Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

luận văn quản trị chiến lược Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần dược trung ương Mediplantex)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.1 KB, 50 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Vũ Trí Dũng
đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo giúp đỡ tôi hoàn báo cáo này.
Tôi chân thành cảm ơn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các giảng
viên của khoa Quốc Tế - Trường Đại học Quốc gia hà nội, những người đã
tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành báo cáo này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban tổng giám đốc Công ty cổ phần
dược TW Mediplantex, các bạn bè thân thiết đã giúp đỡ tôi trong qua trình
thực tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới gia đình đã ở bên cạnh
động viên, chăm sóc tôi trong suốt thời gian hoàn thành báo cáo này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2011
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN TRUNG ƯƠNG MEDIPLANTEX 3
CHƯƠNG 1 6
TỔNG QUAN CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC 6
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH 6
1.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
. .
6
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành 6
1.2. Các cấp năng lực cạnh tranh 10
1.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 14
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN TRUNG ƯƠNG MEDIPLANTEX 3
CHƯƠNG 1 6
TỔNG QUAN CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC 6
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH 6
1.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
. .
6


1.1.1. Các khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành 6
1.1.1.1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh 6
1.1.2. Các khái niệm về năng lực cạnh tranh 8
1.2. Các cấp năng lực cạnh tranh 10
1.2.1. Năng lực cạnh tranh sản phẩm 10
1.2.2. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp 11
1.2.3. Năng lực cạnh tranh ngành 12
1.2.4. Năng lực cạnh tranh quốc gia 12
1.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 14
Chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu 46
ĐẶT VẤN ĐỀ
Với việc chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, Việt nam
đã từng bước tạo lập một môi trường kinh doanh cạnh tranh giữa các chủ thể
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Cùng với việc tăng
cường mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt với sự kiện Việt
nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh ngày càng trở
lên gay gắt cả trong nước và quốc tế. Nhờ có sự canh tranh mà các doanh
nghiệp cũng được nâng cao năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế. Cũng do
cạnh tranh trong nước và quốc tế ngày càng trở lên gay gắt, mà yêu cầu về
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh
tế nói chung đang là vấn đề bức xúc hiện nay.
Là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, ngành công
nghiệp dược Việt nam cũng không nằm ngoài xu thế phát triển và hội nhập
của nền kinh tế nước nhà.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới cùng nền kinh tế đất nước, ngành công
nghiệp dược Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể theo hướng công nghiệp
hóa nhằm đảm bảo phát triển vững chắc cả về số lượng và chất lượng, về cơ
bản có thể đảm bảo cung ứng được đầy đủ nhu cầu thuốc phục vụ cho công
tác phòng bệnh và chữa bệnh của nhân dân góp phần vào sự nghiệp chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, từng bước chủ động hội nhập với thị trường

dược phẩm thế giới. Tuy nhiên trên thị trường dược phẩm hiện nay cũng đang
chứng kiến sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp dược phẩm trong
nước và các doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài. Trong đó, các doanh
nghiệp dược phẩm nước ngoài đang tỏ ra có nhiều ưu thế hơn với việc chiếm
lĩnh gần như hoàn toàn phân khúc thuốc đặc trị và đang mở rộng sang phân
khúc thuốc phổ thông. Việc Việt nam gia nhập WTO, một mặt vừa tạo ra
1
nhiều cơ hội, những mặt khác cũng đặt ra nhiều thách thức cho các doanh
nghiệp dược trong nước khi phải cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng hơn.
Công ty cổ phần dược trung ương Mediplantex là một Doanh nghiệp
chuyên sản xuất và kinh doanh dược phẩm , kinh doanh dược liệu nguyên liệu
hóa chất làm làm thuốc. Trong những năm gần đây công ty đang từng bước
phát triển để nâng cao và khẳng định vị thế của mình trên thị trường dược
phẩm. Tuy nhiên để tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh cạnh
tranh ngày càng khốc liệt, Công ty cổ phần dược trung ương Mediplantex cần
phải nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình.
Từ yêu cầu cấp thiết đó, đề tai:”Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công
ty cổ phần dược trung ương Mediplantex) đã được thực hiện voeis mục tiêu:
- Đánh giá năng lực canh tranh của Công ty cổ phần Dược phẩm trung
ương Mediplantex năm 2007 – 2010 qua một số tiêu chí.
- Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực canh tranh
của Công ty cổ phần Dược phẩm trung ương Mediplantex .
2
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN TRUNG ƯƠNG
MEDIPLANTEX
Cổ phần Dược Trung ương Mediplantex, với 28% vốn nhà nước. Công
ty chính thức hoạt động sang mô hình công ty cổ phần từ tháng 4/2005, với
chức năng kinh doanh, sản xuất, xuất nhập khẩu các mặt hàng dược phẩm,
dược liệu, nguyên liệu hoá dược, tinh dầu, mỹ phẩm, máy móc thiết bị, bao bì
cao cấp ngành dược phẩm, mỹ phẩm.

