh. Bước đầu học sinh biết phát hiện nghệ thuật: bao gồm nghệ thuật
dùng từ, nghệ thuật viết câu.
- Nghệ thuật dùng từ: Từ láy, từ gợi tả, gợi cảm, từ chỉ mùi vị màu sắc, từ
chỉ hình ảnh có trong bài.
- Nghệ thuật viết câu: Câu văn dài, ngắn diễn tả điều gì? gợi cảm điều gì?
Các biện pháp tu từ, nhân hoá hay so sánh.
Bước đầu học sinh phát hiện thấy nghệ thuật miêu tả: Kể chuyện, tường
thuật, tả cảnh
Qua việc phát hiện về ý và phát hiện nghệ thuật,học sinh sẽ cảm nhận được
cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ.
Quá trình hiểu một bài gồm nhiều bước, với nhiều thao tác tư duy. Giáo viên
không nên nôn nóng bắt học sinh chưa kịp nhớ nội dung bài đã phải phân tích tổng
hợp, khái quát hoá Các yếu tố trong bài để tìm ra ý nghĩa bài (ở các tầng bậc khác
nhau). Đây là công việc của các lớp học và bậc học sau này.
Việc nhớ và hiểu nội dung bài được kết hợp chặt chẽ với việc luyện đọc
nhiều lần văn bản. Vì thế việc đọc lưu loát cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng,
10

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
nó giúp cho các em đọc hiểu về nội dung một câu, một đoạn trong bài. Cần yêu
cầu các em đọc nhiều lần đoạn, câu văn đó (đọc thành tiếng, đọc thầm) sao cho
thông thạo (không phải nhẩm vần). Chỉ khi học sinh được giải phóng khỏi việc
giải mã văn tự để chuyển thành âm thanh ngôn ngữ, tư duy của các em mới có
điều kiện kiểm soát nội dung của câu, của đoạn.
Ở các lớp có nhiều học sinh yếu, giáo viên nên để thời gian dài hơn cho
việc luyện đọc.
Phần hỏi về nội dung bài có thể chưa thu ngắn lại (trong một vài trường
hợp có thể thu ngắn lại) thay câu hỏi sách giáo khoa bằng câu hỏi khác đơn giản
hơn, để các em dễ tìm hiểu hơn hoặc lược bớt câu hỏi trên tổng số hai hoặc ba
câu hỏi trong bài.
Sau bước tìm hiểu nội dung bài thì yêu cầu một vài học sinh đọc lại bài với
yêu cầu cao hơn: đọc hay, đọc diễn cảm. Từ việc đọc diễn cảm bài văn, bài thơ
giúp cho các em hiểu bài sâu hơn. Với các bài tập đọc là thơ thường có yêu cầu
học sinh học thuộc lòng. Giáo viên hướng dẫn học sinh học thuộc lòng ngay tại
lớp.
Trong tiết dạy Tập đọc, thông thường giáo viên chỉ chú trọng đến việc làm
thế nào để các em biết đọc đúng, đọc to cả bài mà bỏ qua việc đọc hiểu bài văn hay bài
thơ. Cách giải nghĩa từ, giảng nội dung từng câu hay đoạn, bài còn mang tính gò bó,
mang tính khuôn mẫu. Vì thế làm hạn chế óc tưởng tượng phong phú của các em.
Trong tiết Tập đọc để phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo
của học sinh, khâu chuẩn bị bài, thiết kế bài dạy rất quan trọng, dựa trên cơ sở
của các phương pháp truyền thống, tôi đưa ra nhưng định hướng đổi mới các hoạt
động, hình thức dạy - học như sau:
* Phần kiểm tra bài cũ:
11
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
- Học sinh tự kiểm tra lẫn nhau.
* Phần bài mới:

