Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

hiện trạng canh tác và ảnh hưởng của nấm Trichoderma spp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ðẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
BỘ MÔN KHOA HỌC ðẤT - TNTN















ðỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG


HIỆN TRẠNG CANH TÁC VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NẤM
Trichoderma spp và 3 LOẠI VẬT LIỆU CHỨA ðẤT TRỒNG LÊN
SINH TRƯỞNG, SÂU BỆNH HẠI CHÍNH TRÊN GỪNG TẠI XÃ
MỸ AN, HUYỆN CHỢ MỚI NĂM 2006-2007





Chủ nhiệm ñề tài: NGUYỄN PHÚ DŨNG





Long Xuyên, tháng 03 năm 2008



Chương I
MỞ ĐẦU
Chợ Mới là huyện cù lao có diện tích đất phù sa màu mỡ của tỉnh An Giang và
nằm trong vùng đê bao khép kín rất thích hợp cho việc canh tác các loại hoa màu và các
cây trồng khác, cây ngắn ngày cũng được đưa vào canh tác và xem là các loại cây thế
mạnh phát triển của huyện. Trong đó, cây gừng là một trong những cây được người dân
quan tâm đưa vào sản xuất góp phần mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho người dân
hiện nay. Mô hình này hiện nay được bà con nông dân ở các huyện Chợ Mới, Châu Phú,
Châu Thành áp dụng rộng rãi và đạt kết quả cao. Bên cạnh đó, cây gừng là loại cây gia
vị và dược liệu có nhiều đặc tính quí. Nó góp phần làm tăng thêm hương vị cho một số
loại thực phẩm cũng như dùng làm thuốc điều trị một số bệnh cho người. Đồng thời, với
những đặc tính dễ trồng, ít sử dụng phân bón, có thể trồng ở dưới tán cây nên dễ dàng
thực hiện mô hình xen canh trong vườn cây ăn trái để góp phần tăng thêm thu nhập cho
người nông dân, bình quân 1 ha đạt từ 45-80 tấn gừng với giá thương lái mua tại nhà
vườn là 10.000-12.000 đồng/kg thì tổng thu từ 45-96 triệu đồng/ha/năm (Khoa học và
đời sống, 2005).
Tuy nhiên, cây gừng dễ bị sâu bệnh tấn công (sâu đục thân, sâu ăn tạp, bệnh
cháy lá, bệnh thối củ…), trong đó bệnh thối củ (héo vàng) do vi khuẩn Erwinia spp gây
nên là nghiêm trọng nhất, đây là loại bệnh rất khó phòng và trị. Do vậy, nông dân
thường rất ngán ngại khi trồng loại cây trồng này.
Hiệu quả sử dụng nấm Trichoderma spp trên thế giới được ứng dụng rộng rãi ở
các loại cây trồng như: Cà chua, khoai tây, …riêng về cây ăn trái và rau dưa cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu và ứng dụng nấm đối kháng Trichoderma spp.

Các đối tượng dịch hại xãy ra trên gừng ngoài yếu tố khách quan (nhiệt độ, ẩm
độ, gió, mưa, đất...) còn do vấn đề kỹ thuật canh tác của nông dân như: lượng giống
gieo trên hom trồng, khoảng cách trồng gừng trên sọt hay bọc nilong sẽ ảnh hưởng đến
lượng giống được dùng, kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch và bảo quản chưa được thống
nhất qui trình làm ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng, dịch hại và năng suất cũng như về
hiệu quả kinh tế trong sản xuất đại trà. Để đáp ứng nhu cầu của bà con nông dân trồng
gừng đạt hiệu quả hơn trong sản xuất, vì thế chúng tôi chọn đề tài: “Hiện trạng canh
tác và ảnh hưởng của nấm Trichoderma spp và 3 loại vật liệu chứa đất trồng lên
sinh trưởng, sâu bệnh hại chính trên gừng tại xã Mỹ An, huyện Chợ Mới năm
2006-2007”, làm cơ sở cho nông dân mạnh dạn áp dụng kỹ thuật canh tác mới trong sản
xuất, kỳ vọng khắc phục được những khó khăn mà người trồng gừng đang gặp phải,
đồng thời góp phần nâng cao đời sống nông dân.
A. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. MỤC TIÊU
Điều tra, ghi nhận kỹ thuật canh tác, sâu bệnh hại chính và các loại nông dược
được sử dụng trên cây gừng của nông dân tại một số xã thuộc Huyện Chợ Mới, An
Giang.
Xác định hiệu quả của nấm đối kháng Trichoderma spp đối với bệnh thối củ,
bệnh cháy lá…
Xác định hiệu quả của từng vật liệu chứa đất trồng lên sinh trưởng và sâu bệnh
hại chính trên gừng so với trồng gừng trực tiếp trên đồng ruộng.

1
II. NỘI DUNG
Điều tra hiện trạng canh tác và sử dụng nông dược trên cây gừng tại huyện Chợ
Mới (47 mẫu được phân bổ theo một số xã Kiến An, Mỹ An, Tấn Mỹ và Bình Phước
Xuân) theo phiếu điều tra được soạn trước các câu hỏi phỏng vấn có liên quan đến các
vấn đề kỹ thuật canh tác như thời vụ, giống, phân bón, tưới nước, sâu bệnh, các loại
nông dược thường được sử dụng, năng suất, hiệu quả kinh tế….
Bố trí thí nghiệm hiệu quả của nấm Trichoderma spp và 3 loại vật liệu chứa lên

tốc độ sinh trưởng và dịch hại chính trên cây gừng (sâu đục thân, sâu ăn tạp, bệnh cháy
lá, thối củ...) ở huyện Chợ Mới.
B. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
I. ĐỐI TƯỢNG
Đề tài được thực hiện trên đối tượng là các hộ nông dân canh tác gừng có diện
tích trồng gừng trên 1000m
2
, kinh nghiệm trồng gừng trên 3 vụ và các dịch hại chính
trên cây gừng.
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chọn ngẫu nhiên 47 nông dân trồng gừng trên địa bàn các xã Kiến An, Mỹ An,
Tấn Mỹ và Bình Phước Xuân thuộc huyện Chợ Mới - An Giang để tiến hành điều tra.
Bố trí thí nghiệm hiệu quả của nấm Trichoderma spp và một số vật liệu chứa lên
tốc độ sinh trưởng và dịch hại chính trên cây gừng tại xã Mỹ An, huyện Chợ Mới, tỉnh
An Giang, từ tháng 02/2006-10/2006.
C. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Nguồn gốc và phân bố
Gừng xuất xứ từ trung tâm Á châu, ngày nay gừng được trồng tại các vùng nhiệt
đới (50% mùa màng thu hoạch xuất xứ từ Ấn Độ), một phần từ Châu Phi, Brazil,
Jamaica…
Ở Việt Nam gừng được trồng khá phổ biến từ Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn) vào
Nam (Cà Mau). Nhưng gừng chỉ được trồng rải rác trong các vườn hộ gia đình (Nguyễn
Ngọc Bình và Phạm Đức Tuấn, 2001).
2. Đặc tính sinh học của cây gừng
Cây gừng được trồng phổ biến ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, có nhiệt độ trung
bình hàng năm từ 21-27
O
C, lượng mưa từ 1500-2500mm/năm, từ độ cao vài mét trên
mặt biển đến 1500m. Ở các vùng núi cao, khí hậu lạnh, nhiều sương giá không thích

hợp đối với cây gừng (Nguyễn Ngọc Bình và Phạm Đức Tuấn, 2001).
Gừng là loại cây thân thảo, sống được lâu năm, có thể cao từ 50-100 cm tuỳ theo
đất, có nơi cao hơn 150 cm. Cây gừng cũng sinh trưởng bình thường dưới tán che của
các vườn cây ăn quả và một số loại rừng trồng. Tuy nhiên dưới độ tán che 0,7-0,8 (tán

2
lá che khoảng 70-80% diện tích tán) của rừng gỗ tự nhiên, cây gừng trồng chỉ cho năng
suất củ bằng ½ năng suất trồng ở nơi ánh sáng hoàn toàn, trên cùng một loại đất
(Nguyễn Ngọc Bình và Phạm Đức Tuấn, 2001). Gừng phát triển thân ngầm ở dưới đất,
có nhiều đốt, mỗi đốt có mầm ngủ, khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ đâm chồi thành cây
gừng mới. Bẹ lá ôm sát vào nhau phát triển thành thân giả trên mặt đất. Lá đơn mọc
cách (so le), lá trơn, không có cuống, hình mũi mác, mặt bóng nhẵn, mép lá không có
răng cưa, gân giữa hơi trắng nhạt. Trục hoa mọc từ góc (củ gừng), dài khoảng trên dưới
20 cm, hoa tự tạo thành bông, mọc sát nhau, hoa dài khoảng 5 cm, rộng khoảng 2-3 cm,
lá bắc hình trứng, mép lưng màu vàng. Đài hoa dài chừng 1 cm, có 3 răng ngắn, có 3
cánh hoa, màu vàng hơi nhạt, mép cánh hoa màu tím, nhị hoa cũng màu tím. Tuy nhiên
ở nước ta gừng trồng ít ra hoa, hoặc chưa ra hoa đã thu hoạch củ để bán (Mai Văn
Quyền và ctv, 2001).
Gừng có nhu cầu N, P, K tương đối cao, trong đó, nhu cầu về N là nhiều nhất,
sau đó P và K. Vì vậy, muốn đạt năng suất cao phải trồng gừng trên đất tốt, nếu trồng
gừng trên đất xấu phải bón phân (Nguyễn Ngọc Bình và Phạm Đức Tuấn, 2001).
3. Giống
3.1. Chọn giống
Khi chọn gừng để làm giống thì ngưng bón phân ở giai đoạn gừng đã được 6
tháng tuổi. Lưu ý không được lạm dụng phân vô cơ quá nhiều, gừng sẽ dễ phát sinh
bệnh. Đối với phân hữu cơ vi sinh có thể tăng liều lượng lên, bón càng nhiều càng tốt,
không có hại cho cây gừng (Khoa Học & Đời Sống, 2005).
Gừng giống: Chọn gừng già, không mang mầm bệnh. Gừng trồng phổ biến
(Zingiber officinale) trong sản xuất có hai giống khác nhau:
• Gừng trâu, củ to, ít xơ, ít cay, thích hợp cho xuất khẩu.