Tầm nhìn
Trở thành một trong những công ty đầu ngành trong lĩnh vực sản xuất
và phân phối dược phẩm
Sứ mệnh
Sản xuất các loại thuốc có giá trị cao, Đóng góp tích cực cho sự nghiệp
chăm sóc sức khoẻ nhân dân và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Năng lực cốt lõi
- Công ty đã được Cục quản lý dược cho phép lưu hành trên 200 sản
phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu điều trị, tất cả các sản phẩm sản
xuất đều được kiểm tra chất lượng trên hệ thống thiết bị hiện đại.
- Nguyên liệu sản xuất hoá dược chủ yếu nhập khẩu từ các nhà cung
cấp, các công ty đa quốc gia có uy tín, các sản phẩm được sản xuất từ dược
thảo đều tiêu chuẩn hoá cao, đạt các tiêu chuẩn dược điển Việt Nam và Quốc
tế.
- Công ty là đơn vị tiên phong đi đầu và chủ lực trong lĩnh vực nuôi
trồng và chế biến dược liệu, chiết xuất và tinh chế các loại cây tinh dầu (Bạc
hà, Sả, Tràm, Hồi, Quế…). Các loại thuốc sốt rét ( Artemisinin, Artersunat,
Artemethe,…). Berberin, Rutin các loại thuốc y học cổ truyền được bào chế
hiện đại phục vụ tiêu dùng cả nước và xuất khẩu.
3
- Công ty đã thực hiện nhiều thành công nhiều đề tài nghiên cứu cấp
nhà nước và cấp Bộ.
- Đội ngũ cán bộ công nhân viên trên 500 người, trong đó có 277 cán bộ
có trình độ đại học và trên đại học thuộc các lĩnh vực dược phẩm, hoá học, kinh tế,
tài chính, xây dựng, cơ khí, y khoa, 100 cán bộ có trình độ trung cấp, số còn lại tất
cả đều qua đào tạo sơ cấp, là kỹ thuật viên, công nhân có tay nghề cao.
- Mạng lưới phân phối nhanh chóng, hiệu quả, rộng khắp các tỉnh
thành phố trong cả nước. Với 3 cửa hàng đặt tại Hà Nội, 2 chi nhánh đặt tại
TPHCM và Bắc Giang. Và hơn 200 đại lý phân phối chính thức đặt tại các
tỉnh thành trong cả nước.

- Công ty có mối quan hệ thương mại với các Công ty ở trên 20 nước
từ châu Âu tới châu Á như: Pháp, Anh, Áo, Đức, Tiệp, Trung Quốc, Ấn độ
Kim ngạch nhập khẩu của công ty trong các năm gần đây đạt khoảng
20.000.000 USD mỗi năm trên 6 thị trường trọng điểm: Pháp, Úc, Đức, Ấn
độ, Nhật, Hàn Quốc. Sản phẩm thuốc nhập khẩu có số Visa của Cục quản lý
dược với số lượng trên 200 loại thuốc khác nhau với các nhóm đặc thù như:
nhóm thuốc kháng sinh, hạ sốt, đường ruột, tim mạch, thần kinh, bổ dưỡng.
- Công ty Cổ phần Dược Trung ương Mediplantex đã tham gia cung
cấp thuốc cho nhiều chương trình thuốc của nhà nước và của Bộ Y tế cũng
như cung cấp thuốc cho các bệnh viện lớn như Bạch Mai, Việt Đức, Viện
108, Viện 103 , Hữu nghị, Viện 198, Viện Nhi Thuỵ Điển, Viện Da liễu
Và hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước.
- Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu, thành phẩm thuốc
chữa sốt rét được chiết xuất từ Thanh Hao Hoa Vàng, các loại thành phần tân
dược, đông dược, tinh dầu.
Mục tiêu phát triển
Đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp Dược, sản xuất các loại thuốc có
giá trị cao, đẩy mạnh nghiên cứu chế tạo nhiều mặt hàng mới được người tiêu
4
dùng ưa chuộng và có giá trị kinh tế cao.
Song song với đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, công ty cũng chú ý đầu
tư, phát triển các mặt công tác quản lý chất lượng, nghiên cứu phát triển quản lý
kinh tế tài chính, phát triển thương hiệu, mở rộng phát triển thị trường trong
nước và nước ngoài, từng bước quốc tế hoá hoạt động của công ty trên các mặt
quản lý chất lượng kinh tế, thương hiệu, nhân lực thích ứng với yêu cầu của hoạt
động kinh doanh mang tính chất toàn cầu ngày càng cao. Xây dựng thương hiệu
Mediplantex trở thành thương hiệu nổi tiếng và được yêu thích.
Lĩnh vực kinh doanh
Lĩnh vực kinh doanh chuyên ngành:
Dược phẩm, mỹ phẩm, sản phẩm vệ sinh và thực phẩm dưỡng sinh,

