Tải bản đầy đủ (.pdf) (496 trang)

đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ VIỆT NAM PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CHẤN HƯNG ĐẤT NƯỚC TRONG THẾ KỶ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.14 MB, 496 trang )


BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CHƯƠNG TRÌNH KN&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC
KX.03/06-10

“Xây dựng con người và phát triển văn hoá Việt Nam trong tiến trình
Đổi mới và hội nhập quốc tế”
*****



BÁO CÁO TỔNG HỢP


ĐỀ TÀI

“XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ
VIỆT NAM PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CHẤN HƯNG
ĐẤT NƯỚC TRONG THẾ KỶ XXI”


Mã số: KX.03.22/06-10


CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
GS.TS. NGUYỄN VĂN KHÁNH

CƠ QUAN CHỦ TRÌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







8416



Hà Nội - 2010


BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CHƯƠNG TRÌNH KN&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC
KX.03/06-10

“Xây dựng con người và phát triển văn hoá Việt Nam trong tiến trình
Đổi mới và hội nhập quốc tế”
*****


BÁO CÁO TỔNG HỢP


ĐỀ TÀI

"XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ
VIỆT NAM PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CHẤN HƯNG
ĐẤT NƯỚC TRONG THẾ KỶ XXI”



Mã số: KX.03.22/06-10


CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
GS.TS. NGUYỄN VĂN KHÁNH

CƠ QUAN CHỦ TRÌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN











Hà Nội - 2010






CÁC THÀNH VIÊN CỦA ĐỀ TÀI

GS.TS. NGUYỄN VĂN KHÁNH
PGS.TS. NGUYỄN VŨ HẢO

PGS.TS. LÂM BÁ NAM
TS. HOÀNG THU HƯƠNG
TS. LẠI QUỐC KHÁNH




THƯ KÝ KHOA HỌC

TS. LẠI QUỐC KHÁNH
1

MỤC LỤC


1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 6
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 10
2.1. Ý nghĩa lý luận 10
2.2. Ý nghĩa thực tiễn 11
3. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 11
3.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 11
3.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 14
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 17
4.1. Mục đích nghiên cứu 17
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 17
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 18
6. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
6.1. Phương pháp luận 20
6.2. Phương pháp nghiên cứu 20
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu của triết học 20

6.2.2. Phương pháp nghiên cứu của sử học 20
6.2.3. Phương pháp nghiên cứu của xã hội học 21
7. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 22
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÍ TUỆ, NGUỒN LỰC
TRÍ TUỆ, XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ 25
I. TỔNG QUAN QUAN NIỆM VỀ TRÍ TUỆ VÀ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ 25
1. Trí tuệ và nguồn lực trí tuệ trong lịch sử tư tưởng phương Đông 25
1.1. Nguồn gốc, bản chất của trí tuệ 25
1.2. Phát huy nguồn lực trí tuệ 29
2. Trí tuệ và nguồn lực trí tuệ trong lịch sử t
ư tưởng phương Tây 33
2.1. Quan niệm về trí tuệ trong lịch sử tư tưởng phương Tây trước Mác 33
2.2. Quan niệm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí tuệ và nguồn
lực trí tuệ 37
3. Xung quanh vấn đề khái niệm trí tuệ 45
3.1. Khái niệm 45
3.2. Trí tuệ và một số khái niệm liên quan 49
3.2.1 Trí tuệ và trí thông minh 49
3.2.2. Chất xám, trí lực, lý tính 50
3.2.3. Tài năng, thiên tài 51
3.2.4. Tri thức, trí thức 52
3.3. Đo lường trí tuệ 54
3.3.1. Trí thông minh và chỉ số thông minh IQ 54
3.3.2. Trí sáng tạo và chỉ số sáng tạo CQ 57
3.3.3. Trí tuệ cảm xúc và chỉ số trí tuệ cảm xúc EQ 60
2

4. Vai trò của nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp phát triển đất nước 62
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và phát huy vai trò của trí thức - bộ phận trung
tâm trong nguồn lực trí tuệ Việt Nam 64