• Gừng dé được gây trồng phổ biến, cho củ nhỏ hơn, vị cay và nhiều xơ hơn,
hiện nay đang được bán nhiều ở thị trường trong nước (Châu Đăng Sơn,
2005).
Có ý kiến cho rằng: “Khi trồng gừng người ta bẻ củ gừng ra từng nhánh nhỏ,
bên trong ruột củ gừng có màu vàng sậm, phía trên đỉnh sinh trưởng của củ gừng có eo
thắt lại chứng tỏ gừng đã già và phần thân đã tàn lụi tự nhiên, chứ không phải dùng các
biện pháp khác để tác động lên cây gừng (Bùi Thanh Hà và ctv, 2004).
Sau khi trồng 9 tháng, tiến hành thu hoạch củ gừng. Trong giai đoạn này, lá cây
bắt đầu chuyển sang màu vàng, cong lại, một số lá bắt đầu khô héo.
Thu hoạch gừng tươi sau khi trồng 5-6 tháng, gừng giống sau khi trồng 8-9
tháng (Châu Đăng Sơn, 2005).
3.2. Cách xử lý gừng giống
Gừng giống cần được xử lý thuốc trừ nấm bệnh, sau khi bẻ hom (mẫu, mảnh,
miếng hoặc ánh) để gừng khô mặt rồi mới đem giâm cho ra mầm (thời gian từ 15-20
ngày), thông thường 1kg gừng giống bẻ được từ 15-20 hom (Châu Đăng Sơn, 2005).
Gừng được nhân giống chủ yếu bằng các hom nhỏ được tách từ thân rễ, mỗi
hom dài từ 3-5 cm, nặng 30-50 g và có ít nhất một đỉnh chồi hoặc một đỉnh sinh trưởng.
Độ lớn của các hom gừng giống có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ sinh trưởng và năng
suất các diện tích sản xuất (Lê Đình Mỗi và ctv, 2002).

3
4. Thời vụ
Gừng trồng từ đầu xuân (tháng 12) đến cuối vụ xuân (tháng 4-5). Cuối năm
khoảng tháng 10-11-12 hàng năm ta có thể thu gừng. Thời gian sinh trưởng từ 8-10
tháng tùy từng giống. Theo Mai Văn Quyền và ctv (2001) ở miền Nam, thời vụ trồng
gừng vào đầu mùa mưa, ở ngoài Bắc là mùa xuân, có mưa phùn, độ ẩm không khí
không cao.
5. Làm đất
Theo Mai Văn Quyền và ctv (2001), bộ phận chính ta thu hoạch là củ gừng (thân
ngầm) nằm dưới lòng đất muốn củ gừng phát triển tốt đất cần tơi xốp, nhiều mùn thoát

nước tốt vì vậy đất để trồng rừng thường là đất vườn cày bừa kỹ, làm sạch cỏ.
Trước khi xuống giống nên gom và thiêu hủy những cây bị bệnh của vụ trước
đó, đất trồng nên được cày xới, phơi khô, lên liếp và bón lót vôi bột (70-120 kg/công).
Có thể rải chất kích kháng, tăng cường bón phân hữu cơ vi sinh, phân chuồng đã ủ hoai
mục, cũng có thể dùng tro trấu. Chú ý: khi đặt gừng giống, nên đặt trên mặt liếp, không
nên đặt dưới rãnh (để nhẹ tưới) vì vi khuẩn gây bệnh thối củ luôn có khuynh hướng di
chuyển xuống phần dưới của liếp trồng, nhất là tập trung nơi các rãnh (Khoa Học & Đời
Sống, 2005).
Theo Lê Đình Mỗi và ctv (2002), cây gừng sinh trưởng tốt trên các thân đất tơi
xốp, tầng đất dầy còn tương đối tốt, ít lẫn đá, có khả năng giữ nước và thấm nước tương
đối cao, đất đủ ấm, thoát nước tốt, không gây úng, cây gừng thích hợp nhất trên những
thân đất thịt, có hàm lượng mùn cao, đất trồng tốt nhất là có độ pH 5,5-7.
Cây gừng đã được 90 ngày tuổi, có thể chia ra làm 5 đợt bón phân và mỗi đợt
bón cách nhau 20 ngày (90 ngày, 110 ngày, 130 ngày, 150 ngày, 170 ngày, 190 ngày).
Bón phân NPK 20-20-15, liều lượng 10 kg/công, đồng thời có thể bón thêm các loại
phân hữu cơ (Khoa Học và Đời Sống, 2005).
6. Chăm Sóc
Tưới nước: Giai đoạn đầu, 3 ngày/ lần, tưới vừa đủ ẩm bằng thùng tưới có gắn
vòi sen. Giai đoạn sau, 7 ngày/ lần, tưới đẫm nước.
Làm cỏ: Khi thấy cỏ xuất hiện ta tiến hành nhổ sạch cỏ dại, kết hợp vun gốc.
7. Bón Phân
Theo Châu Đăng Sơn (2005), bón phân được chia ra các giai đoạn sau:
- Đợt 1: Sau khi trồng 25-30 ngày, bón 3kg phân trùn /sọt.
- Đợt 2: Sau khi trồng 55-60 ngày, bón 3kg phân trùn / sọt.
Các đợt sau, bón phân khi thấy củ lòi ra khỏi lớp phân trùn. Liều lượng phân bón
tùy củ lòi nhiều hay ít. Khoảng 1- 3kg/vỏ.
Theo Khoa học và đời sống (2005), cây gừng là loại cây trồng có thời gian sinh
trưởng khá dài (từ 6 đến 8 tháng). Do vậy, khi trồng gừng, nông dân thường trồng xen
với các loại cây trồng khác có thời gian sinh trưởng ngắn hơn như đậu xanh hoặc bắp. Ở
giai đoạn đầu nông dân chỉ bón phân cho các loại cây trồng xen này (chứ không bón

phân cho cây rừng). Cách bón phân, thành phần và liều lượng phân bón có ảnh hưởng
lớn đến tình hình bệnh hại sau này. Khi thu hoạch các cây trồng xen xong thì nông dân
mới tiến hành bón phân cho cây gừng (ở giai đoạn cây gừng đã được 90 ngày tuổi). Khi
chọn gừng để làm giống thì ngưng bón phân ở giai đoạn gừng đã được 6 tháng tuổi. Lưu

4
ý không được lạm dụng phân vô cơ quá nhiều, gừng sẽ dễ phát sinh bệnh. Đối với phân
hữu cơ vi sinh có thể tăng liều lượng lên, bón càng nhiều càng tốt, không có hại cho cây
gừng.
8. Sâu, bệnh hại gừng và biện pháp phòng trị
Bệnh cháy lá do nấm Fusarium spp gây nên, thường vết bệnh xuất hiện trên
chóp lá và cháy từ chóp vào. Nếu bệnh phát triển mạnh, nấm tấn công vào nách lá,
xuống củ làm chết cả cây. Bệnh chủ yếu phát sinh và gây hại trên lá già. Để phòng trị
bệnh này sử dụng Carbenzim, Bavistin… (Trần Ngọc Chủng, 2005).
Theo Trần Văn Hòa và ctv (2000) bệnh thối củ của gừng do vi khuẩn
Pseudomonas sp. gây ra, thường gây hại ở những ruộng thoát nước kém và trong những
ngày mưa liên tục. Bệnh cháy lá gừng do nấm Pyricularia grisea gây ra, thường gây
thiệt hại nặng trong những ngày có ẩm độ cao, ít nắng có sương mù và kéo dài.
Bệnh thối củ do vi khuẩn Erwinia spp gây ra, đây là bệnh rất nguy hiểm và gây
thiệt hại lớn đối với gừng trong những ngày mưa dầm (kéo dài) đất thoát nước kém (đất
sét nhiều) lên liếp thấp. Cây gừng đang xanh tốt bổng dưng bị héo đột ngột vào giữa
trưa, vài bữa sau toàn bộ cây bị vàng, khi nhổ lên thấy đỉnh sinh trưởng của gừng có
nhựa đục. Phòng trị bằng cách phun thuốc Benomyl, Score, Kasai, Kasumin, Derosal…
Bệnh thối củ gừng do nấm Rhizoctonia solani gây ra, thường gây hại trong điều
kiện nhiệt độ và ẩm độ cao. Bệnh thường gây hại ở phần củ dưới đất nên khó phát hiện,
trên thân gừng không có biểu hiện gì khi củ bị thối, chỉ khi củ bị thối nhũn hoàn toàn
cây bị gãy gục hoặc chỉ bị héo nhẹ khi trời nắng (Trần Văn Hòa và ctv, 2000). Bệnh
thường ít hoặc không gây hại trên thân gừng chỉ khi nào bụi gừng dày đặc thì bệnh mới
gây hại đến phần thân.
Theo Trần Ngọc Chủng (2005), sâu đục thân thường xuất hiện vào đầu mùa