lương thực, thực phẩm; nguyên liệu làm thuốc, dược liệu, tinh dầu, hương liệu,
phụ liệu, hóa chất (trừ hóa chất Nhà nước cấm), chất màu phục vụ cho dược
phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm và công nghệ; xuất nhập khẩu các mặt hàng Công
ty kinh doanh; Mua bán máy móc, thiết bị y tế, máy móc, thiết bị bao bì phục vụ
cho sản xuất tân dược, thuốc y học cổ truyền, mỹ phẩm, thực phẩm bổ dưỡng;
trồng cây dược liệu; vacxin sinh phẩm y tế; dịch vụ nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ, tư vấn, đào tạo huấn luyện chuyên ngành y dược ; doanh
nghiệp sản xuất thuốc (Doanh nghiệp chỉ được kinh doanh khi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép); phòng chẩn trị y học cổ truyền
Lĩnh vực kinh doanh khác
Kinh doanh bất động sản; cho thuê văn phòng, nhà cửa, kho tàng; dịch vụ
môi giới đầu tư, môi giới thương mại và ủy thác xuất nhập khẩu; sản xuất, mua
bán đồ gia dụng, các mặt hàng điện tử, điện lạnh, điện thoại và thiết bị linh kiện
điện tử, điện lạnh, điện thoại; đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hóa.
Phương châm hoạt động: “Vì sức khoẻ và vẻ đẹp con người”
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
1.1. Năng lực cạnh tranh và cơ sở lý thuyết về nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của ngành
1.1.1.1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh
Nền kinh tế thế giới ngày càng đi vào tình trạng cạnh tranh toàn diện,
các rào cản thương mại truyền thống dần được gỡ bỏ hoặc không còn tác
dụng, các đối thủ cạnh tranh mới nổi lên, và sự cạnh tranh toàn cầu trở nên
gay gắt hơn.
Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể
có chung một môi trường sống đối với điều kiện nào đó mà các cá thể cùng

quan tâm.
Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều
lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, thể thao; thường
xuyên được nhắc tới trong các tài liệu chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như
các phương tiện thông tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối
tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau
về “cạnh tranh”:
(i) Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là
hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài
vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự
kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác.
6
(ii) Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế
giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu lợi
nhiều nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với
người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua
rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn; giữa những
người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ.
(iii) Theo Michael Porter [46] thì: cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản
chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là
sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn
đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh bằng giá cả (giảm giá, chiết
khấu,…) hoặc cạnh tranh phi giá cả (quảng cáo, nỗ lực phân phối,…). Cạnh
tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó,
dưới các điều kiện về thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất ra các sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo
ra việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế.

Cạnh tranh là quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, nó thúc đẩy
quá trình phát triển của các hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá, dịch
vụ. Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thức và coi cạnh tranh
vừa là môi trường, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng,
và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển,
góp phần vào sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt
cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có
chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học,
7
công nghệ trong đó cao hơn để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh, làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt
tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng
những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn
thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao
năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
1.1.2. Các khái niệm về năng lực cạnh tranh
Thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” có nguồn gốc la-tinh là competere, tức
là cùng gặp nhau tại một điểm, chỉ ra khả năng đương đầu với tình trạng cạnh
tranh và ganh đua với người khác .
Năng lực cạnh tranh được hiểu là khả năng kiểm soát các lợi thế tương
đối (vượt trội) so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Khái niệm năng lực cạnh
tranh được sử dụng không chỉ đối với sự ganh đua giữa các sản phẩm của các
doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau mà còn được sử dụng trong
việc so sánh năng lực cạnh tranh giữa các quốc gia trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế.
Ngày nay, vấn đề năng lực cạnh tranh ngày càng được đặt ra như là
một tiêu thức quan trọng để xem xét các triển vọng phát triển của các quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển muốn hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới.

Những năm gần đây, khái niệm năng lực cạnh tranh ngày càng được
nhiều người quan tâm, từ các nhà nghiên cứu, các chính trị gia đến các nhà
quản lý chính quyền và giới doanh nhân. Tuy nhiên, cho đến nay khái niệm
này vẫn chưa được quan niệm và sử dụng một cách thống nhất. Từ thực tế
tham khảo các nguồn tài liệu khác nhau, năng lực cạnh tranh có thể được định
nghĩa như sau:
8
Theo OECD “năng lực cạnh tranh” được định nghĩa là sức sản xuất ra
thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm
cho doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát
triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Theo Bạch Thụ Cường [1], từ điển thuật ngữ chính sách thương mại lại
quan niệm năng lực cạnh tranh là “năng lực của một doanh nghiệp hoặc một
ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác, quốc gia khác
đánh bại về năng lực kinh tế”.
Theo Chủ tịch Hội đồng Năng lực cạnh tranh của Mỹ [50]: “năng lực
cạnh tranh là khả năng của một quốc gia, trong điều kiện thị trường tự do và
lành mạnh, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của thị trường
quốc tế”.
Diễn đàn Kinh tế thế giới [51] lại quan niệm “năng lực cạnh tranh là
khả năng của một đất nước trong việc đạt được tỷ lệ tăng trưởng thu nhập
bình quân đầu người cao và bền vững”.
Theo Nhóm tư vấn về năng lực cạnh tranh [31]: “Năng lực cạnh tranh
liên quan đến các yếu tố năng suất, hiệu suất và khả năng sinh lợi. Năng lực
cạnh tranh là một phương tiện nhằm tăng các tiêu chuẩn cuộc sống và phúc
lợi xã hội. Xét trên bình diện toàn cầu, nhờ tăng năng suất, hiệu suất trong bối
cảnh phân công lao động quốc tế, năng lực cạnh tranh tạo nền tảng cho việc
tăng thu nhập thực tế của người dân”.
Như vậy, có thể kết luận rằng quan niệm về năng lực cạnh tranh hiện
được hiểu rất rộng theo nhiều nghĩa, và chưa có được một khái niệm thực sự rõ