5.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về trí thức và trí thức tinh hoa 64
5.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đào tạo và sử dụng trí thức 65
II. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ CỦA ĐỀ TÀI 69
1. Trí tuệ, trí tuệ Việt Nam 69
2. Nguồn lực trí tuệ, nguồn lực trí tuệ Việt Nam 70
3. Chấn hưng đất nước 75
4. Giải pháp xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn
hưng đất nước 78
4.1. Đặc điểm của giải pháp 78
4.2. Cơ sở xác định các giải pháp 79
4.3. Xây d
ựng giải pháp 83
5. Chủ thể tham gia xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự
nghiệp chấn hưng đất nước 85
CHƯƠNG II: KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ
TUỆ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI 89
I. NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
NỔI BẬT CỦA NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ
VIỆT NAM 89
1. Nguồn lực trí tuệ Việt Nam: Tiếp cận lịch sử 89
2. Nguồn lực trí tuệ Việt Nam: Tiếp cận bộ phận 94
2.1. Đội ngũ trí thức - tầng lớp tinh hoa của trí tuệ Việt Nam 95
2.2. Nguồn lực trí tuệ phụ nữ Việt Nam từ góc nhìn Giới (Gender Study) 99
2.3. Nguồn lực trí tuệ các dân tộc thiểu số Việt Nam 110
2.3.1. Về trình độ học vấ
n 112
2.3.2. Về cơ cấu ngành nghề 113
2.3.3. Về giới tính 114
2.3.4. Phân bố ở các địa phương 114
3. Một số đặc điểm nổi bật của nguồn lực trí tuệ Việt Nam 117

3.1. Chủ nghĩa yêu nước - sợi dây gắn kết tạo nên sức mạnh nổi trội của trí tuệ Việt
Nam 118
3.2. Lòng nhân ái, ý thức về lẽ phải, công bằng - một đặc trưng quan trọng của trí
tuệ và nguồn lực trí tuệ Việt Nam 120
3.3. Nguồn lực trí tuệ Việt Nam chưa tích lũy nhiều tri thức khoa học hiện đại
nhưng thông minh và có khả năng tiếp thu nhanh chóng tri thức hiện đại của nhân loại
121
3.4. Năng lực tư duy, nhất là khả năng phân tích, phán đoán và suy luận chư
a cao
122
3.5. Năng lực sáng tạo cao trong chính trị - quân sự nhưng trong hoạt động kinh tế,
khoa học và văn hóa nghệ thuật năng lực này vẫn còn nằm ở dạng tiềm năng 124
II. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ 126
1. Kinh nghiệm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong lịch sử 126
3

1.1. Vấn đề đào tạo, phát triển và sử dụng nhân tài trong thời kỳ phong kiến Việt
Nam 126
1.1.1. Nhận thức về vai trò của nhân tài và việc dùng người 127
1.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn hiền tài 130
1.1.3. Các hình thức đào tạo, tuyển chọn nhân tài 131
1.2. Khai thác và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975) 134
1.2.1. Sự lãnh đạ
o của Đảng là hiện thân cao nhất của trí tuệ Việt Nam, là động
lực khơi nguồn trí tuệ Việt Nam 134
1.2.2. Trí tuệ của toàn dân và toàn quân được phát huy cao độ 137
1.2.3. Phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng và nghệ thuật quân sự Việt
Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là một trong những biểu
hiện rõ nét của trí tuệ Việt Nam 140

1.3. Khai thác và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam thời k
ỳ cả nước thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới (1975 đến nay) 143
1.3.1 Quan điểm và phương hướng phát huy nguồn lực trí tuệ 143
1.3.2. Khai thác, phát huy nguồn lực trí tuệ từ 1975 đến nay 145
2. Kinh nghiệm phát huy nguồn lực trí tuệ ở một số quốc gia 146
2.1. Nhật Bản Minh Trị duy tân tự cường bắt đầu từ giáo dục 146
2.2. Chiến l
ược “Khoa giáo hưng quốc” - tầm vóc trí tuệ của dân tộc Trung Hoa
trước sự phát triển của quốc gia và thời đại 149
2.2.1. Phát triển phải bắt đầu từ đào luyện nhân lực, giáo dục là kế lớn căn bản,
lâu dài của một dân tộc 150
2.2.2. Nhận rõ vai trò vi trí của trí thức, khoa học kỹ thuật là lực lượng sản suất
hàng đầu 151
2.2.3. Chính sách đ
ào tạo sử dụng, đãi ngộ, tôn trọng tri thức nhân tài 153
2.3. Chính sách giáo dục và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Hàn Quốc 154
2.3.1. Truyền thống và sự phát triển cất cánh 154
2.3.2. Người Hàn Quốc và tố chất hiếu học, tôn sư trọng đạo, truyền thống và
hiện tại 155
2.3.3. Giáo dục và chính sách luôn nhắm mục tiêu phục vụ kinh tế - xã hội, đáp

ng đào tạo nguồn nhân lực tri thức 157
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ VIỆT NAM TRONG CÁC
LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 164
I. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ VIỆT NAM HIỆN NAY 164
1. Nguồn lực trong nước 164
1.1 Lĩnh vực khoa học, công nghệ 164
1.2. Lĩnh vực giáo dục 172
1.3. Lĩnh vực văn hóa, ngh

