Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.86 KB, 7 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt
*****************************************************************
đề tài :
một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một
nắm chắc chắn môn tiếng việt
I/ Lời nói đầu :
Trong trờng tiểu học, Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng, là
môn học luyện cho các em đọc đúng, viết đúng chính tả, hiểu nghĩa từ, hiểu
bài văn. Riêng đối với lớp một là cái móng, cái gốc. Điều quan trọng nhất là
các em cần đạt bốn kỹ năng (nghe- nói - đọc viết ) việc đổi mới phơng
pháp dạy học, dạy môn Tiếng Việt là việc làm hết sức khó khăn. Bản thân
môn Tiếng Việt bao gồm nhiều phân môn, mỗi phân môn có những đặc trng
riêng, nhng có sự tác động qua lại với nhau, một cách mạnh mẽ. Mục tiêu
giúp các em đọc đúng, viết đúng lỗi chính tả, nên bản thân tôi có : Một vài
kinh nghiệm giúp học sinh lớp một nắm chắc chắn môn Tiếng Việt
II/ Đặt vấn đề :
đây là những vấn đề xuất phát từ lớp học. Các em rất yếu môn Tiếng
Việt. Trong nhiều năm dạy lớp một tôi nhận thấy các em còn nhỏ, cha xác
định đâu là hành vi đúng và hơn nữa phụ huynh ít quan tâm, thiếu đôn đốc
nhắc nhở, còn xem nhẹ, cho là lớp một các em còn nhỏ, Thờng khoán trắng
cho giáo viên, vấn đề đặt ra cho tôi làm thế nào các em đọc đúng, viết đúng
chính tả. Sau bao ngày đêm suy nghĩ, trăn trở
Tôi nảy ra nhiều ý định để học sinh nắm chắc môn Tiếng Việt bằng
cách áp dụng Bộ chữ rời thực hành học vần lớp một, quyển vở chính tả và
dụng cụ trực quan cho mỗi tiết dạy
III/ giải quyết vấn đề :
Ngay từ đầu năm học, khi đợc phân công dạy lớp một. Trong hai tuần
đầu tôi liền khảo sát chất lợng từng em đánh giá một cách thực chất. Tổng
số học sinh 25 em , có 10 em yếu môn Tiếng Việt không biết gì cả về chữ
cái , âm , vần. Hay nói đúng hơn không biết viết,không nhớ mặt chữ, gồm


những em nh sau: (em Huyền + em Lộc + em Tiên + em ý + em Thắng +
em Diệp + em Thới + em Khải + em Dân + Sơn ). Trong đó có hai em cha
qua mẫu giáo (em Hiếu + Ly). Trong mời em này làm tôi bao suy nghĩ .
A/ Hình thức giải quyết :
1/Trao đổi riêng với phụ huynh :
Tôi mời phụ huynh 10 em học sinh yếu trong lớp tổ chức họp ngay từ đầu.
-1-
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt
*****************************************************************
* Cách tiên hành: Tôi nhận xét sơ lợc về chất lợng học tập của từng em và
tầm quan trọng của dụng cụ học tập là bộ chữ học vần + vở chính tả. Tiếp
tục sau đó cho phụ huynh xem một số quyển vở của những em học khá giỏi
trong lớp và để họ có ý kiến cùng tôi. Phụ huynh tán thành và hỗ trợ đắc lực
cho cô giáo từ đó tôi sẽ cố gắng tận tâm phụ đạo qua nhiều hình thức
Bớc 1: Tôi liền vận động phụ huynh mua cho con đầy đủ dụng cụ học tập
vở chính tả v v để sử dụng trong giờ thực hành luyện tập về phần bản
thân tôi, trực tiếp đến phòng thiết bị mợn cho các em có hoàn cảnh khó
khăn hơn cha mua đợc. Tôi giao nhiệm vụ cho từng phụ huynh cần có kế
hoạch cụ thể cho các em.
Bớc 2: Tôi tham mu cùng ban giám hiệu + tổ trởng chuyên môn tổ chức
mời phụ huynh dự giờ tiết Tiếng Việt, để phụ huynh nắm đợc phơng pháp
để bày cho con mình. Bắt đầu tôi giao nhiệm vụ cho từng bố mẹ nhất là 10
em học sinh yếu trong lớp.
Sau khi học xong bài nào giáo viên hớng dẫn ghép âm tạo tiếng mới,
bằng con chữ rời, học sinh nhớ rất lâu. Ví dụ: khi dạy bài 8 có âm l
lê h hè
Học sinh gắn : l + ê = lê. Giáo viên đa quả lê
h + e + dấu huyền, tạo tiếng hè.
Giáo viên giới thiệu tranh về mùa hè