mưa, đục vào bên trong ăn phần non, nếu bộc phát nhanh sẽ làm giảm năng suất gừng
và sử dụng Basudin, Regent…khi thấy bướm xuất hiện thì phun xịt.
9. Nấm Trichoderma spp
Nấm Trichoderma spp hiện diện ở khấp nơi trong đất đã được các nhà khoa học
tìm thấy có khả năng phân huỷ các dư thừa thực vật hay rơm rạ thành chất dinh dưỡng
cung cấp cho cây đồng thời còn tạo thêm độ phì cho đất. Bên cạnh khả năng phân huỷ
rơm thì một số loài trong chi này còn là nhân tố hứa hẹn trong phòng trừ sinh học, do
trong quá trình sống chúng sản sinh ra các chất kháng sinh, độc tố…ức chế sự phát triển
của một số nấm gây bệnh trong đất (theo Cook và Baker, 1989, được trích dẫn bởi Ngô
Thị Mỹ Hiền, 2003).
Trong quá trình tác động lên nấm gây bệnh, nấm Trichoderma spp ký sinh lên
nấm bệnh, cạnh tranh thức ăn, sản sinh các chất kháng sinh, enzyme để ngăn cản sự
xâm nhập và gây bệnh của các nấm gây bệnh hại cây. Bên cạnh tác động đối kháng với
nấm gây bệnh hại cây, nấm Trichoderma spp còn biểu hiện tác động kích thích đối với
sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng (Seiketop, 1982 được trích dẫn bởi Trần Thị
Thuần và ctv, 1996-2000).
10. Thu hoạch
Theo Trần Ngọc Chủng (2005), khi gừng có lá vàng và khô trên 2/3 số lá là ta có
thể thu hoạch được. Khi thu hoạch chú ý tránh gãy gừng. Kỹ thuật thu nhánh tránh gãy

5
và giữ nguyên cả khóm củ, ta cuốc xa gốc 20 – 25 cm, sau nhổ nhẹ để lấy cả khóm củ,
tỉa hết đất để có tảng củ của khóm.
Theo Châu Đăng Sơn (2005), sau khi trồng 9 tháng, tiến hành thu hoạch củ
gừng. Trong giai đoạn này, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cong lại, một số lá bắt
đầu khô héo. Đào nhẹ không để gẫy củ. Sau đó, nhổ cây, rũ sạch đất.
11. Công dụng
Theo Lê Đình Mỗi và ctv (2002), gừng được sử dụng làm gia vị trong chế biến
thực phẩm ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Thông thường gừng được sử dụng ở
dạng củ tươi hay được chế biến sơ bộ ở dạng củ khô thái lát, bột gừng khô, mức gừng,

tinh dầu gừng và nhựa dầu gừng được sử dụng trong công nghiệp sản xuất thịt hộp, cá
hộp, bánh kẹo, nước giải khát, rượu bia và trong hoá mỹ phẩm. Gừng được dùng làm
thuốc kích thích tiêu hoá, dùng chữa ăn không tiêu, kém ăn, nôn mửa, tiêu chảy, cảm
lạnh, ho, chân tay lạnh.
Theo Hoàng Xuân Ba (2003), gừng lành tính, không độc và rất hiệu quả trong
chữa trị chứng nôn nao sau phẫu thuật hoặc gây mê, điều trị ung thư bằng hóa trị liệu,
say sóng, tàu xe... Gần đây, người ta còn phát hiện ra gừng có tác dụng chống viêm và
chống đông máu rất hiệu quả.
Về công dụng thì cây gừng còn được dân gian dùng để chữa cho gia súc như
trâu, bò, voi, ngựa bị dịch mắt đỏ, ăn không nuốt được (Giáp Kiều Hưng, 2004).
Trên thực nghiệm, gừng có các tác dụng chống co thắt cơ trơn, chống dị ứng,
kháng histamin, chống viêm và giảm ho. Hoạt chất cineol trong gừng có tác dụng diệt
khuẩn trên nhiều loài vi khuẩn gây bệnh (Đoàn Thị Nhu, 2005).
12. Hiệu quả kinh tế
Vụ Đông Xuân 2003-2004, bà con nông dân hai huyện Long Mỹ, Phụng Hiệp,
tỉnh Hậu Giang, đã thu hoạch và trồng mới hơn 400 ha gừng củ xen canh trên cùng một
diện tích cây ăn quả (trồng mới). Bình quân 1 ha đạt từ 45-50 tấn gừng với giá thương
lái mua tại nhà vườn là 12.000 đồng/kg. Hiệu quả thu nhập từ 1 ha gừng 54-60 triệu
đồng/ha/năm, cao gấp mười lần so với trồng cây màu xen canh khác.
Theo Trần Ngọc Chủng (2005), vụ trồng màu 2005, nhiều hộ dân ở các huyện
như Thạnh Trị, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên... (Sóc Trăng) đã trồng xen canh cây gừng, hành
dưới những liếp dưa leo thu nhập thêm 7-8 triệu đồng/vụ, tính ra với hơn 1 công đất cho
thu nhập trên 20 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi trên 15 triệu đồng/vụ.
Theo Trần Ngọc Chủng (2005), đánh giá về hiệu quả của cây gừng: “Năng suất
1 ha đạt khoảng 10 tấn, sản lượng này có thể nâng lên nếu gừng được chăm sóc tốt hơn.
Giá bán mà Công ty thu mua là 200.000 đồng/tạ. Như vậy mỗi ha gừng trâu mang lại
khoảng hơn 20 triệu đồng, trừ chi phí đi người dân vẫn còn thu về một nửa”.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Điều tra nông dân
1.1. Phương tiện: Phiếu điều tra được soạn trước các câu hỏi phỏng vấn có liên

quan đến các vấn đề kỹ thuật canh tác gừng như thời vụ, giống, phân bón, tưới nước,
phòng trừ sâu bệnh, các loại nông dược thường được sử dụng, năng suất, hiệu quả kinh
tế,... (Phụ chương 50). Thời gian điều tra tháng 2/2007 – 4/2007.

6
1.2 Phương pháp: Chọn ngẫu nhiên hộ nông dân trồng gừng trên địa bàn các xã
Kiến An, Mỹ An, Tấn Mỹ và Bình Phước Xuân thuộc huyện Chợ Mới - An Giang để
tiến hành điều tra. Số phiếu điều tra là 47 phiếu.
1.3. Xử lý số liệu: Các số liệu được nhập vào bằng phần mềm Microsoft Excel.
Sau đó thống kê bằng chương trình SPSS for Window V.12 để tính trung bình, Max và
Min.
2. Thí nghiệm
2.1. Phương tiện
* Địa điểm: thực hiện tại xã Mỹ An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, từ tháng
02/2006-10/2006.
* Khí hậu: tình hình khí hậu trong suốt thời gian thực hiện thí nghiệm được thu
thập dựa vào số liệu của đài khí tượng thủy văn An Giang, thể hiện qua các chỉ tiêu về
nhiệt độ, lượng mưa, tổng giờ nắng và ẩm độ không khí.
* Giống: Địa phương (Gừng dé).
2.2. Phương pháp
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí ngoài đồng ruộng của Chú 5 Bưu và Chú
5 Hoàng, xã Mỹ An, Huyện Chợ Mới, An Giang theo thể thức lô phụ,
hai nhân tố (xử lý nấm Trichoderma spp và vật liệu chứa) với 8 nghiệm
thức và ba lần lặp lại. Sơ đồ bố trí thí nghiệm và tổ hợp các nghiệm
thức được trình bày ở Hình 1 và Bảng 1.
Tổng diện tích ruộng thí nghiệm: 300 m
2
, diện tích mỗi lô (nghiệm thức) là 7,8
m

2
. Mỗi lô thí nghiệm có một lô cách ly với diện tích tương đương nhau để hạn chế ảnh
hưởng của thuốc trừ sâu và bệnh.
Bảng 1: Tổ hợp các nghiệm thức giữa vật liệu chứa kết hợp xử lý nấm Trichoderma
spp của thí nghiệm gừng tại Chợ Mới
Xử lý nấm
Trichoderma
spp
Vật liệu chứa
Trồng trên liếp
theo nông dân
(ND)
Sọt
tre
(ST)
Bọc nilong
trắng
(NiT)
Bọc nilong
đen
(NiĐ)
Không xử lý
(O)
ND-O
(2)
ST-O
(4)
NiT-O
(6)
NiĐ-O

(8)
Có xử lý
(Tri)
ND-Tri
(1)
ST-Tri
(3)
NiT-Tri
(5)
NiĐ-Tri
(7)