- Giới thiệu bài bằng tranh, ảnh hoặc vật thật để gây hứng thú trong giờ
học cho học sinh (tuy nhiên ở phần này giáo viên phải đầu tư cho sự chuẩn bị, phải
tìm tòi).
- Luyện đọc:
+ Đọc tiếng, từ: Cho học sinh tự phát hiện từ khó đọc, tự giải thích từ khó
theo sự hiểu biết của mình.
+ Tìm hiểu bài: Tuỳ theo từng bài mà giáo viên tổ chức các hình thức khác
nhau để học sinh tìm hiểu. Ở đây, tôi cho học sinh trả lời câu hỏi để tìm hiểu bài
dưới hình thức sử dụng bảng phụ để học sinh dễ dàng nhận ra được nội dung phần trả
lời của câu hỏi (đối với học sinh trung bình).
Với mức độ học sinh khá, giỏi tôi cho các em đọc một đoạn văn hay bài
thơ rồi đặt câu hỏi cho bạn trả lời, hay tự đọc câu văn diễn tả ý.
Với mức độ học sinh trung bình của lớp, khi tìm hiểu bài tôi cho học sinh
đọc kĩ câu văn, đoạn văn hay dòng thơ, khổ thơ trả lời cho nội dung câu hỏi rồi
mới đặt câu hỏi để các em trả lời.
* Phần củng cố, dặn dò:
- Học sinh đọc khổ thơ hay đoạn văn mà mình yêu thích lý do mà mình yêu
thích?
- Học sinh đọc trơn cả bài. Chú ý ngắt, nghỉ hơi cho học sinh.
- Nắm được nội dung bài Tập đọc.
2.Kết quả:
Trong quá trình áp dụng một số biện pháp rèn kĩ năng đọc- hiểu cho học sinh
trong lớp, kết quả đã đạt được như sau:
12
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
Định kỳ
Tổng số
học sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ

Giữa kỳ I 18 2 11,2% 4 22,4% 10 56% 2 11,2%
Cuối kỳ I 18 4 22,4% 10 56% 3 16% 1 5,6%
Cuối năm 18 5 28% 10 56% 3 16% 0 0%
C. KẾT LUẬN- KHUYẾN NGHỊ:
I.Kết luận
Trong thực tế giảng dạy, chúng ta gặp rất nhiều những đối tượng học sinh
khó khăn khi tìm hiểu nội dung bài. Khi đó giáo viên phải có kế hoạch rèn kĩ
năng cho từng đối tượng học sinh. Phải thể hiện rõ ở bài soạn: câu hỏi dành cho
học sinh khá, giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu để từ đó có biện pháp uốn
nắn. Giáo viên cần phải biết động viên, tránh sự nôn nóng để tạo hứng thú cho
các em trong việc tự rèn tìm ra kiến thức mới.
Đối với những học sinh còn lúng túng khi tìm câu trả lời thì giáo viên cần
có câu hỏi gợi mở hoăc cho học sinh khá giỏi nói trước, rồi cho học sinh yếu
nhắc lại. Có những học sinh hiểu được ý, nhưng khi diễn đạt bằng lời thì lại lúng
túng và khi đó giáo viên phải tích cực gọi nhiều lần để khuyến khích tính bạo dạn
ở các em
Đối với những học sinh tiếp thu chậm, giáo viên cần chú ý đến các hình
thức tổ chức hoạt động, đưa ra yêu cầu phù hợp với đối tượng để các em hăng
hái, tích cực học tập. Nếu học sinh trả lời chưa đúng, hoặc thiếu ý thì giáo viên
cũng không nên khiển trách ngay mà phải nhẹ nhàng, hướng dẫn để các em
không tự ti, mặc cảm với các bạn khác. Kết hợp với gia đình động viên các em
chăm đọc bài và chuẩn bị nội dung bài trước khi đến lớp. Trong giờ truy bài phân
công học sinh khá kiểm tra học sinh yếu, nội dung bài là ôn bài cũ và chuẩn bị
bài mới.
13
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
Cần khuyến khích các em có nhu cầu đọc qua sách báo, truyện tranh thiếu
nhi. Giáo viên thấy được những tiến bộ rõ rệt của học sinh qua việc các em tự kể
lại theo ý hiểu cho các bạn nghe câu chuyện mình vừa đọc. Hay trong các giờ tự
học, giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua lẫn nhau kể chuyện, tìm hiểu nội dung