Bài 9 có âm o c .
Học sinh gắn : b + o + dấu huyền tạo tiếng bò
c + o + dấu hỏi, tạo tiếng cỏ
Giáo viên kết hợp đa tranh bò đang ăn cỏ
Bài 10: có âm ô - ơ
Học sinh gắn c + ô = cô, cờ = c+ ơ + dấu huyền tạo tiếng cờ.
Giáo viên kết hợp đa lá cờ
Tôi bắt đầu giao nhiệm vụ : cứ mỗi tối hoặc giờ nghỉ phụ huynh hớng
dẫn các em ghép âm, vần tạo tiếng mới cho các em đọc lại tiếng vừa ghép,
tiến đến là đoc cho các em ghi vào vở với tốc độ đánh vần đến đọc trơn việc
làm này phụ huynh phải thực hiện thờng xuyên sau mỗi bài học trên lớp,
phụ huynh đồng ý và bớc đầu tôi có tin tởng.
2/Giao công việc :
-2-
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt
*****************************************************************
* Sau khi đợc sự thống nhất của phụ huynh tôi yêu cầu trong lớp tất cả đều
phải có bộ thực hành + vở chính tả.
* Về phần giáo viên : sau mỗi tiết dạy Tiếng Việt, tôi luôn sử dụng nhiều
phơng pháp để học sinh phân tích, so sánh phân biệt các âm vần, sử dụng
nhiều trò chơi ghép chữ, tạo tiếng mới, tìm tiếng mới có vần vừa học.Trong
mỗi trò chơi tôi luôn gọi liên tục mời em học sinh yếu này tham gia, giáo
viên kịp thời khen ngợi, uốn nắn những em sai sót không chê trách các em,
các em sẽ thích thú trong giờ học tập. Ví dụ : khi dạy bài 21 ôn tập
* Gắn âm x thêm âm e tạo tiếng mới là xe, sau đó hớng học sinh
thêm dấu thanh, để nguyên âm x thêm âm a tạo tiếng mới là xa . v v
* Gắn âm ch thêm âm e tạo tiếng mới là che sau đó học sinh thêm
đấu thanh tạo tiếng mới và đọc tiếng đó. để nguyên âm ch sau đó thêm
âm a tạo tiếng mới cha thêm âm ô tạo tiếng mới là chô.v v

* Công việc tiếp theo : Tôi đọc cho các em viết vào bảng con sau đó tiến
hành viết vào vở. Kết hợp giờ giải lao hai mơi phút giao nhệm vụ cho ban
chỉ huy trong lớp học giỏi hơn hớng dẫn các bạn ghép lại tạo tiếng mới
hoặc viết nhanh vào bảng con tạo không khí học mà chơi, chơi mà học tất
cả cùng luyện tập một các thành thạo, làm cho các em rất dễ nhớ, dễ khắc
sâu bài học ở lớp.
* Riêng bản thân giáo viên có một bộ chữ học vần biểu diễn lớn , học sinh
tự lên bảng gắn, các em rất thích trong giờ học này. Từ đó trò chơi ghép chữ
không ngại gì đối với các em cứ thế ngày lại ngày trong tháng đầu tiên, cứ
mỗi tiết học đều có thực hành ghép chữ và trò chơi tìm từ ứng dụng.
* Giao công việc cho đôi bạn học tập gần nhà có thể chia nhóm ba em hoặc
bốn em, cùng học, cùng chơi, cùng nhận xét, kiểm tra.
Ví dụ : Em Hà gần cạnh nhà em Bảo + Hằng em Hà nhóm trởng . Em
Huy gần cạnh nhà em Huyền + ý +Khải, em Sơn, em Huy làm nhóm
trởng. Em Định gần cạnh nhà em Lộc + em Thắng + em Tiên em Định
làm nhóm trởng
Giáo viên hớng dẫn cách học : Sau khi học xong bài học trên lớp hớng
dẫn bạn ghép lại, đọc cho bạn ghép nhiều lần, hớng dẫn bạn đọc cứ thế mời
lăm phút đầu giờ, nhóm trởng báo cáo việc học tập ở nhóm.
Hơn một tháng trôi qua, tôi nhận thấy các em cũng có sự chuyển biến nhng
để xem mức độ công tác của các bậc phụ huynh và sự phấn đấu của các em,
-3-
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt
*****************************************************************
bằng cách tôi tìm đến nhà phụ huynh hỏi thăm và nắm tình hình phụ huynh
có phần quan tâm đến việc học tập của con em rất là đáng quí. Đợc sự
kết hợp chặt chẽ giữa nhà trờng và gia đình, đó là điều tôi rất mừng. Đến
tháng thứ hai sau khi tôi khảo sát lại chỉ còn hai em học yếu.
3/ Công việc tiếp tục: Duy trì thờng xuyên đi vào nề nếp, công việc cứ thế