7
Rep I
NiĐ-O (8) ST-O (4) ND-O (2) NiT-O (6)
Rãnh(0,5m)
NiT-Tri (5) ND-Tri (1) NiĐ-Tri (7) ST-Tri (3)
Rãnh (1m)
Rep II
NiĐ-Tri (7) ST-Tri (3) NiT-Tri (5) ND-Tri (1)
Rãnh(0,5m)
ST-O (4) ND-O (2) NiT-O (6) NiĐ-O (8)
Rãnh (1m)
Rep III
NiT-O (6) NiĐ-O (8) ST-O (4) ND-O (2)
Rãnh(0,5m)
ND-Tri (1) NiT-Tri (5) ST-Tri (3) NiĐ-Tri (7)
Hình 1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm gừng tại Chợ Mới, An Giang
Ghi chú:
- ND-Tri (1): Trồng gừng trên liếp theo cách nông dân thực hiện và có xử lý

nấm Trichoderma spp bằng cách sử dụng chế phẩm Tri-ĐHCT tưới hoặc
phun trên cây con theo nồng độ sử dụng (1g/m
2
đất).
- ND-O (2): Trồng gừng trên liếp theo cách nông dân thực hiện và không có sử
dụng chế phẩm Tri-ĐHCT.
- ST-Tri (3): Trồng gừng trong Sọt tre (2 mẫu giống/Sọt tre với đường kính
0,4m) và có xử lý nấm Trichoderma spp bằng cách sử dụng chế phẩm Tri-
ĐHCT tưới hoặc phun trên cây con theo nồng độ sử dụng (1g/m
2
đất).
- ST-O (4): Trồng gừng trong Sọt tre (2 mẫu giống/Sọt tre với đường kính
0,4m) và không có sử dụng chế phẩm Tri-ĐHCT.
- NiT-Tri (5): Trồng gừng trong bọc nilong (xốp) trắng (2 mẫu giống/bọc với
đường kính 0,4m) và có xử lý nấm Trichoderma spp bằng cách sử dụng chế
phẩm Tri-ĐHCT tưới hoặc phun trên cây con theo nồng độ sử dụng (1g/m
2
đất).
- NiT-O (6): Trồng gừng trong bọc nilong (xốp) trắng (2 mẫu giống/bọc với
đường kính 0,4m) và không có sử dụng chế phẩm Tri-ĐHCT.
- NiĐ-Tri (7): Trồng gừng trong bọc nilong (xốp) đen (2 mẫu giống/bọc với
đường kính 0,4m) và có xử lý nấm Trichoderma spp bằng cách sử dụng chế
phẩm Tri-ĐHCT tưới hoặc phun trên cây con theo nồng độ sử dụng (1g/m
2
đất).
- NiĐ-O (8): Trồng gừng trong bọc nilong (xốp) đen (2 mẫu giống/bọc với
đường kính 0,4m) và không có sử dụng chế phẩm Tri-ĐHCT.

8
2.2.2. Kỹ thuật canh tác

* Chuẩn bị đất: đất trồng nên cày xới, phơi khô, lên liếp và rải thuốc hoá học
để tiêu diệt mầm bệnh trong đất, tăng cường bón phân hữu cơ vi sinh, phân chuồng đã ủ
hoai mục, cũng có thể dùng tro trấu.
* Chuẩn bị cây con: Sau khi thu hoạch gừng giống được phơi nơi thoáng mát
(khoảng 5 ngày). Gừng được nhân giống chủ yếu bằng các mẩu, mảnh (hom) nhỏ được
tách từ thân rễ (trung bình 1 kg gừng phân ra 15 hom), mỗi mẫu dài từ 3-5 cm, nặng 30-
50g và có ít nhất một đỉnh chồi hoặc một đỉnh sinh trưởng. Sau đó phơi nơi thoáng mát
cho ráo vết cắt (khoảng 10 ngày). Mẫu gừng được xử lý thuốc Carban (ngâm khoảng 1-
2 giờ) trước khi đem ủ trong tro trấu và tưới nước vừa đủ ẩm để giúp gừng nẩy mầm tốt
(khoảng 7 ngày) trước khi đem ra trồng.
* Trồng cây:
- Trồng trong sọt tre (đường kính 0,4m), bọc nilong trắng (đường kính 0,4m) và
bọc nilong đen (đường kính 0,4m): Sau khi lót bọc nilong mỏng hay cước, cho
hỗn hợp đất phân (đất + phân + tro được xử lý vôi) vào, nén vừa. Trồng với
khoảng cách 0,4 x 0,5 cm và chỉ trồng 2 mẫu/sọt hay bọc. Có thể xử lý thuốc
trừ nấm bệnh hoặc trừ sâu sau khi trồng 3-5 ngày. Khi trồng, cần loại bỏ
những mẫu gừng bị hư thối hoặc nhiễm nấm bệnh (tránh trường hợp nấm bệnh
lây lan về sau)
- Đối với liếp đất thì đặt gừng giống trên mặt liếp, không nên đặt dưới rãnh (để
nhẹ tưới).
- Xử lý Trichoderma spp lần 1 lúc gieo bằng cách sử dụng chế phẩm tưới hoặc
phun trên cây con theo nồng độ sử dụng (1g/m
2
đất), cách 30 ngày sau khi
gieo xử lý lần 2 và 60 ngày sau khi gieo xử lý lần 3.
* Chăm sóc:
- Tưới nước: Giai đoạn đầu, 3 ngày/ lần, tưới vừa đủ ẩm bằng thùng tưới có gắn
vòi sen. Giai đoạn sau, 7 ngày/ lần, tưới đẫm nước.
- Làm cỏ: Khi thấy cỏ xuất hiện ta tiến hành nhổ sạch cỏ dại, kết hợp vun gốc.
- Bón phân: Theo Bảng 2 thì tổng lượng phân tính cho 1.000 m

2
gồm: vôi bột 40
kg (đem rãi trước khi lên liếp 1/3 lượng vôi và sau khi lên liếp 2/3 lượng còn
lại), tro trấu 40 bao; NPK (20-20-15) 20 kg, phân hữu cơ tổng hợp (phân
chuồng) 150 kg, phân Ure 15 kg, Kali 6 kg (tương ứng lượng phân bón 3,72 -
4,43 kg/sọt hay bọc nilong).
Bảng 2: Lịch bón phân cho ruộng gừng tại Mỹ An - Chợ Mới – An Giang
Đơn vị tính: kg/1.000m
2

Ngày sau khi
trồng (NSKT)
Vôi
(kg)
NPK
(20-20-15) (kg)
Phân chuồng
(kg/sọt, bọc nilong)
Ure
(kg)
Kali
(kg)

9
Lót trước khi gieo
35
65
75
85
95

40
-
-
-
-
-
-
5
5
5
5
-
0,5
-
-
-
0,3
0,3
-
-
-
5
10
-
-
1,5
1,5
1,5
1,5
-

Tổng lượng 40 20 1000-1200 15 6
* Phòng trừ sâu bệnh: thường xuyên theo dõi sâu bệnh hại, phun thuốc trừ sâu
khi thấy sâu xuất hiện như Basudin, Regent …, riêng thuốc trừ bệnh được phun đều như
nhau ở các nghiệm thức như Benomyl, Carbenzim, Bavistin, Score, Kasai, Kasumin,
Derosal ….
2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi
* Chỉ tiêu dịch hại (theo dõi cố định 10 cây/lô):
- Sâu đục thân, sâu ăn tạp, cào cào: ghi nhận mật số sâu hay vết gây hại trên
từng nghiệm thức định kỳ 7 ngày/lần ở giai đoạn trước từ 30-90 NSKG và 10 ngày/lần
ở giai đoạn sau 90 ngày
- Bệnh hại:
• Bệnh cháy lá do nấm Fusarium spp: ghi nhận bệnh trên từng nghiệm thức
định kỳ 7 ngày/lần ở giai đoạn trước từ 30-90 NSKG và 10 ngày/lần ở giai
đoạn sau 90 ngày.
Phân cấp thiệt hại: Cấp 0: không thiệt hại
Cấp 1: thiệt hại < 10 %
Cấp 2: thiệt hại: 10-20 %
Cấp 3: thiệt hại: 21-30 %
Cấp 4: thiệt hại: 31-50 %
Cấp 5: thiệt hại: > 50%
Số lá bị hại
Tỷ lệ thiệt hại (%) = x 100
Tổng số lá quan sát
Chỉ số thiệt hại (%) =
100x
NxP
)nixai(

Với: a
i

: lá thứ i bị hại
n
i
: cấp thiệt hại thứ i tương ứng
P: tổng số lá quan sát ở mỗi nghiệm thức
N: cấp thiệt hại cao nhất
• Bệnh thối củ do vi khuẩn Erwinia spp: ghi nhận bệnh trên từng nghiệm thức
với phân cấp có và không có bệnh theo định kỳ 7 ngày/lần ở giai đoạn trước
từ 30-90 NSKG và 10 ngày/lần ở giai đoạn sau 90 ngày.
* Chỉ tiêu về tăng trưởng (quan sát cố định 10 cây/lô):
- Chiều cao bụi và chồi: dùng thước đo dây từ gốc đến đỉnh sinh trưởng của
thân cây dài nhất lúc thu hoạch.

10
- Đếm số lá/chồi trên cây gừng
- Đường kính thân gừng: dùng thước kẹp đo đường kính thân gừng ở chồi
cao nhất/bụi, cây/lô thí nghiệm.
* Chỉ tiêu về thành phần năng suất và năng suất
- Trọng lượng trung bình củ gừng (kg/củ gừng): cân 10 củ gừng
mẫu/nghiệm thức.
- Năng suất củ gừng: cân tất cả các củ gừng trên mỗi lô thí nghiệm (không
kể các cây đầu hàng) rồi qui ra năng suất thực tế (tấn/ha).
- Năng suất toàn cây (tổng sinh khối gồm thân, lá): cân trọng lượng của 10
cây trên mỗi nghiệm thức, tính trọng lượng trung bình rồi quy ra năng suất
toàn cây (tấn/ha).
* Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế: so sánh hiệu quả của đồng vốn đầu tư:
- Doanh thu = sản lượng x giá bán 1 kg gừng
- Chi phí sản xuất: giống, phân bón, thuốc BVTV, công làm đất, lên liếp,
làm cỏ, chi phí khác…
- Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận = (Doanh thu - chi phí sản xuất)/chi

phí sản xuất.
2.2.4. Phân tích số liệu
Số liệu được xử lý bằng Excel, dùng phần mềm Minitab 13.0 và MSTATC để
phân tích thống kê.