ràng. Từ các quan niệm trên, có thể rút ra một kết luận chung là: “năng lực cạnh
tranh là khả năng tạo ra các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với yêu cầu của thị
trường và tạo ra cơ hội thu nhập cao hơn và bền vững cho chủ thể cạnh tranh”.
9
1.2. Các cấp năng lực cạnh tranh
Do các chủ thể cạnh tranh có thể khác nhau, nên việc phân biệt về quan
niệm năng lực cạnh tranh cũng cần được phân chia thành các cấp khác nhau.
1.2.1. Năng lực cạnh tranh sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó trên thị
trường là sự thể hiện ưu thế tương đối của nó cả về định tính và định lượng so
với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại khác. Mỗi sản phẩm do từng nhà sản xuất
đưa ra thị trường sẽ được người tiêu dùng đón nhận với các mức độ cao thấp
khác nhau. Sự thừa nhận của người tiêu dùng thể hiện việc qua việc mua hay
không mua sản phẩm đó, là biểu hiện cuối cùng về năng lực cạnh tranh của
sản phẩm đó. Để được người tiêu dùng thừa nhận và đánh giá cao, mỗi sản
phẩm hoặc dịch vụ cần có lợi thế cạnh tranh so với các sản phẩm, dịch vụ
cùng loại khác. Các lợi thế này có thể là ưu thế về giá (giá bán thấp hơn) hoặc
ưu thế về giá trị cho khách hàng (tạo sự khác biệt so với các sản phẩm, dịch
vụ cùng loại, mang lại giá trị cao hơn cho khách hàng, và có thể bán với giá
cao hơn).
Năng lực cạnh tranh sản phẩm thường được nhận biết thông qua (i)
đánh giá trực tiếp từ thị trường (tăng trưởng doanh thu, thị phần), (ii) đánh giá
trực tiếp trên sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá cả, tiện ích, mẫu mã, vv) và
(iii) đánh giá từ ý kiến của khách hàng (mức độ thỏa mãn nhu cầu, mức độ
nhận biết sản phẩm, mức độ trung thành với nhãn hiệu, vv).
Đối với sản phẩm xuất khẩu, ngoài các dấu hiệu nhận biết nêu trên,
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm còn có thể được đánh giá thông
qua Hệ số cạnh tranh biểu hiện (RCA). Hệ số này phản ánh vị trí lợi thế so
sánh đạt được của sản phẩm trên thị trường quốc tế trong tương quan với tổng
giá trị xuất khẩu của quốc gia.

10
1.2.2. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Năng cạnh tranh của một doanh nghiệp thể hiện khả năng của nó trong
dài hạn. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh tốt khi nó đạt
được các kết quả tốt hơn mức trung bình. Như vậy, đối với doanh nghiệp,
năng lực cạnh tranh là khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiệu quả
hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá thông qua khả
năng cạnh tranh về giá và năng lực cạnh tranh ngoài giá (thị phần, chất lượng
sản phẩm, năng suất, vv).
Đối với doanh nghiệp có tham gia hoạt động ngoại thương, việc đánh
giá năng lực cạnh tranh có thể thông qua tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ xuất khẩu
(doanh thu xuất khẩu so với tổng doanh thu), thị phần cho từng vùng hay thị
phần tổng thể.
Vị thế trên thị trường quốc tế cũng là một thước đo trực tiếp năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực thương mại, năng lực cạnh tranh
có nghĩa là sự duy trì được thành công trên thị trường quốc tế mà không cần
có sự bảo hộ hoặc trợ cấp. Mặc dù chi phí vận chuyển có thể cho phép các
doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn tại thị trường trong nước, nhưng năng lực
cạnh tranh lại thường được tính đến nhiều hơn thông qua lợi thế có được nhờ
năng suất cao hơn.
Trong lĩnh vực phi thương mại, năng lực cạnh tranh là khả năng theo
kịp hoặc vượt qua doanh nghiệp tốt nhất trên thị trường về mặt chi phí và chất
lượng của sản phẩm hay dịch vụ. Đo lường năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong lĩnh vực phi thương mại thường khó khăn hơn và thường bao
gồm các thước đo về khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, chi phí và chất
lượng. Với các ngành được đầu tư trực tiếp nước ngoài, thước đo năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp có thể là phần trăm doanh thu từ nước ngoài
hoặc thị phần của doanh nghiệp trên thị trường vùng hoặc thị trường toàn cầu.
11

1.2.3. Năng lực cạnh tranh ngành
Đối với một ngành, năng lực cạnh tranh là khả năng đạt được những
thành tích bền vững của các doanh nghiệp (của quốc gia) trong ngành so với
các đối thủ nước ngoài, mà không nhờ sự bảo hộ hoặc trợ cấp [29].
Theo Liên Hiệp Quốc, năng lực cạnh tranh của một ngành có thể được
đánh giá thông qua khả năng sinh lời của các doanh nghiệp trong ngành, cán
cân ngoại thương của ngành, cán cân đầu tư nước ngoài (đầu tư ra nước ngoài
và đầu tư từ nước ngoài vào), và những thước đo trực tiếp về chi phí và chất
lượng ở cấp ngành [49].
Năng lực cạnh trạnh cấp ngành thường được xem là dấu hiệu phù hợp
về “sức khoẻ” của nền kinh tế đối với ngành lên quan hơn là năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Sự thành công của một doanh nghiệp của một
quốc gia có thể là nhờ sở hữu những yếu tố đặc thù của doanh nghiệp mà khó
hoặc không thể nhân rộng. Ngược lại, sự thành công của một số doanh nghiệp
trong một ngành thường được xem là bằng chứng thuyết phục về sự sở hữu
những yếu tố đặc thù của quốc gia và có thể nhân rộng hoặc cải thiện được.
Tổng cộng các năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp riêng lẻ không có
nghĩa là năng lực cạnh tranh của cả một ngành.
1.2.4. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Năng lực cạnh tranh quốc gia được quan niệm và phản ánh qua một
loạt các chỉ tiêu và được nghiên cứu ngày càng nhiều từ những năm 1970-
1980. Nổi tiếng nhất là những đóng góp của nhà nghiên cứu Michael Porter
với nhiều công trình về cạnh tranh nói chung, cạnh tranh của doanh nghiệp,
lợi thế cạnh tranh quốc gia trong một số lĩnh vực của một số quốc gia quan
trọng như Tây Âu, Mỹ, Nhật, vv.
Đối với một quốc gia, năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất sản
phẩm và dịch vụ, trong điều kiện một thị trường tự do và bình đẳng, phù hợp
12
với yêu cầu của thị trường quốc tế đồng thời nâng cao thu nhập thực sự cho
công dân của quốc gia đó.