và đợc kéo dài, bắt đầu đến tuần thứ năm trở đi, tôi vận dụng tăng tốc nhanh
dần và thực hiện chung trong cả lớp, dạng nh viết chính tả, khi viết xong
cho học sinh đọc lại.
* Về phần phụ huynh: Về nhà cũng hớng dẫn ghép vần, đồng thời dựa vào
bài học trên lớp đọc cho các em viết, bên cạnh đó giáo viên thờng xuyên
kiểm tra vở ở nhà, chấm điểm có nhận xét tuyên dơng.
* Chất lợng đến giữa kỳ một kiểm tra cũng có phần tiến bộ, bắt đầu đến
tuần thứ mời trở đi khi đến giờ thực hành luyện tập (tiết 2) tôi liên tục đọc
cho các em viết và tìm một số từ mới ứng dụng có chứa vần của bài học cho
học sinh viết thêm vào, đặc biệt những em yếu cần nêu gơng đúng mức tạo
cho các em có thờng xuyên niềm vui và hớng thú trong mọi hoạt động học
tập và rèn luyện.
* Cách 2: Khi học xong bài nào ở lớp, giáo viên không cần nhắc nhở, các
em về nhà tự giác bảo ba mẹ đọc cho các em viết, có khi mỗi bài hai hoặc
ba lần và đọc thuộc đoạn thơ ứng dụng.
* Các em có thể tự kiểm tra vở ở nhà của bạn với nhau đến mời lăm phút
đầu giờ, giáo viên kiểm tra có tuyên dơng, nh chúng ta đã biết. Đối với lớp
một các cô giáo nên khen các em là chính, tạo uy tín rất lớn đối với trẻ. Tuy
nhiên mỗi giáo viên lớp một dù yêu thơng trẻ đến đâu cũng phải đánh giá
kết quả học tập của trẻ. Vì thế trẻ dễ e dè, sợ sệt mất bình tĩnh Nên cô
giáo phải chủ động đến với các em phải tự nhiên, cởi mở yêu thơng, gần
gủi chăm sóc, khoan dung với các em. Nhất là những em yếu, vợt qua khó
khăn, trở ngại về tâm lý, sẽ tạo cho các em vợt lên đạt kết quả cao trong học
tập.
* Cách 3: Tôi lại tìm đến nhà phụ huynh học sinh yếu lần nữa, để xem xét
việc làm của họ. Tất cả các bậc phụ huynh đều hớng dẫn các em thực hành
luyện tập vui chơi giống nh ở lớp, điều này tôi rất vui mừng con tôi từ
không biết gì cả nay đã đọc gần thông viết thạo. Trong thực tế lớp tôi về
-4-
Sáng kiến kinh nghiệm

Đề tài: Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt
*****************************************************************
hoàn cảnh gia đình của các em rất khó khăn, việc đi lại của các em cũng
khó khăn, nhng chất lợng của lớp nay đã tiến bộ rất rõ rệt.
4/Kiên trì tận tâm và liên tục : Công việc này tôi mãi tiếp tục trong những
giờ học trên lớp. đến cuối kỳ một có hai em đọc còn chậm so với các bạn
trong lớp. Tôi bàn với phu huynh hai em này, nên cho đến nhà cô giáo kèm
thêm vì hoàn cảnh của gia đình hai em này hơi đặc biệt hơn, cô giáo tạo
điều kiện cho em học tập. Dần dần hai em đó là em Lộc + em Tiên nay
đã đọc thông viết thạo, nhận chữ nhanh viết chữ rõ ràng đẹp hơn trớc.
* Cách 4: đến học hết giai đoạn vần, sang phần đọc, bắt đầu tuần hai ba. Cứ
mỗi bài tập đọc tôi hớng dẫn cho các em đọc thuộc bài thơ và viết lại bài
thơ, bài văn. Từ đó các em học rất tốt môn Tiếng Việt.
B/Kết quả đạt đợc :
Sau khi đã áp dụng vào thực hành luyện tập trong phân môn Tiếng
Việt, chúng tôi đã vận dụng đầy đủ bốn kỹ năng ( nghe - nói - đọc -
viết ) nhng tôi chú ý đọc, viết nhiều hơn. Không chỉ riêng năm này và
trong những năm trớc đây tôi vẫn áp dụng biện pháp này. Riêng đối
với năm học 2007 2008 tôi tin chắc rằng học sinh khá giỏi môn
Tiếng Việt chiếm tỉ lệ rất cao. Thể hiện qua bảng thống kê sau :
Kết quả giữa kỳ I
Lớp 1C
Môn TS
HS
Giỏi Khá T. bình Yếu
Sl tl sl tl sl tl sl Tl
đọc 25 0 0 5 20% 10 40% 10 40%
Viết 25 0 0 5 20% 9 36% 11 44%
Tbình (Đọc -Viết) 25 0 0 5 20% 9 26% 11 44%
KếT QUả Cuối kỳ I