11
Chương II
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
A. HIỆN TRẠNG CANH TÁC GỪNG TẠI HUYỆN CHỢ MỚI NĂM 2006-2007
I. PHÂN BỐ MẪU ĐIỀU TRA TRÊN 4 XÃ CỦA HUYỆN CHỢ MỚI
Điều tra nông dân trồng gừng ở 4 xã của huyện Chợ Mới gồm xã Kiến An, Mỹ
An, Tấn Mỹ và Bình Phước Xuân từ chính quyền địa phương cung cấp, chọn ngẫu
nhiên những hộ trồng gừng có diện tích >1000m
2
, phân bố trong các ấp, xã có diện tích
trồng gừng nhiều nhất đại diện cho huyện Chợ Mới, trong đó xã Kiến An với 20 hộ, Mỹ
An (17 hộ), Tấn Mỹ (5 hộ) và Bình Phước Xuân với 5 hộ (Bảng 3).
Bảng 3: Phân bố số hộ điều tra trồng gừng trong các xã ở Chợ Mới, tỉnh An Giang
STT Các xã được điều tra Số hộ %
1 Kiến An 20 42,6
2 Mỹ An 17 36,2
3 Tấn Mỹ 5 10,6
4 Bình Phước Xuân 5 10,6
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NÔNG HỘ ĐIỀU TRA
1. Tuổi trung bình, trình độ văn hóa và kinh nghiệm sản xuất của nông hộ của
nông hộ
1.1. Tuổi trung bình
Từ kết quả được trình bày ở Bảng 4, cho thấy tuổi trung bình của các nông hộ
trồng gừng được điều tra ở Chợ Mới phân bố không đều nhau. Trong đó, tuổi trung bình

từ 50 – 60 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất với 40,43%, tuổi 40 – <50 (27,65%), tuổi 30 - <40
(19,15%), tuổi trên 60 (8,51%) và thấp nhất tuổi dưới 30 chiếm 4,26%.
1.2. Trình độ văn hoá
Trình độ học vấn cũng là một yếu tố quan trong trong việc tiếp thu, học hỏi
những kinh nghiệm về canh tác tiên tiến và áp dụng có hiệu quả hơn trong canh tác
gừng của gia đình. Từ kết quả được ghi nhận ở Bảng 4 cho thấy các hộ điều tra có trình
độ từ Trung học cơ sở (THCS) là 26 hộ, chiếm 55,32% là cao nhất, Trung học phổ
thông (THPT) có 10 hộ (21,28%), ở cấp bậc tiểu học là 10 hộ (21,28%) và không có
trình độ là 1 hộ (2,13%), không có nông hộ nào có trình độ Trung học chuyên nghiệp
(THCN) hay Đại học (ĐH). Với kết quả nầy, thì đây là một phần khó khăn đối với nông
dân trồng gừng của huyện trong việc tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật mới được khuyến
cáo trong canh tác để góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Vì vậy,

12
việc mở các điểm trình diễn trồng gừng áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới trên từng xã để
giúp nông dân dễ tiếp nhận là vấn đề cần được đặt ra để giải quyết khó khăn nầy.
1.3. Kinh nghiệm và giới tính của nông hộ sản xuất
Có thể nói thời gian tham gia trồng gừng là một yếu tố có sự đóng góp quan
trọng đến năng suất trong nghề trồng gừng. Người trồng gừng lâu năm sẽ tích lũy được
nhiều kinh nghiệm rất quý báu và cần thiết trong nghề trồng gừng, từ đó mà trong các
khâu của quá trình canh tác họ biết rõ nên làm thế nào để nâng cao năng suất và hiệu
quả cho ruộng gừng của mình. Cũng từ dẫn liệu ở Bảng 4, cho thấy trồng gừng đa phần
là nam giới, chiếm 97,87% và nữ giới chiếm 2,13%. Riêng về kinh nghiệm trồng gừng,
thì trung bình dưới 5 năm chiếm tỉ lệ cao nhất với 36,17%, từ 5 - dưới 10 năm
(34,04%), từ 10 - dưới 15 năm (12,77%), từ 15 - dưới 20 năm (8,21%), từ 20 - dưới 25
năm và 25 – 30 năm cùng chiếm 4,26%.
Bảng 4: Tuổi trung bình, trình độ học vấn, kinh nghiệm sản xuất và giới tính của các
nông hộ trồng gừng ở Chợ Mới, tỉnh An Giang
Tuổi
trung bình %

Trình độ
học vấn %
Kinh nghiệm
sản xuất (năm) %
Giới
tính %
<30
4,26
Mù chữ 2,13 <5 36,17
Nam
97,87
30 - <40
19,15
Tiểu học 21,28 5 - <10 34,04
Nữ
2,13
40 - <50
27,65
Cấp 2 55,32 10 - <15 12,77
50 - <60
40,43
Cấp 3 21,28 15 - <20 8,21
≥60
8,51
ĐH, THCN 0 20 - <25 4,26
25 - 30 4,26
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
2. Tình hình lao động và diện tích trồng gừng của nông hộ
2.1. Tình hình lao động
Lao động là một trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định đến việc

mở rộng quy mô, diện tích trồng gừng của nông hộ. Nguồn lao động trong canh tác
gừng chủ yếu là lao động gia đình gồm chính và phụ. Ngoài các lao động chính thì sự
đóng góp của các lao động phụ trong nhà là không nhỏ (do có nhiều khâu chăm sóc
trong canh tác gừng đòi hỏi nhiều lao động mà các lao động phụ có thể tham gia như:
làm đất, gieo giống, làm cỏ,…). Qua số liệu điều tra được thể hiện Bảng 5, cho thấy
bình quân mỗi hộ canh tác có 1 lao động chính và 1,72 lao động phụ. Với kết quả nầy
thì số lao động gia đình của phần lớn nông hộ tương đối đủ để chăm sóc tốt cho diện
tích canh tác trung bình 3,19 công (1.000 m
2
)/hộ.
2.2. Diện tích trồng gừng của nông hộ
Cũng từ dẫn liệu ở Bảng 5, cho thấy diện tích trồng gừng của các nông hộ dưới 3
công chiếm tỷ lệ cao nhất (78,72%), từ 3 – dưới 5 công (17,02%), từ 5 – 12 công chiếm
tỉ lệ thấp nhất là 4,26%. Trung bình mỗi hộ canh tác 3,19 công/hộ, với diện tích nhỏ nầy
các nông hộ có thể sử dụng lao động gia đình để chăm sóc gừng và cũng góp phần hạn
chế chi phí.
Bảng 5: Tình hình lao động và diện tích trồng gừng của các nông hộ ở Chợ Mới, AG
Danh mục Số lượng Tần số hộ % Trung bình Max Min
Lao động (người/hộ):

13
- Chính
- Phụ
1
1,74
Diện tích (1000m
2
/hộ):
- <3
- 3 - <5

- 5 – 12

37
8
2
78,72
17,02
4,26
3,19 12 1
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
3. Hiện trạng kỹ thuật canh tác
3.1. Thời vụ
Kết quả điều tra được trình bày ở Bảng 6, cho thấy gừng có thể trồng được
quanh năm, do Chợ Mới nằm trong vùng đê bao khép kín. Trong đó, gừng được trồng từ
tháng 1 - 4, có 24 hộ thực hiện, chiếm tỉ lệ là 51,06%; trồng từ tháng 7 – 9 có 2 hộ thực
hiện (2,26%) và từ tháng 11-12 có 21 hộ (44,68%). Riêng về thời gian (tháng) sau khi
trồng bắt đầu thu hoạch thì đa dạng, cụ thể như sau: 4 tháng có 11 hộ thực hiện, chiếm tỉ
lệ cao nhất với 23,4%; 5 tháng với 10 hộ (21,28%); 6 tháng với 9 hộ (19,15%); 7 tháng
với 7 hộ (14,89%); 8 tháng với 4 hộ (8,15%); 9 tháng với 1 hộ (2,13%); 11 tháng với 3
hộ (6,38%); 12 tháng và 13 tháng cùng với 1 hộ (2,13%).
Bảng 6: Thời gian xuống giống và thời gian thu hoạch gừng của các nông hộ ở Chợ
Mới, tỉnh An Giang
Tháng trồng Tần số hộ %
1 - 4 24 51,06
7 - 9 2 4,26
11 - 12 21 44,68
Thời điểm thu hoạch
(tháng sau khi trồng)
4 11 23,4
5 10 21,28

6 9 19,15
7 7 14,89
8 4 8,51
9 1 2,13
11 3 6,38
12 1 2,13
13 1 2,13
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
3.2. Giống và cách xử lý giống
3.2.1. Nguồn giống
Giống giữ vai trò rất quan trọng trong sản xuất. Qua kết quả điều tra được trình
bày ở Bảng 7, cho thấy phần lớn các hộ đều mua gừng giống ở các vùng lân cận chiếm
85,11% và còn lại 14,89% nông dân tự để giống. Điều nầy chứng tỏ nguồn giống cung
cấp cho các nông hộ sản xuất là rất cần thiết tại địa phương, đặc biệt khi mô hình được
phát triển trên diện rộng và rất cần đáng lưu ý trong sản xuất về số lượng cũng như chất
lượng gừng giống.
3.2.2. Cách xử lý giống

14
Cây gừng rất dễ bị tấn công các loại dịch hại trong đất như kiến, dế, mối...đặc
biệt là bệnh thối củ sẽ ảnh hưởng lớn đến qui mô sản xuất cũng như toàn bộ quá trình
canh tác gừng, vì thế việc xử lý gừng giống trước khi gieo trồng là rất cần thiết giúp loại
trừ sự xâm nhập của sâu bệnh, góp phần bảo vệ năng suất. Cũng từ dẫn liệu ở Bảng 7,
cho thấy đa số các hộ (33 hộ nông dân) được điều tra đều có xử lý gừng giống trước khi
gieo trồng chiếm tỷ lệ cao nhất với 70,22%, 11 hộ có xử lý gừng giống với vôi
(23,40%) và còn lại chỉ có 3 hộ không xử lý gừng giống chiếm 6,38%.
Bảng 7: Nguồn giống và cách xử lý giống gừng của các nông hộ ở Chợ Mới,
tỉnh An Giang
Danh mục Tần số hộ %
* Nguồn giống:

- Mua 40 85,11
- Tự để 7 14,89
* Xử lý giống:
- Với thuốc 33 70,22
- Với vôi 11 23,40
- Không xử lý 3 6,38
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
3.3. Kích thước liếp và khoảng cách trồng gừng
Từ các dẫn liệu ở Bảng 8, cho thấy có sự đa dạng về kích thước liếp và khoảng
cách trồng gừng ở các nông hộ, cụ thể như sau:
3.3.1. Kích thước liếp
* Chiều rộng liếp: cho thấy khác nhau ở các nông hộ với trung bình là 109,5
cm, cao nhất là 140 cm và thấp nhất là 40 cm. Trong đó, chiều rộng của liếp trồng gừng
từ 40 - <100 cm có 6 hộ thực hiện và chiếm 12,76%; từ 100 - <120 cm (12 hộ và
25,54%); từ 120 - <130 cm (21 hộ và 44,68%) và 130 – 140 cm với 8 hộ thực hiện và
chiếm 17,02%.
* Chiều cao liếp: tương tự như chiều rộng liếp cũng khá đa dạng ở các nông hộ
với trung bình là 31,17 cm, cao nhất là 40 cm và thấp nhất là 10 cm. Trong đó, chiều
cao của liếp trồng gừng từ 10 - <20 cm có 1 hộ thực hiện và chiếm 2,13%; từ 20 - <30
cm (9 hộ và 19,15%); từ 30 - <35 cm (22 hộ và 46,81%) và 35 – 40 cm với 15 hộ thực
hiện và chiếm 31,92%.
3.3.2. Khoảng cách trồng gừng
Hầu hết các nông hộ trồng gừng được điều tra, đều canh tác với khoảng cách
trồng (hàng cách hàng và cây cách cây) khác nhau, cụ thể như sau:
* Hàng - Hàng: trung bình là 28,94 cm, cao nhất với 45 cm và thấp nhất là 10
cm. Trong đó, khoảng cách hàng – hàng trồng gừng từ 10 - <20 cm có 3 hộ thực hiện và
chiếm 6%; từ 20 - <30 cm (10 hộ và 22%); từ 30 - <40 cm (26 hộ và 55%) và trên 40
cm với 8 hộ thực hiện và chiếm 17%.
* Cây - Cây: tương tự như ở khoảng cách Hàng – Hàng thì trung bình Cây –
Cây là 27,77 cm, cao nhất với 45 cm và thấp nhất là 10 cm. Trong đó, khoảng cách Cây

– Cây trồng gừng từ 10 - <20 cm có 6 hộ thực hiện và chiếm 13%; từ 20 - <30 cm (12

15
hộ và 25%); từ 30 - <40 cm (22 hộ và 47%) và trên 40 cm với 7 hộ thực hiện và chiếm
15%.
Tóm lại, qua kết quả phân tích trên chứng tỏ về việc thiết kế liếp trồng và
khoảng cách trồng gừng ở các nông hộ được điều tra không theo qui cách thống nhất và
chủ yếu theo kinh nghiệm, tập quán sản xuất tại địa phương. Vì vậy, việc giới thiệu hay
trình diễn qui cách sản xuất về thiết kế liếp trồng và khoảng cách trồng cho các nông hộ
sản xuất gừng là điều cần thiết, nhằm đem lại hiệu quả về kỹ thuật trồng và kinh tế sản
xuất.

16
Bảng 8: Kích thước liếp và khoảng cách trồng gừng của các nông hộ ở Chợ Mới, tỉnh An Giang
Kích thước liếp Khoảng cách trồng gừng
Chiều rộng Chiều cao Hàng – Hàng Cây – Cây
Kích thước
(cm)
Tần số hộ % Kích thước
(cm)
Tần số hộ % Kích thước
(cm)
Tần số hộ % Tần số hộ %
40 - <100 6 12,76 10 - <20 1 2,13 10 - <20 3 6 6 13
100 - <120 12 25,54 20 - <30 9 19,15 20 - <30 10 22 12 25
120 - <130 21 44,68 30 - <35 22 46,81 30 - <40 26 55 22 47
130 - 140 8 17,02 35 - 40 15 31,92 ≥ 40 8 17 7 15
Min 40 10 10 10
Max 140 40 45 45
Trung bình 109,5 31,17 28,94 27,77

Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47

17
3.4. Hiện trạng sử dụng phân bón
3.4.1. Các dạng phân bón
Việc bón phân đúng loại và lượng là rất quan trọng trong việc nâng cao năng
suất gừng, đồng thời gia tăng hiệu quả kinh tế do chi phí đầu tư giảm. Qua kết quả điều
tra về việc bón phân cho gừng của nông hộ, cho thấy có sự khác biệt về các loại phân
bón được sử dụng trong suốt vụ ở các nông hộ (Hình 2). Phân hữu cơ đóng vai trò quan
trọng trong việc cải tạo đất và nâng cao phẩm chất gừng. Theo điều tra cho thấy có
46,81 % hộ sử dụng phân hữu cơ chiếm tỷ lệ tương đối, còn lại 53,19% hộ không bón
phân hữu cơ, mặc dù nguồn phân chuồng từ trâu, bò trong vùng khá lớn do nghề chăn
nuôi trâu bò trong vùng rất phát triển. Từ đó cho thấy, nông dân chưa thấy được lợi ích
của việc bón lót phân hữu cơ cho gừng. Phân Urê chiếm tỷ lệ cao nhất với 89,36%,
phân nầy thường được bón với lượng lớn nhằm tăng khả năng nở củ gừng, NPK 20-20-
15 với 85,11% nông hộ sử dụng, Kali (KCl) chiếm tỷ lệ 34,04% và phân DAP chiếm tỷ
lệ rất thấp với 76,7% nông hộ sử dụng để cung cấp đồng thời đạm và lân cho gừng.
46,81
85,11
34,04
17,02
89,36
0
20
40
60
80
100
Urea DAP KCl 20-20-15 Hữu cơ
Dạng

phân
Tỷ lệ (%)
Hình 2: Phần trăm các loại phân bón được sử dụng trong canh tác gừng
ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
3.4.2. Liều lượng bón
Từ kết quả điều tra được thể hiện ở Bảng 9, cho thấy liều lượng sử dụng phân N,
P và K ở các nông hộ chưa có sự thống nhất nào, mà chỉ do tập quán và kinh nghiệm
sản xuất của từng nông hộ. Điều nầy chứng tỏ việc phổ biến qui trình kỹ thuật trồng
gừng cho nông dân chưa được quan tâm ở địa phương và cần thiết. Các mức độ về liều
lượng nguyên chất của phân N, P và K được sử dụng ở nông hộ cụ thể như sau:
* Phân đạm: Tổng lượng phân đạm được sử dụng cho 1000m
2
trồng gừng trong
khoảng 3 - 106 kg/1000m
2
, trung bình sử dụng 17,44 kg/1000m
2
. Trong đó, bón lượng
đạm nguyên chất <10kg/1.000m
2
chiếm 34,04%, 10-<15kg/1.000m
2
(23,40%), 15-
<25kg/1.000m
2
(25,53%), 25-<40kg/1.000m
2
(10,64%), 40-<50kg/1.000m
2
(4,26%) và

50-106kg/1.000m
2
(2,13%).
* Phân lân: Tổng lượng phân lân được sử dụng cho 1000m
2
trồng gừng trong
khoảng 0 – 96,3 kg kg/1000m
2
, trung bình sử dụng 13,75 kg/1000m
2
. Trong đó, bón
lượng lân nguyên chất <10kg/1.000m
2
chiếm 46,81%, 10-<25kg/1.000m
2
(44,68%), 25-
<40kg/1.000m
2
(4,26%), 40-<70kg/1.000m
2
(2,13%) và 70-96,3kg/1.000m
2
(2,13).

18
* Phân Kali: Tổng lượng phân kali được sử dụng cho 1000m
2
trồng gừng trong
khoảng 1,5 - 45 kg/1000m
2

, trung bình sử dụng 9,52 kg/1000m
2
. Trong đó, bón lượng
kali nguyên chất <10kg/1.000m
2
chiếm 72,34%, 10-<15kg/1.000m
2
(8,51%), 15-
<20kg/1.000m
2
(8,51%), 20-<30kg/1.000m
2
(2,13%) và 30-45kg/1.000m
2
(8,51%).
Bảng 9: Tổng lượng bón phân N, P, K nguyên chất được sử dụng ở các nông hộ trồng
gừng tại Chợ Mới, tỉnh An Giang
Loại phân Liều lượng bón
(Kg/1000m
2
)
Tần số hộ

