Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
MỞ ĐẦU:
Trong cuộc sống ngày nay, các phương tiện khoa học kỹ thuật, thành tựu
khoa học ngày càng phát triển, đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Tuy nhiên,
bên cạnh đó chúng cũng tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro mà con người khó có thể
kiểm soát hết được. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ đã tìm mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế
vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Để
bảo vệ quyền và lợi ích của những người bị thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra, pháp luật dân sự đã quy định đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Việc đi tìm hiểu một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về vấn đề này.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra:
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra:
a) Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ:
Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật luôn tiềm ẩn những nguy cơ gây ra
thiệt hại bất ngờ cho người hoặc tài sản, mà con người khó có thể ngăn chặn, kiểm
soát được. Theo đoạn 1 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, quy định “ Nguồn nguy
hiểm cao độ bao gồm phương giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà
máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng
xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”
1
Qua việc quy định như vậy, ta thấy rằng không có một khái niệm cụ thể
nào về nguồn nguy hiểm cao độ, mà chỉ là liệt kê những loại tài sản nào được quy
định là nguồn nguy hiểm cao độ. Căn cứ vào những loại tàn sản được liệt kê làm
đối tượng của nguồn nguy hiểm cao độ, cũng như thấy được mức độ nguy hiểm
11
Trích Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005.
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
1
Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
của nó, có thể đưa ra khái niệm “ Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất
định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, mà con người không thể
kiểm soát được một cách tuyệt đối”
2
. Những đối tượng là nguồn nguy hiểm cao độ
được xác định như sau: các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hiện nay chưa
có văn bản pháp luật nào đưa ra khái niệm “ phương tiện giao thông vận tải cơ
giới”, các phương tiện này bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường
bộ, đường sắt, đường thủy, và đường hàng không. Trong đó, phổ biến như các
phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại khoản 18 Điều 3, Luật giao
thông đường bộ năm 2008, “ gồm ô tô, máy kéo; rơ mooc hoặc sơ mi rơ mooc
được kéo bằng ôtô, máy kéo; xe môtô hai bánh; xe môtô ba bánh; xe gắn máy và
các loại xe tương tự”. Các phương tiện giao thông đường thủy như tàu biển,
đường hàng không như tàu bay, đường hàng không như tàu hỏa; các hệ thống tải
điện quy định tại Luật điện lực 2004 cũng là những nguồn nguy hiểm cao độ ẩn
chứa nhiều nguy cơ gây thiệt hại cho con người và tài sản. Để xác định những tài
sản nào là nguồn nguy hiểm cao độ cần dựa trên các quy định cụ thể tại các văn
bản pháp luật có liên quan như Luật Giao thông đường bộ 2008, Luật Hàng hải
2005, Luật Đường sắt 2005,... Ngoài ra, thú dữ như hổ, báo, sư tử,... các loại vũ
khí quân dụng, vũ khí thể thao; nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ;
thuốc nổ, pháo, thuốc súng; chất độc bảng A, chất phóng xạ;... đang trong quá
trình vận hành, hoạt động cũng được liệt kê vào danh sách nguồn nguy hiểm cao
độ. Với việc chỉ liệt kê tên các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ,
mà không đưa ra các khái niệm cụ thể, nên “ các nguồn nguy hiểm khác” được
quy định trong luật nếu có văn bản pháp luật khác quy định bổ sung thì nguồn
nguy hiểm cao độ được xác định theo các văn bản này.
b) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp
luật nước ta, đến khi BLDS năm 1995 ra đời thì các quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được quy định một cách chi tiết, và dần hoàn thiện qua các quy
22
Trích TS. Lê Đình Nghị, giáo trình Luật dân sự, tập 2.
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
2
Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
định về sau. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý được phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt
hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ; đồng thời trong một số trường
hợp đặc biệt được pháp luật quy định, trách nhiệm này phát sinh cả khi không có
lỗi của người gây thiệt hại, còn gọi là trách nhiệm nâng cao.
Từ khái niệm tổng quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, căn cứ theo
khoản 2, khoản 3 Điều 623 BLDS 2005, có thể hiểu : “ Bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ và do sự hoạt
động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi
thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp
pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.”
3
Việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra, tạo cho người chủ sở hữu, người được giao trông coi, chiếm hữu, sử
dụng, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ phải tuyệt đối tuân thủ các quy định
của pháp luật và có tinh thần trách nhiệm hơn đối với tài sản của mình khi gây ra
thiệt hại.
c) Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ:
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một trường
hợp của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, vì vậy bên cạnh các đặc điểm chung
của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nó còn mang các đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra là một trường
hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra chỉ mang tính chất thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe chứ không bao
gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín hay thi thể, mồ mả... Bởi xuất phát từ
chính đối tượng gây thiệt hại là nguồn nguy hiểm cao độ được xác định theo
khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 như: phương tiện giao thông cơ giới, hệ thống tải
33
Trích khoản 2, khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2005.