ệ thuật 175
1.4. Lĩnh vực kinh tế - kinh doanh 180
1.5. Lĩnh vực quân sự, ngoại giao 183
2. Nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài 186
3. Nguồn nhân lực tiềm năng 192
3.1. Nguồn nhân lực tiềm năng có trình độ đại học 192
4

3.2. Nguồn nhân lực tiềm năng có trình độ sau đại học 196
3.3. Nguồn nhân lực tiềm năng đang được đào tạo ở nước ngoài 197
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ HIỆN NAY 201
1. Tính hợp lý của sự phân công công việc 201
2. Mức độ phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ 204
3. Đánh giá của đội ngũ cán bộ về việc th
ực hiện cơ chế, chính sách trong các cơ quan
hiện nay 209
III. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ
HIỆN NAY 211
1. Mức độ phù hợp giữa đào tạo và việc làm 211
2. Quá trình hoạt động nghề nghiệp 215
3. Mức độ gắn bó với nghề nghiệp 223
IV. ĐÁNH GIÁ NHỮNG THUẬN L
ỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ VIỆT NAM HIỆN NAY 229
1. Nguồn lực trí tuệ Việt Nam hiện nay - thế mạnh và hạn chế 230
2. Những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển nguồn lực trí tuệ 234
2.1. Những thuận lợi từ văn hóa truyền thống Việt Nam 234
2.1.1. Lòng yêu nước hay cao hơn là chủ nghĩa yêu nước là một trong nét truyền
thống quý báu củ
a dân tộc Việt Nam 234

2.1.2. Việt Nam có truyền thống trong dụng nguồn lực trí tuệ và mục đích xây
dựng, phát triển đất nước phù hợp với việc phát huy và trọng dụng các nguồn lực trí
tuệ 235
2.1.3. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo cũng là một điều kiện thuận lợi
cho việc xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam hi
ện nay 236
2.2. Những thuận lợi của công cuộc Đổi mới 239
3. Những khó khăn trong việc xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam hiện
nay 242
3.1. Những khó khăn từ văn hóa Việt Nam 242
3.2. Những khó khăn thuộc điều kiện kinh tế - xã hội 246
CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC TRÍ TUỆ
VIỆT NAM PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CH
ẤN HƯNG ĐẤT NƯỚC 252
I. CÁC GIẢI PHÁP CHUNG 252
1. Thống nhất và nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nguồn lực trí tuệ 252
1.1. Xây dựng và thống nhất nhận thức của toàn xã hội về mẫu hình người lao động
trí tuệ trong sự nghiệp chấn hưng đất nước hiện nay 254
1.2. Thống nhất và nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò quan trọng của
nguồn lực trí tu
ệ đối với phát triển 259
1.3. Thống nhất và nâng cao nhận thức của toàn xã hội về những hậu quả mà việc
phát triển nguồn lực trí tuệ có thể gây ra 265
2. Đo lường, đánh giá toàn diện thực trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam, quy hoạch
nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong tương lai 272
3. Đẩy mạnh cải cách, nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục Vi
ệt Nam phục vụ sự
nghiệp xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ 279
3.1. Phải đặc biệt coi trọng giáo dục tri thức khoa học nhân văn 284
5


3.2. Chính sách đầu tư cho giáo dục cần phải dựa trên nền tảng “kinh tế học giáo
dục” 290
3.3. Cần phải đặc biệt coi trọng vai trò của giáo dục đại học trong việc xây dựng và
phát huy nguồn lực trí tuệ 294
4. Xây dựng môi trường thuận lợi cho việc phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ Việt
Nam 300
4.1. Xác lập mô hình tăng trưởng theo chiều sâu 300
4.2. Nâng cao trình độ công nghệ một cách hợp lý 305
4.3. Xây dựng môi trường kích thích tính tích cực của người lao động trí tuệ 313
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ 325
1. Chống “chảy máu chất xám” 325
2. Hoàn thiện chính sách bảo hộ tài sản trí tuệ 333
2.1. Một số bất cập trong chính sách bảo hộ tài sản trí tuệ Việt Nam 333
2.2. Một số giải pháp bảo hộ tài sản trí tuệ nhằm mang lại lợi ích cho Việt Nam và
phù hợp với các điều ước quốc tế 337
3. Chú trọng xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ phụ nữ, nguồn lực trí tuệ đồng
bào dân tộc thiểu số và nguồn lực trí tuệ Việt kiều 340
3.1. Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ phụ nữ 340
3.2. Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ đồng bào dân tộc thiểu số 344
3.3. Phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt kiều 347
KẾT LUẬN CHUNG 355
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 359
PHỤ LỤC 369
6