Năng lực cạnh tranh của quốc gia được đánh giá thông qua mức độ và
tốc độ tăng của mức sống, mức độ và tốc độ tăng của năng suất tổng thể, và
khả năng thâm nhập của các doanh nghiệp vào các thị trường quốc tế thông
qua xuất khẩu hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài [29].
Sự gia tăng mức sống của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn khi
doanh nghiệp muốn có được lợi thế trong việc tiếp cận các cơ hội của thị
trường thế giới, nhất là trong điều kiện mà thương mại quốc tế và đầu tư nước
ngoài tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng sản lượng của nền kinh
tế thế giới những năm vừa qua.
Năng lực cạnh tranh của các ngành tham gia thương mại quốc tế có thể
trở thành một đòn bẩy quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Điều này đặc biệt
đúng với các nước nhỏ, khi mà năng lực cạnh tranh tốt cho phép họ vượt qua
được những hạn chế về quy mô thị trường trong nước để khai thác hết những
tiềm năng của ngành.
Một nền kinh tế mạnh phải có những doanh nghiệp mạnh. Năng lực
cạnh tranh cũng rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước nhằm
chống lại những đe doạ từ môi trường kinh tế quốc tế, vốn ngày càng trở lên
khốc liệt hơn bao giờ hết. Sự cạnh tranh này đang tạo những sức ép rất lớn lên
mọi chủ thể của nền kinh tế, từ các nhà quản lý, đến lực lượng lao động và
chính phủ. Trong một môi trường mà mọi doanh nghiệp cần phải liên tục cải
thiện năng lực của mình để vượt qua những thách thức từ đội ngũ đông đảo
các đối thủ, mỗi yếu kém về quản lý, lao động hay chính quyền đều làm tăng
nguy cơ thất bại và có thể trở thành thảm hoạ đối với doanh nghiệp.
13
Đối với cấp quốc gia, năng lực cạnh tranh có nghĩa là khả năng đạt
được các tiêu chuẩn sống cao hơn của người dân. Ở hầu hết các quốc gia, tiêu
chuẩn sống được xác định bởi năng suất theo các nguồn lực được huy động,
sản lượng của nền kinh tế theo đơn vị lao động hay đơn vị vốn sử dụng. Một
mức sống cao cho mọi người dân của quốc gia có thể được duy trì nhờ sự

nâng cao năng suất liên tục, nhờ có năng suất cao hơn trong các ngành hiện
tại hoặc nhờ tham gia vào các ngành có năng suất cao hơn. Năng lực cạnh
tranh của quốc gia có thể được đo lường thông qua mức độ và sự gia tăng của
mức sống, mức độ và sự tăng trưởng của năng suất tổng thể, và khả năng
thâm nhập thị trường thế giới của các doanh nghiệp trong nước thông qua
xuất khẩu và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
1.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải thể
hiện được bản chất của năng lực canh tranh doanh nghiệp, thể hiện được mức
độ cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh được thị trường, thu hút
được các yếu tố đầu vào. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp cần làm đảo bảo tính bền vững, nghĩa là tính đến
việc sử dụng các điều kiện sẵn có để duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn.
1.3.1. Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp là chỉ tiêu tổng hợp, quan trọng, phản ánh
năng lực cạnh tranh theo kết quả đầu ra của doanh nghiệp. Thi phần của năng
lực cạnh tranh theo kết quả đầu ra của doing nghiệp. Thị phần của doanh
nghiệp càng lớn và ngược lại. Tiêu chí này thường được đo bằng doanh thu
hoặc doanh số tiêu thụ của doanh nghiệp trong một giai đoanh nhất định so
với tổng doanh thu hay sản lượng tiêu thụ trên thị trường.
14
TPi=Di/D x 100%
Trong đó TPi: Thị phần doanh nghiệp i.
Di: Doanh thu hoặc doanh số tiêu thụ của doanh nghiệp i
D: Tổng doanh thu hoặc doanh số tiêu thụ trên thị trường.
Để tính được sự biến chuyển của năng lực canh tranh theo thời gian,
chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng thị phần cũng được xem xét đến, thường trong
khoảng 3 – 5 năm.
1.3.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm

Chỉ tiêu này được xác định dựa trên một số tiêu chí như:
Chất lượng của sản phẩm và bao gói: Đối với ngành dược,các doanh
nghiệp thường xuyên phải đổi mới và hoàn thiện về chất lượng , kiểu dáng,
mẫu mã, tạo được những nét độc đáo riêng,
Chủng loại sản phẩm: Đó là danh mục các thuốc, hàm lượng , các dạng
bào chế
Giá của sản phẩm: Chỉ tiêu này được xác định đủ sức mạnh cạnh tranh
với giá cả cùng loại hoặc tương đương của các nước khác, chi ít la đối thủ
trong khu vực và những đối thủ cạnh tranh với mình.
Hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm : Hệ thống phân phối được
coi là một tiêu chí quan trọng dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
Hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh:
Hoạt động xúc tiến có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng uy tín
và doang thu. Hoạt động xúc tiến là cần thiết, để công bố sự có mặt của sản
phẩm trên thị trường, thiêt lập chỗ đứng của doanh nghiệp trên thị trường, sản
phẩm của doanh nghiệp sẽ được bảo vệ, tạo điều kiện mở rộng thị trường,
duy trì khác hàng thường xuyên và thu hút khách hàng tiềm năng.
1.3.3 Năng lực sản xuất
Chỉ tiêu này được thể hiện qua 2 tiêu chí:
15
Trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiệp: Nhà xưởng, máy móc,
trang thiết bị,…
Năng suất lao động bình quân theo doanh thu của cán bộ nhân viên:
Được xác định bằng doanh số bán chia cho tổng số cán bộ công nhân
trong sản xuất và kinh.
1.3.4. Năng lực thu hút và đào tạo nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực (Man) là một trong bốn nguồn nhân lực của doanh nghiệp
(Man, Money, Management, Materia). Nhờ có khả năng thu hút nguồn nhân lực có
trình độ, tay nghề cao mà doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản

xuất kinh doanh. Đây là một tiền đề đảm bảo cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh
trong dài hạn. Năng lực này được thể hiện qua một số tiêu chí:
Chất lượng của nguồn nhân lực hiện tai: Thể hiện qua cơ cấu trình độ
cán bộ.
Đào tạo nguồn nhân lực: Các hình thức đào tạo mà doanh nghiệp đã sử
dụng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện tại.
1.3.5. Năng lực nghiên cứu và phát triển
Bao gồm cân nhắc về thành tựu đổi mới để triển khai các sản phẩm
mới, quy trình mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải
tiến mẫu mã, nâng cao sản suất. Yếu tố này có thể được đo lường dựa trên :
Nhân lực nghiên cứu, chi phí tài chính cho hoạt động nghiên cưu và
phát triển.
Khả năng đổi mới các sản phẩm của doanh nghiệp
1.3.6. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở qui mô vốn, khả
năng huy động vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính trong doanh
nghiệp, …Việc sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh có ý nghĩa rất
lớn trong việc làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Việc huy
động vốn kịp thời làm giảm đáp ứng vật tư, thuê công nhân, mua sắm thiết bị,
16
công nghệ. Năng lực tài chính doanh nghiệp được đánh giá dựa trên một số
chỉ tiêu:
Chỉ tiêu về khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh ng hiệp
Hệ số thanh toán hiện hành (Current Ratio) = Tổng tài sản lưu động/
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán nhanh (Quick Ratio) = (Tổng tài sản lưu động – Hàng
tồn kho)/Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu quy mô nguồn vốn và cơ cấu vốn:
Quy mô nguồn vốn.
Hệ số nợ trên tổng tài sản.

Hệ số vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn.
Tốc độ luân chuyển vốn:
Vòng quay hàng tồn kho= Giá vốn bán hàng trong kỳ/Hàng tồn kho
bình quân.
Vòng quay tài sản cố định=Tổng doanh thu thuần trong kỳ/Giá trị tài
sản còn lại.
Vòng quay tài sản ngắn hạn = Tổng doanh thu thuần trong kỳ/ tài sản
ngắn hạn bình quân trong kỳ.
Vòng quay tổng tài sản = Tổng doanh thu thuần trong kỳ/Giá trị tài sản
bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh trong kỳ.
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
Hệ số lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần.
Hệ số lợi nhuận sau thuế trên vốn đầu tư
1.3.7. Năng lực quản lý, lãnh đạo
Năng lực quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp là yếu tố quan trọng cấu
thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có tổ chức tốt doanh nghiệp sẽ
làm tốt
Thể hiện qua:
Hệ thống tổ chức doanh nghiệp
Trình độ đội ngũ lãnh đạo
1.3.8. Đánh giá tổng quan năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
17
Đây là yếu tố mang tính tổng hợp các yếu tố đã trình bầy ở trên. Uy tín,
danh tiếng của doanh nghiệp đòi hỏi một quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì
theo đuổi mục tiêu chiến lược đúng đắn của mình.
Ngoài tiêu chí trên còn còn có thể đánh giá “ lợi nhuận của doanh
nghiệp “ ,”Lợi ích người lao động “…, tùy thuộc vào doanh nghiệp cụ thể,
ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh cà thực trạng của doanh nghiệp.
Trên đây là chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói

chung. Tích hợp các tác nhân trên chính là xác định tổng nội lực của doanh
nghiệp trên những thị trường mục tiêu xác định với tập các đối thủ cạnh tranh
trực tiếp xác định , từ đó vận dụng phương pháp chuẩn, đối sách với kỹ thuật
thang 5 điểm ( Trong đó:5-Hoàn toàn đồng ý; 4-Đồng ý; 3 - Lưỡng lự; 2 –
Không đồng ý; 1- Hoàn toàn không đồng ý) để lập bảng câu hỏi đánh giá các
tham số quan trọng nhất, xác định cho điểm trình độ năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, mỗi thông số đo cường độ tác động và ảnh hưởng có hệ số
quan trọng đến năng lực canh tranh tổng thể của doanh nghiệp khác. Có thể
khái quát quy trình xác định tổng nội lực của doanh nghiệp gồm các bước sau:
Bước 1: Lập danh mục các yếu tố có vai trò quan trọng quyết định năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Bước 2: Xác định mức độ quan trọng của từng yếu tố thông qua cho
điểm theo các mức độ quan trọng khác nhau.
Bước 3:Xác định tổng số ảnh hưởng của từng yếu tố tương ứng
Bước 4:Tính điểm của từng yếu tố.
Bước 5: Cộng điểm toàn bộ các yếu tố ảnh hưởng.
Nếu tổng điểm là 3,5 là trung bình, đạt 5 la tốt và đạt 2 là yếu.
Mỗi tham số trên của doanh nghiệp được đánh giá bởi tập mẫu đại diện
điển hình có liên quan (Nhà quản trị của doanh nghiệp, các khách hàng và các
công chúng trực tiếp của doanh nghiệp ) và tính điểm bình quân.
Khi đó NLCT tuyệt đối của doanh nghiệp được:
18
n
D
NLCTDN
= ∑ Ki.Pi
i=1
- DNLCTDN: Tính điểm đánh giá năng lực cạnh tranh tổng hợp của
doanh nghiệp.
- Pi: Điểm bình quân tham số I của tập hợp mẫu đánh giá

- Ki: Hệ số quan trọng của tham số i
- Trong đó ∑ Ki = 1.
- n là số chỉ tiêu lựa chọn
1.4. Thực trạng năng lực cạnh tranh và định hướng phát triển
ngành công nghiệp dược Việt Nam
1.4.1 Thực trạng của Việt nam trên thế giới
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2010-2011 của WEF cho
thấy, Việt Nam đạt điểm số năng lực cạnh tranh (GCI) 4,3 điểm, tăng so với mức
4,0 điểm trong báo cáo 2009-2010 và mức 4,1 điểm trong báo cáo 2008-2009.
Cùng với sự cải thiện điểm số này, thứ hạng của Việt Nam trong xếp
hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu đã tăng lên vị trí thứ 59 trong tổng số 139
nền kinh tế được xếp hạng trong báo cáo năm nay, từ vị trí 75/133 trong báo
cáo năm ngoái, và vị trí 70/134 của báo cáo năm 2008.
Như vậy, sau khi bị giảm điểm và xuống hạng trong năm 2009, năng
lực cạnh tranh của Việt Nam đã được cải thiện dưới góc nhìn của WEF.
Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu được WEF công bố ngày 10/9 tại
Bắc Kinh, Trung Quốc, trước thềm hội nghị thường niên của tổ chức này diễn
ra tại Thiên Tân.
WEF đánh giá năng lực cạnh tranh của các quốc gia dựa 3 hạng mục
cho điểm chính, bao gồm 12 trụ cột khác nhau. Hạng mục thứ nhất (các Yêu
cầu cơ bản) gồm 4 trụ cột là thể chế, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô,
19
giáo dục cơ bản và chăm sóc y tế. Hạng mục thứ hai (Các nhân tố cải thiện
hiệu quả) gồm 6 trụ cột là giáo dục bậc cao và đào tạo, tính hiệu quả của thị
trường hàng hóa, tính hiệu quả của thị trường lao động, mức độ phát triển của
thị trường tài chính, mức độ sẵn sàng về công nghệ, quy mô thị trường. Hạng
mục thứ ba (Các nhân tố về sáng tạo và phát triển) gồm 2 trụ cột là trình độ
phát triển của doanh nghiệp, và năng lực sáng tạo.
Trong mỗi trụ cột này lại bao gồm nhiều yếu tố khác nhau để xếp hạng,
chẳng hạn, trụ cột thể chế bao gồm 21 yếu tố, từ quyền sở hữu trí tuệ tới mức