% Trung
bình
Max Min
N
<10 16 34,04
10-<15 11 23,40
15-<25 12 25,53

25-<40 5 10,64
40-<50 2 4,26
50-106 1 2,13
17,44 106 3
P
<10 22 46,81
10-<25 21 44,68
25-<40 2 4,26
40-<70 1 2,13
70- 96,3 1 2,13
13,75 96,3 0
K
<10 34 72,34
10-<15 4 8,51
15-<20 4 8,51
20-<30 1 2,13
30- 45 4 8,51
9,52 45 1,5
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
3.5. Quản lý cỏ
Trong canh tác cây gừng, ngoài việc bón phân, phun thuốc… còn việc theo dõi
sinh trưởng, vun đất, quản lý cỏ dại cũng là vấn đề cần quan tâm, nhằm giúp cho gừng
dễ dàng phát triển và khống chế sự cạnh tranh dinh dưỡng của cỏ dại cũng như đảm bảo
năng suất gừng là rất cần thiết. Từ dẫn liệu ở Bảng 10, cho thấy việc quản lý cỏ dại
trong ruộng gừng được các nông hộ rất quan tâm và được thể hiện qua chỉ tiêu số lần
làm cỏ với trung bình 4,59 lần thực hiện, cao nhất 10 lần và thấp nhất là 1 lần ở từng
giai đoạn sinh trưởng của gừng với trung bình 45,22 ngày sau khi trồng, cao nhất 75
ngày và thấp nhất là 20 ngày.
Bảng 10: Quản lý cỏ dại ở ruộng gừng của nông hộ tại Chợ Mới, tỉnh An Giang
Lần Tần số hộ % Trung bình Max Min

1-<3 4 8,51
3-<6 32 68,09 4,59 10 1
6-10 11 23,40
Ngày làm cỏ sau khi trồng
20-<30 5 10,64
30-<40 11 23,40
40-<50 13 27,66 45,22 75 20
50-<60 3 6,38
60-<70 13 27,66
70-75 2 4,26

19
3.6. Tình hình dịch hại và biện pháp phòng trị của nông hộ
3.6.1. Sâu hại
Qua kết quả điều tra được ghi nhận ở Bảng 12 cho thấy, các loại sâu gây hại
chính trên diện tích trồng gừng bao gồm:
- Sâu hại: sâu đục thân là loại sâu gây hại thường xuyên nhất với 42 hộ ghi nhận
chiếm 89,36%, sâu keo (sâu ăn tạp) có 4 hộ ghi nhận (8,51%), sâu ăn lá (5 hộ ghi nhận
và 10,64 %), cào cào (2 hộ ghi nhận và 4,26%) và 5 hộ (10,64%) cho biết không có sự
xuất hiện của sâu hại trong canh tác gừng.
- Thời điểm xuất hiện sâu hại: được thể hiện cụ thể qua ngày xuất hiện đầu
tiên chiếm tỷ lệ cao nhất từ 31 – 45 ngày sau khi trồng với 23 hộ ghi nhận (48,94%) và
không thấy xuất hiện sâu hại chiếm 12,77% (6 hộ ghi nhận). Tuy nhiên, thời điểm sâu
hại xuất hiện nhiều nhất từ 60 – 90 ngày sau khi trồng (38,30%), kế đến trên 90 ngày
sau khi trồng (36,17%). Về cách quản lý sâu hại được thể hiện qua các yếu tố như:
- Lần phun thuốc trừ sâu hại: chiếm cao nhất từ 4 – 6 lần/vụ với 17 hộ ghi
nhận (36,17%), kế đến 1 – 4 lần/vụ và 6 – 12 lần/vụ cùng có 12 hộ ghi nhận (25,53%),
thấp nhất có 6 hộ (12,77%) cho rằng không cần phun thuốc.
- Lý do phun thuốc: chiếm cao nhất có 31 hộ (65,96%) thực hiện khi có sâu
xuất hiện và thấp nhất có 5 hộ phun định kỳ và phun ngừa cùng chiếm 10,64%.

- Thời điểm phun thuốc: Đa số các nông hộ đều thực hiện việc xử lý thuốc trừ
sâu hại vào buổi chiều chiếm tỷ lệ cao nhất với 31 hộ (65,96%), kế đến buổi sáng có 9
hộ (19,15%) thực hiện và thấp nhất có 1 hộ (2,13%) phun thuốc vào buổi trưa.
- Các loại thuốc trừ sâu: Có đến 16 loại thuốc trừ sâu khác nhau được sử dụng
từ các nông hộ canh tác gừng trong vùng. Trong đó, các loại thuốc có tỷ lệ sử dụng
nhiều cao như: Regent 5 SC, 800 WG (30 hộ sử dụng và chiếm 63,83 % hộ); Actara (20
hộ và 42,55%); Polytrin và Basudin (12 hộ và 25,53%), Padan (10 hộ và 21,28%), các
loại thuốc sâu còn lại chiếm tỷ lệ thấp với dưới 20% hộ sử dụng và có 5 hộ (10,64%)
không sử dụng thuốc trừ sâu (Bảng 11).
3.6.2. Bệnh hại
- Loại bệnh hại: Chỉ có 2 loại bệnh hại chủ yếu xuất hiện gây hại trên ruộng
gừng của các nông hộ trong vùng là bệnh thối củ với 47 hộ ghi nhận chiếm 100 % và
bệnh cháy lá có 6 hộ ghi nhận và chiếm 12,77% (Bảng 12).
- Thời điểm xuất hiện bệnh hại: được thể hiện cụ thể qua ngày xuất hiện đầu
tiên chiếm tỷ lệ cao nhất từ 16 – 30 ngày sau khi trồng với 19 hộ ghi nhận (40,43%) và
thấp nhất với 1 hộ (2,13) ghi nhận bệnh xuất hiện dưới 15 ngày sau khi trồng. Tuy
nhiên, thời điểm bệnh hại xuất hiện nhiều nhất từ 60 – 90 ngày sau khi trồng (42,55%),
kế đến 90 - 120 ngày sau khi trồng (38,30%).
- Lần phun thuốc trừ bệnh hại: chiếm cao nhất từ 5 – <10 lần/vụ với 30 hộ ghi
nhận (63,83%), kế đến 10 – 15 lần/vụ có 12 hộ ghi nhận (25,53%) và thấp nhất từ 2 - <5
lần/vụ có 5 hộ (10,64%).
- Lý do phun thuốc: chiếm cao nhất có 31 hộ (65,96%) thực hiện phun ngừa,
13 hộ (27,66 %) phun định kỳ và thấp nhất có 3 hộ (6,38%) phun thuốc khi có bệnh
xuất hiện.

20
- Thời điểm phun thuốc: Đa số các nông hộ đều thực hiện việc xử lý thuốc trừ
bệnh hại vào buổi chiều chiếm tỷ lệ cao nhất với 25 hộ (53,19%), kế đến buổi sáng có
21 hộ (44,68%) thực hiện và thấp nhất có 1 hộ (2,13%) phun thuốc vào buổi trưa.
- Các loại thuốc trừ bệnh: Có đến 28 loại thuốc trừ bệnh khác nhau được sử

dụng từ các nông hộ canh tác gừng trong vùng. Trong đó, các loại thuốc có tỷ lệ sử
dụng nhiều cao như: Ridomil (28 hộ sử dụng và chiếm 59,57%), Zineb (13 hộ và
27,66%), Bavistin (10 hộ và 21,28%), các loại thuốc bệnh còn lại chiếm tỷ lệ thấp với
dưới 20 % hộ sử dụng (Bảng 11).
Tóm lại, qua các kết quả phân tích trên chứng tỏ việc quản lý dịch hại của nông
dân trong vùng chưa được thống nhất theo qui trình kỹ thuật canh tác. Do vậy, cần phải
hổ trợ những thông tin kỹ thuật mới cho nông dân trong vùng ứng dụng, nhất là việc
quản lý dịch hại nói chung nhằm đem lại hiệu quả canh tác gừng tốt nhất.
Bảng 11: Các loại nông dược được sử dụng ở các hộ trồng gừng tại Chợ Mới, An Giang
STT
Thuốc sâu
Thuốc bệnh
Loại thuốc Tần số hộ % Loại thuốc Tần số hộ %
1
Regent 30
63,8
3 Zineb 13 27,66
2
Basudin 12
25,5
3 Kasumin 7 14,89
3
Lannate 6
12,7
7 Score 6 12,77
4
Padan 10
21,2
8 Ridomil 28 59,57
5

Cypermethrin 1 2,13 Rovral 7 14,89
6
Mimic 3 6,38 Thiram 1 2,13
7
Abatimec 7
14,8
9 Dithane 1 2,13
8
Ammate 3 6,38 Tilt supper 9 19,15
9
Admire 2 4,26 Topcin 1 2,13
10
Mutoc 1 2,13 Kasuran 4 8,51
11
Pegasus 1 2,13 Topcin 1 2,13
12
Polytrin 12
25,5
3 Copper B 9 19,15
13
Thiodan 9
19,1
5 Copper Zinc 4 8,51
14
Selecron 1 2,13 Trico-ĐHCT 1 2,13
15
Actara 20
42,5
5 Beam 2 4,26
16

Bassa 2 4,26 Validacin 3 6,38
17
Không sử dụng 5
10,6
4 Kasai 1 2,13
18
Bavistin 10 21,28
19
Coc 85 3 6,38
20
Gambat 1 2,13
21
Carban 1 2,13
22
Poligam 1 2,13

21
23
Anvil 5 10,64
24
Daconil 3 6,38
25
Carosal 1 2,13
26
Benomyl 1 2,13
27
Bim-annong 1 2,13
28
Flash 1 2,13
Bảng 12: Diễn biến và cách quản lý dịch hại ở các hộ trồng gừng tại Chợ Mới, AG

Sâu Bệnh
Danh mục Tần số hộ % Danh mục Tần số hộ %
- Sâu đục thân 42 89,36 - Thối củ 47 100
- Sâu ăn lá 5 10,64 - Cháy lá 6 12,77
- Sâu keo 4 8,51
- Cào cào 2 4,26
- Không có 5 10,64
* Ngày xuất hiện đầu tiên: * Ngày xuất hiện đầu tiên:
- <15 1 2,13
- <15
1 2,13
- 16 - 30 8 17,02
- 16 - 30
19 40,43
- 31 - 45 23 48,94
- 31- 45
18 38,30
- >45 9 19,15
- >45
9 19,15
- Không xuất hiện 6 12,77
* Ngày xuất hiện nhiều nhất: * Ngày xuất hiện nhiều nhất:
- 30 – 60 6 12,77 - 30 - 60 1 2,13
- 60 - 90 18 38,30 - 60 - 90 20 42,55
- >90 17 36,17 - 90 - 120 18 38,30
- Không xuất hiện 6 12,77 - 20 - 150 8 17,02
* Lần phun thuốc: * Lần phun thuốc:
- Không phun 6 12,77 - 2 - <5 5 10,64
- 1 - <4 12 25,53 - 5 - <10 30 63,83
- 4 - <6 17 36,17 - 10 - 15 12 25,53