Lớp 1C
Môn TS HS Giỏi Khá T. bình Yếu
-5-
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt
*****************************************************************
Sl tl sl tl sl tl sl Tl
đọc 25 10 40% 10 40% 5 20% 0 0
Viết 25 10 40% 10 40% 5 20% 0 0
Tb t. việt 25 10 40% 10 40% 5 20% 0 0
Đến nay đợc ban giám hiệu nhà trờng kiểm tra đánh giá là các em
đọc rõ ràng, diễn cảm, hiểu đợc nội dung bài học không những đọc đợc mà
chữ viết của các em rõ ràng, thẳng hàng và viết đúng độ cao của con chữ.
Đồng thời đợc đoàn kiểm tra đánh giá đúng thực chất là 96% học sinh khá
giỏi còn lại 1 em học sinh trung bình Đó là điêù đáng quí ở lớp tôi. Từ đầu
năm có mời em không biết gì cả. Nay đã theo kịp các bạn trong lớp, nhiều
em học rất xuất sắc. Không những bản thân tôi, về phần phụ huynh cũng rất
phấn khởi. Sau buổi họp phụ huynh cuối kỳ một. Tất cả đều phấn khởi con
mình tiến bộ rất rõ nét. Để đa chất lợng môn Tiếng Việt ngày càng cao cần
phối kết hợp Nhà trờng - Gia đình rất quan trọng với hình thức Học mà
chơi - Chơi mà học cùng với những sáng kiến trên mà lớp tôi có những u
điêm nổi bật : Lớp học trật tự - có vai trò tự quản tốt, tiếp thu bài nhanh,
trong tất cả các môn học trong buổi.
IV/bài học kinh nghiệm:
* Muốn đa chất lợng môn Tiếng Việt của học sinh lớp một giáo viên cần
phải :
1. Theo dõi tìm hiểu, tìm ra nguyên nhân cơ bản các em nắm không chắc
chắn các âm, vần, tiếng, từ .để có biện pháp giúp đỡ kịp thời, không
để các em đã học xong chơng trình lớp một mà không đọc đợc, không
viết đợc, các em mất kiến thức cơ bản

2. Bản thân giáo viên phải nhiệt tình, tìm tòi nghiên cứu thật kỹ bài dạy. Để
cung cấp kiến thức phù hợp với trình độ khả năng từng em trong lớp.
3. Phải kiên trì, nhẫn nại, tận tâm, hết mình vì các em, coi các em nh con
cháu của mình, phải nhẹ nhàng không nóng nảy khen nhiều hơn chê.
4. Phải chú ý đến bốn kỹ năng (nghe- nói- đọc - viết) nhng chú trọng rèn
đọc và rèn viết nhiều hơn trong mỗi tiết dạy, phải có bộ chữ học vần và vở
chính tả .
5. Phải rèn luyện một cách nghiêm túc việc chuẩn bị bài ở nhà cho họcsinh
thành thói quen trớc khi đến lớp, có đợc nh thế giờ dạy rất nhẹ nhàng các
em tự tìm ra kiến thức mới một cách dễ dàng, các em hứng thú say mê
trong học tập và học giỏi đều các môn.
-6-
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một vài kinh nghiệm để học sinh lớp một năm chắc chắn môn Tiếng Việt
*****************************************************************
6. Giáo viên phải tận tâm với nghề, thờng xuyên rèn luyện các kỹ năng
(nghe- nói- đọc - viết) mọi lúc mọi nơi
7. Luôn thờng xuyên gặp phụ huynh trao đổi việc học tập các em hằng
tuần, hằng tháng. Nhận xét u khuyết điêm từng em ./.
-7-

×