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
3
Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
điện, thú dữ, vũ khí,... đồng thời thiệt hại xảy ra do bản thân nội tại nguồn nguy
hiểm cao độ đang trong tình trạng hoạt động chứ không phải bởi hành vi trái pháp
luật có yếu tố lỗi của con người nên rõ ràng, nguồn nguy hiểm cao độ chỉ có thể
gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản chứ không thể dẫn tới thiệt hại
về uy tín, danh dự, nhân phẩm.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra là trách nhiệm pháp lý nâng cao, ngay cả khi chủ thể gây hại không có lỗi
nhưng vẫn phải bồi thường. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm
cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp chứng
minh được họ không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy
hiểm cao độ, vì pháp luật đã quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi
không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý
của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc
tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
4
2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra:
Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mang tính chất thiệt hại về tài
sản, sức khỏe, tính mạng của cá nhân chứ không bao gồm thiệt hại về danh dự,
nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư của cá nhân. Thiệt hại xảy ra do chính sự hoạt
động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, mà không cần có lỗi của con người tác
động đến. Để xác định được khi nào trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm
được đặt ra, cần xem xét các điều kiện làm phát sinh nên trách nhiệm đó.
2.1 Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại trái pháp luật:
Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại, với
mục đích là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt
hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi
thường.
4
Theo khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2005.
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
4
Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có những yếu tố không giống
như thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, thiệt hại này xảy ra phải do chính
hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự
quản lý, kiểm soát của con người. Hoạt động được hiểu là “vận động, vận hành để
thực hiện chức năng nào hoặc gây ra tác động nào đó,…”, khi xảy ra thiệt hại, thì
nguồn nguy hiểm cao độ đó phải đang trong tình trạng “ đang hoạt động”, ví dụ
như xe ôtô đang đi trên đường thì bị mất phanh, nổ lốp; nhà máy công nghiệp
đang trong quá trình vận hành, sản xuất. Nếu thiệt hại xảy ra mà không do tự thân
của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, hoặc nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trong
trạng thái “tĩnh” không hoạt động như xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo
quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi
công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh thì không thể coi đó là thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, khi đó thì trách nhiệm bồi thường sẽ xác
định theo trách nhiệm phát sinh thông thường.
Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp
luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây
thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo
đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây
ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không
có trách nhiệm bồi thường hoặc như hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ
các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Bên cạnh đó,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ
các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện
bất khả kháng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ. Như vậy, có thể khẳng định
rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách
nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ
không phải thiệt hại do hành vi của con người.
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
5
Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được
đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung
quanh”.
Do tính chất nguy hiểm của nguồn nguy hiểm cao độ có thể gây thiệt hại
cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không
có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở
hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ
sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối
với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao
động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn
nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh” - là những người
khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn
nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Việc xác định người xung quanh và người không được coi là người xung
quanh của nguồn nguy hiểm cao độ có ý nghĩa về mặt pháp lý trong việc xác định
người bị hại do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ được hưởng bồi thường
theo trách nhiệm dân sự hay theo chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên
chức bị nguồn nguy hiểm gây ra thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ hoặc điều
khiển, vận hành, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng
gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe.
Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do
hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm
cao độ.
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao
độ và thiệt hại xảy ra:
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
6
Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
Quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
có mối quan hệ phổ biến, biện chứng, sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là
nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại, mà không có yếu tố lỗi của con người. Việc
xác định này có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay
không trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu chủ sở
hữu mà có lỗi, thì ngoài trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự, người chủ sở
hữu của nguồn nguy hiểm cao độ hoặc người có lỗi trong việc sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ mà gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm hình sự.
2.4 Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.
Thông thường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra
khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến
quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường, cơ sở để người bị
thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Để
bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai nạn, có quan
điểm cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp có thể
phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi
thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ
luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định
này trên thực tế hiện nay dẫn đến những cách hiểu khác nhau.
Như vậy, yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra do đó có thể
thấy dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn
nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến
thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn
không có lỗi của con người (như xe đang đi trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
7
Bài tập học kỳ môn Luật dân sự Module 2
đến mất lái đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người
quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại
(như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa
thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn
do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp
dụng trách nhiệm này.
3. Xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra :
Trường hợp 1: Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở
hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ:
“ Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản
nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”
5
đó là nguyên tắc thực hiện
quyền sở hữu được ghi nhận tại Điều 165 BLDS 2005. Đồng thời, với ý nghĩa
luôn tiềm ẩn nguy cơ, khả năng gây thiệt hại cho con người và thế giới xung
quanh của nguồn nguy hiểm cao độ nên đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005
cũng đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các
quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo
đúng các quy định của pháp luật.”
6
Do đó, khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy
hiểm cao độ, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước hết được đặt
ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc
về người khác.
Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao cho người khác theo ý chí của mình theo các giao dịch dân sự như cho
thuê, cho mượn hoặc chuyển giao theo nghĩa vụ lao động phải chịu trách nhiệm
55
Trích Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2005.
66
Trích khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005.
Đặng Thị Kim Quyên.342244.N04Tl4
8