truyện hoặc bài Tập đọc qua đó để học sinh tự học tập, phát huy khả năng của
bản thân mình.
Để gây hứng thú cho học sinh, làm cho giờ học sôi nổi hơn, giáo viên có
thể tổ chức cho học sinh tham gia một số trò chơi theo nguyên tắc: “Học mà chơi,
chơi mà học”. Thông qua các hình thức tổ chức hoạt động vui chơi, học sinh
được vui chơi được củng cố các kiến thức đã học, tạo điều kiện cho học sinh
được rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nghe - nói. Từ đó kích thích khả năng ứng xử
ngôn ngữ của học sinh. Rèn tư duy linh hoạt, tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự
tin cho học sinh. Giáo dục tư tưởng lành mạnh, tình cảm tốt đẹp cho học sinh
(qua các tổ chức mang tính tập thể).
Tôi tiến hành thực hiện những biện pháp, những kinh nghiệm từ đầu năm
học, sau khi khảo sát chất lượng đầu năm. Quá trình thực hiện các biện pháp đã
nêu là quá trình lâu dài trong năm học và có sự điều chỉnh nếu các biện pháp đó
còn bất hợp lý đối với đối tượng học sinh.
II. Khuyến nghị :
Trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu muốn phát huy tính tích cực học tập của học
sinh, giáo viên cần tạo mọi điều kiện cho các em được “tự bộc lộ” năng lực nhận
thức và thực hành luyện tập kĩ năng đọc hiểu với sự hỗ trợ của bạn bè và cô giáo.
Giáo viên nên quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt
những em nhút nhát, lúng túng khi trả lời Ngoài ra, đòi hỏi người giáo viên
14
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
phải kiên trì, vượt khó, tìm tòi sáng tạo và phải có tinh thần trách nhiệm cao, lòng
say mê với công việc.
Giáo viên cần khéo léo, khuyến khích động viên khen thưởng kịp thời đối
với những học sinh có tiến bộ, phát huy được khả năng phát triển tư duy tạo cho
không khí lớp học sôi nổi, hào hứng. Có như vậy thì giờ học mới đạt hiệu quả
cao.
Giáo viên cần kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục đó là: Nhà
trường, gia đình, xã hội để tạo điều kiện cho học sinh có điều kiện thuận lợi phục

vụ cho việc học tập. Giáo viên cũng thường xuyên trao đổi với cha mẹ học sinh
để khắc phục những nhược điểm mà học sinh còn mắc phải trong việc rèn kĩ
năng đọc hiểu.
- Nhà trường cần tạo mọi điều kiện thuận lợi về trang thiết bị dạy học, các
tài liệu tham khảo để giáo viên có điều kiện nghiên cứu và tìm ra được những
phương pháp hiệu quả hơn trong việc rèn đọc -hiểu.
Trong quá trình thực hiện có thể còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng
góp ý kiến , bổ xung của Ban giám hiệu nhà trường, bạn bè đồng nghiệp để sáng
kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Ngày 25 tháng 5 năm 2010
Hiệu trưởng
VƯƠNG THU HÀ
CT công đoàn
DƯƠNG THỊ THUẦN
Người viết
NGUYỄN THỊ NGA
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO
15
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
1. Chương trình dạy tiếng mẹ đẻ ở tiểu học – NXBGD – 1997 của Nguyễn
Trí.
2. Kiến thức và kĩ năng trong chương trình Tiếng việt tiểu học– NXBGD –
1997 của Nguyễn Minh Thuyết.
3. Tìm hiểu khả năng hiểu và sử dụng từ của học sinh cấp I qua thí nghiệm
liên tưởng tự do các câu hỏi nghĩa, các bài tập đặt câu – Những vấn đề ngôn ngữ
- NXBGD – 1993 của Nguyễn Thị Hồng Vân.
4. Một số ý kiến về sách giáo khoa tiếng việt hiện hành - Kỳ yếu hội thảo
khoa học toàn quốc – NXBGD – 1997 của Trần Thị Ngọc Anh, Đinh Xuân Hảo.
5. Dạy tiếng việt ở trường tiểu học – Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội –

1994.
6. Tiếng việt lớp 4 tập 1, 2 – NXBGD – 2007 của Nguyễn Minh Thuyết
(chủ biên), Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thị Ly Kha, Đặng Thị Lanh, Lê Phương
Nga, Lê Hữu Tỉnh.
7. Phương pháp dạy học tiếng việt ở tiểu học – Bộ Giáo dục và Đào tạo
thuộc Dự án phát triển giáo viên tiểu học – NXBGD và NXBĐHSP – 2007 của
Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga.
8. Tiếng việt và phương pháp dạy học tiếng việt ở Tiểu học Bộ Giáo dục
và Đào tạo thuộc Dự án phát triển giáo viên tiểu học – NXBGD – 2006 của Đinh
Thị Oanh, Vũ Thị Kim Dung, Phạm Thị Thanh.
E- MỤC LỤC
16
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
Trang
A.MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn sáng kiến kinh nnghiệm 2
II. Mục đích nghiên cứu 2
III. Phạm vi nghiên cứu 2
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
V.Các phương pháp nghiên cứu 3
VI.Đóng góp mới về đề tài 3
VII.Kế hoạch nghiên cứu 3
B. NỘI DUNG
I.Cơ sở lí luận 4
II.Thực trạng của việc dạy học môn Tập đọc hiện nay 6
III.Các giải pháp
1.Giải pháp 7
2.Kết quả 12
C- KẾT LUẬN- KHUYẾN NGHỊ.
1. Kết luận 12

2. Khuyến nghị 14
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
E- MỤC LỤC 17
17
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Nguyễn Thị Nga
18

×