- 6 - 12 12 25,53
* Lý do phun thuốc: * Lý do phun thuốc:
- Ngừa 5 10,64 - Ngừa 31 65,96
- Định kỳ 5 10,64 - Định kỳ 13 27,66
- Có sâu 31 65,96 - Có bệnh 3 6,38
- Không phun 6 12,77
* Thời điểm phun thuốc: * Thời điểm phun thuốc:
- Sáng 9 19,15 - Sáng 21 44,68
- Trưa 1 2,13 - Trưa 1 2,13
- Chiều 31 65,96 - Chiều 25 53,19
- Không phun 6 12,77
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
4. Năng suất và hiệu quả kinh tế trồng gừng
Năng suất của các hộ trồng gừng trong vùng Chợ Mới đều có năng suất trung
bình 2,42 tấn/1000m
2
, cao nhất là 5 tấn/1000m
2
và thấp nhất là 0,4 tấn/1000m
2
(Bảng
13). Với năng suất trên thì trung bình nông dân trong vùng có thể đạt được lợi nhuận
4,45 triệu đồng/1000m
2
, tuy nhiên với lợi nhuận trên nông dân chưa tính đến các chi phí

22
cơ hội. Với lợi nhuận thu được như trên thì tỷ suất lợi nhuận trung bình ước đạt là 0,77,
tức là nông dân bỏ ra 1 đồng vốn thì có thể lời được 0,77 đồng.
Bảng 13: Hiệu quả kinh tế của các hộ trồng gừng tại Chợ Mới, An Giang

Hiệu quả kinh tế Thấp nhất Cao nhất Trung bình
Năng suất (tấn/1000m
2
) 0,4 5 2,42
Giá bán (đồng/kg) 2000 8.000 4.279
Doanh thu (triệu đồng/1000m
2
) 1,2 20 10,25
Chi phí sản xuất (triệu đồng/1000m
2
) 3,35 8,84 5,80
Lợi nhuận (triệu đồng/1000m
2
) -4,39 15,23 4,45
Tỷ suất lợi nhuận -0,64 1,26 0,77
Ghi chú: Tổng số hộ điều tra: 47
5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất gừng của nông hộ
Kết quả điều tra cũng đã thu được một số ý kiến của nông dân xoay quanh các
mặt thuận lợi và khó khăn trong vấn đề canh tác gừng và tiêu thụ sản phẩm ở địa
phương.
5.1. Thuận lợi trong sản xuất gừng của nông hộ
Nằm trong vùng đê bao khép kín nên có thể trồng được quanh năm, điều kiện tự
nhiên thuận lợi. Nông dân nơi đây cho rằng cây gừng là một loại cây dễ trồng, có kỹ
thuật đơn giản hơn so với trồng lúa.
5.2. Khó khăn trong sản xuất gừng của nông hộ
Bên cạnh những thuận lợi người dân trong vùng trồng gừng còn gặp một số khó
khăn, trong đó khó khăn lớn nhất đối với các hộ trồng gừng là thiếu vốn (có 19 hộ và
40,43%), kỹ thuật (45 hộ và 95,74%), thị trường tiêu thụ không ổn định, giá cả bấp bênh
(19 hộ và 40,43 % không được giá, còn lại 28 hộ và 59,57% được giá), đối với gừng
giống phải mua từ vùng khác không có cơ sở nào bán cả.

5.3. Nguồn thông tin cho sản xuất nông hộ
Hiện tại người dân trồng gừng ở khu vực điều tra ít nhận được thông tin về cây
gừng như kỹ thuật canh tác, tài liệu về cây gừng. Ở Chợ Mới có 45 hộ (95,74%) nông
dân có thông tin về cây gừng là do truyền miệng giữa các hộ nông dân với nhau và dựa
theo kinh nghiệm, làm theo lối xóm. Thông tin từ cán bộ khuyến nông, thông tin đại
chúng hầu như không phổ biến, tài liệu phổ biến về cây gừng lại không có. Đây là yếu
tố góp phần vào việc ảnh hưởng đến sản xuất gừng của địa phương. Do đó cần phải chú
ý công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật đến với nông dân nhiều hơn.
5.4. Ý kiến của người dân
Thực tế điều tra ở Chợ Mới, người trồng gừng rất cần có một thị trường tiêu thụ
ổn định. Có 100 % nông dân yêu cầu có nơi thu mua ổn định giá cả, 95,74% hộ nông
dân cần hổ trợ kỹ thuật canh tác gừng nhằm làm giảm chi phí. Người nông dân còn
thiếu hiểu biết về kỹ thuật canh tác, họ chỉ học hỏi kinh nghiệm từ những người đã
trồng rồi, do đó họ rất cần các hoạt động khuyến nông để nâng cao trình độ hiểu biết về
cây gừng và canh tác đạt hiệu quả cao hơn. Có 40,43% hộ nông dân cần hỗ trợ vốn,

23
nhiều hộ trồng gừng thấy có lời nhiều nhưng đầu tư vào thì rất cao lại không có vốn nên
không thể mở rộng được. Nông dân còn yêu cầu các nhà khoa học hãy nghiên cứu để
tìm ra giống gừng đạt năng suất và phẩm chất cao.
B. ẢNH HƯỞNG CỦA NẤM Trichoderma spp VÀ 3 LOẠI VẬT LIỆU
CHỨA LÊN SINH TRƯỞNG, DỊCH HẠI CHÍNH TRÊN GỪNG
TẠI HUYỆN CHỢ MỚI NĂM 2006-2007
I. MÔ TẢ ĐỊA ĐIỂM THÍ NGHIỆM
Thí nghiệm được thực hiện tại xã Mỹ An, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Sống
trong vùng đất phù sa nên đa số người dân ở đây làm rẫy là chủ yếu, một số ít là trồng
lúa. Xã Mỹ An có tổng diện tích đất canh tác nông nghiệp là 1.241ha. Trong đó diện
tích trồng lúa chiếm 400ha đất màu là 366ha và 144ha là đất vườn. Tổng diện tích gieo
trồng cả năm là 3.600ha trong đó trồng lúa là 1.155ha, trồng màu là 2.445ha xã tiếp tục
đẩy mạnh việc trồng màu nhất là những cây màu có giá trị như Bắp 1,500ha, gừng và

kiệu 400ha, trồng cỏ phục vụ chăn nuôi 180ha, còn lại là hoa màu các loại.
II. TÌNH HÌNH THỜI TIẾT AN GIANG TỪ THÁNG 2/2006 ĐẾN THÁNG
10/2006
Thí nghiệm được bố trí vào giữa tháng 2/2006, lượng mưa hàng năm khoảng
1.400 - 1.500mm trong đó mưa ít nhất vào tháng 2 và mưa nhiều nhất vào tháng 9.
Nhiệt độ trung bình ở An Giang không những cao mà còn rất ổn định, từ 26-28ºC. Nhiệt
độ cao nhất là 35-36ºC vào tháng 4 và tháng 5. Nhiệt độ thấp nhất là 20-21ºC vào tháng
12 và tháng 1. Ở An Giang, mùa có độ ẩm thấp (< 80%) trùng với mùa khô còn mùa
mưa thực sự là một mùa ẩm ướt. Độ ẩm trung bình trong những tháng mùa mưa đều
84%, cá biệt có tháng đạt xấp xỉ 90%. An Giang có mùa nắng chói chang, chính điều
nầy cũng làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của gừng. Trong tháng đầu tiên sau khi
trồng cây gừng cần phải được giữ ẩm để đâm chồi lên trên mặt đất. Để khắc phục điều
nầy sau khi trồng phải phủ lên trên mặt đất một lớp mỏng rơm mục để giữ ẩm cho đất
và cũng vì thế trong thời gian nầy cũng dễ gây bệnh cháy lá cho gừng.
III. GHI NHẬN TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM
Thí nghiệm được bố trí trên nền đất ruộng gần nhà, xung quanh có trồng các loại
cây ăn quả, có khả năng làm giảm lượng nắng ảnh hưởng tới các nghiệm thức trong
ngày, trong suốt thời gian thí nghiệm thì trời ít mưa, buổi sáng ít sương mù, buổi trưa
thì nhiệt độ cao lên dần bắt đầu từ ngày trồng cho đến 110 NSKT, trong thời gian đầu
(trước 35 NSKT) lúc cây còn nhỏ thì tình hình tăng trưởng khá chậm ở tất cả các
nghiệm thức (1-8), tuy nhiên trong đó vẫn có nghiệm thức tăng trưởng rất tốt đó là
nghiệm thức 4 và nghiệm thức 2 tuy dần về sau thì sự tăng trưởng về chiều cao, số lá và
đường kính thân giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt rõ rệt giữa các nghiệm
thức.
Về tình hình sâu hại trên các nghiệm thức trồng gừng, thì có sự xuất hiện sớm
của cào cào, sâu ăn tạp với sự hiện diện với mật độ thấp và ít biến động trong suốt thời
gian thí nghiệm nên không ảnh hưởng quan trọng đến sự sinh trưởng của cây gừng.

24

×