độ bảo vệ nhà đầu tư.
Ở hạng mục Yêu cầu cơ bản, Việt Nam đạt điểm số 4,4 và xếp hạng thứ
74; ở hạng mục Các nhân tố cải thiện hiệu quả, điểm số dành cho Việt Nam là
4,2, tương đương vị trí thứ 57; còn ở hạng mục Các nhân tố về sáng tạo và
phát triển, Việt Nam đạt 3,7 điểm, xếp thứ 53.
Khi đánh giá các yếu tố trong từng trụ cột, WEF xếp Việt Nam ở các vị
trí khá cao ở các yếu tố như: tiền lương và năng suất (hạng 4/139), mức độ tin
tưởng của dân chúng vào các chính trị gia (32), mức độ đáng tin cậy của lực
lượng cảnh sát (41), hệ thống điện thoại cố định (35), sự phủ sóng Internet tại
trường học (49), tỷ lệ tiết kiệm quốc gia (17), trình độ của người tiêu dùng
(45), mức độ tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động (20), khả năng huy
động vốn qua thị trường chứng khoán (35), FDI và chuyển giao công nghệ
(31), quy mô thị trường nội địa (39), quy mô thị trường nước ngoài (29)…
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều những yếu tố mà Việt Nam
gần ở cuối bảng như: mức độ bảo vệ các nhà đầu tư (133), gánh nặng thủ tục
hành chính (120), năng lực kiểm toán và tiêu chuẩn báo cáo (119), chất lượng
cơ sở hạ tầng nói chung (123), cân bằng ngân sách chính phủ (126), thời gian
thành lập doanh nghiệp (118), quyền sở hữu của nước ngoài (114), mức độ
sẵn có của công nghệ tân tiến nhất (102)…
20
Chính mức độ bảo vệ nhà đầu tư cũng là một yếu tố khiến Việt Nam bị
giảm điểm trong xếp hạng môi trường kinh doanh (Best countries for
business) do tạp chí Forbes công bố mới đây. Ở yếu tố đánh giá này trong xếp
hạng của Forbes, Việt Nam xếp 125/128 nền kinh tế được đưa vào báo cáo.
Vị trí của Việt Nam trong đánh giá môi trường kinh doanh của Forbes là 118.
WEF cũng liệt kê những yếu tố gây cản trở nhiều nhất đối với hoạt
động kinh doanh tại các quốc gia được xếp hạng trong báo cáo. Đối với Việt
Nam, 5 rào cản hàng đầu bao gồm khả năng tiếp cận vốn, lạm phát, mức độ
ổn định thấp của chính sách, lực lượng lao động chưa được đào tạo đầy đủ, và
cơ sở hạ tầng hạn chế.

Tuy thăng hạng so với báo cáo năm ngoái, nhưng năng lực cạnh tranh
của Việt Nam theo WEF vẫn thấp hơn so với hầu hết các quốc gia khác trong
khu vực Đông Nam Á như Singapore (5,5 điểm/hạng 3), Malaysia (4,9
điểm/hạng 26), Brunei (4,8 điểm/hạng 28), Thái Lan (4,5 điểm/hạng 38),
Indonesia (4,4 điểm/hạng 44).
Ba quốc gia Đông Nam Á có điểm số và xếp hạng kém Việt Nam là
Philippines (4 điểm/hạng 85) và Cambodia (3,6 điểm/hạng 109), Timor-Leste
(3,2 điểm/hạng 133). Trong khi đó, theo báo cáo của Forbes, cả Philippines và
Cambodia đều được đánh giá cao hơn Việt Nam.
Hai nền kinh tế đứng liền trên Việt Nam trong xếp hạng này là
Azerbaijan và Brazil, hai nền kinh tế đứng liền dưới là Slovak và Thổ Nhĩ Kỳ.
Quốc gia láng giềng Trung Quốc của Việt Nam đạt 4,8 điểm và đứng ở
vị trí thứ 27, thăng 2 hạng so với năm ngoái. Trong khi đó, nền kinh tế lớn
nhất thế giới là Mỹ bị tụt 2 bậc, xuống vị trí thứ 4 từ vị trí thứ 2 năm ngoái.
Cả nhóm dẫn đầu và nhóm “đội sổ” của Báo cáo Năng lực cạnh tranh
toàn cầu 2010-2011 do WEF thực hiện đều không gây bất ngờ. Top 10 từ
dưới lên của báo cáo đa phần là các quốc gia châu Phi, gồm Chad, Angola,
21
Burundi, Zimbabwe, Mauritania, Burkina Faso, Timor-Leste, Mali,
Mozambique và Nepal.
Chad bị WEF xem là quốc gia có năng lực cạnh tranh kém nhất thế giới
năm nay, trong khi báo cáo của Forbes coi quốc gia Nam Mỹ Venezuela mới
là nơi có môi trường kinh doanh tệ hại nhất thế giới. Vị trí của Venezuela
trong xếp hạng của WEF là số 122.
Top 10 đầu bảng xếp hạng của WEF không khác nhiều so với nhận
định của Forbes trong báo cáo “Best countries for business” của tạp chí này.
Dẫn đầu Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2010-2011 là đất nước
châu Âu Thụy Sỹ (5,6 điểm), tiếp theo là Thụy Điển (5,6 điểm), Singapore
(5,5 điểm), Mỹ (hơn 5,4 điểm), Đức (5,4 điểm), Nhật (5,4 điểm), Phần Lan
(5,4 điểm), Hà Lan (5,3 điểm), Đan Mạch (5,3 điểm) và Canada (5,3 điểm).

Năm ngoái, Thụy Sỹ cũng là quốc gia được WEF đánh giá là có năng
lực cạnh tranh cao nhất thế giới.
1.4.2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dược Việt nam.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới cùng nền kinh tế đất nước, ngành công
nghiệp dược Việt Nam đã và đang phát triển vững chắc cả về số lượng và chất
lượng, về cơ bản có thể đảm bảo cung ứng được đầy đủ nhu cầu thuốc phục
vụ cho công tác phòng bệnh và chữa bệnh của nhân dân.
Ba năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO mang lại những thuận lợi
cũng như khó khăn cho ngành dược. Ngành dược đạt được tốc độ tăng trưởng
cao trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển. Bên cạnh
những khó khăn, thách thức về trình độ công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân
lực, môi trường cạnh tranh… công nghiệp dược Việt Nam vẫn có nhiều điều
kiện thuận lợi để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo.
Thị trường nội địa còn chưa được khai thác hết, trong khi nhu cầu chi tiêu cho
dược phẩm ngày càng tăng. Các doanh nghiệp dược trong nước đang tích cực
22

×