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Cho đến nay nhân loại đã và đang trải qua ít nhất ba giai đoạn, ba thời đại trong
lịch sử phát triển các nền văn minh trên trái đất.
Giai đoạn thứ nhất là thời đại của nền văn minh nông nghiệp đã diễn ra từ
hàng ngàn năm trước đây mà nhờ đó, loài người đã thoát khỏi tình trạng bấp bênh của
lối sống săn bắn, hái lượm và đạ
t được trạng thái ngày càng phát triển như ngày nay
trong công cuộc chinh phục tự nhiên đáp ứng những nhu cầu cuộc sống của con người.
Giai đoạn thứ hai là thời đại của nền văn minh công nghiệp bắt đầu từ hàng
trăm năm trước, dựa trên những phát minh vĩ đại của loài người như máy hơi nước,
các công cụ cơ khí, các nguồn năng lượng khác nhau như than, dầu mỏ
, sức gió, sức
nước v.v Nền văn minh công nghiệp đã làm thay đổi về chất sức mạnh của con người,
khiến năng suất lao động tăng lên hàng chục, thậm chí hàng trăm lần, đem lại cho con
người một nguồn khổng lồ của cải, vật chất và tinh thần so với thời đại trước.
Điểm chung của nền văn minh nông nghiệp và văn minh công nghiệp là ở chỗ

đều dựa trên những điều kiện vật chất, điều kiện tự nhiên, coi việc khai thác các tài
nguyên thiên nhiên là cơ sở quan trọng nhất để tạo ra của cải vật chất cho đời sống xã
hội. Nói một cách khác, nền tảng chính của nền văn minh nông nghiệp và nền văn
minh công nghiệp là nguồn lực vật chất (đất đai, bờ biển, tài nguyên, khoáng sản, khí
hậu và những yếu t
ố thiên nhiên ưu đãi, nguồn của cải vật chất, nguồn vốn v.v.).
Giai đoạn thứ ba mà chúng ta đang trải qua và chứng kiến, là một trong những
giai đoạn đặc thù nhất của lịch sử văn minh nhân loại. Đó là giai đoạn chuyển tiếp từ
nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ bắt đầu từ những thập kỷ cuối thế
kỷ XX đầu thế kỷ XXI với những thành tựu vĩ đại của các cuộc cách mạng trong khoa
học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin. Đặc
trưng cơ bản của thời đại văn minh trí tuệ là ở chỗ nó chủ yếu không dựa vào nguồn
lực vật chất, mà chủ yếu dựa vào nguồn lực tinh thần của con người, đặ
c biệt là nguồn

lực trí tuệ gắn liền với tri thức và “chất xám” với tính cách là yếu tố cơ bản chi phối
mọi hoạt động của nền kinh tế và với tính cách là một trong những động lực cơ bản
cho sự phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một nguồn lực vô tận
có thể khai thác so với nguồn lực vật ch
ất - tự nhiên đang ngày càng trở nên cạn kiệt.
7

Một thời đại khác về chất so với thời đại của nền văn minh nông nghiệp và thời đại
của nền văn minh công nghiệp đang bắt đầu.
Xu hướng cơ bản của giai đoạn chuyển tiếp sang nền văn minh trí tuệ là sự tích
tụ và liên kết tri thức trên quy mô toàn cầu và bước chuyển dần dần sang nền kinh tế
tri thức. Chính trong giai đoạn này, lý tính con người, trí tuệ
con người thể hiện được
tiềm năng và sức mạnh vĩ đại của nó trong việc chinh phục tự nhiên đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về mọi mặt của con người. Cũng chính trong giai đoạn nay, sự tiên
đoán của C. Mác về khoa học với tính cách là lực lượng sản xuất trực tiếp đã và đang
trở thành hiện thực.
Sau 25 năm Đổi mới, 20 năm thực hi
ện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và hai chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (1991-
2000 và 2001 - 2010), sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu, quá trình phát triển cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu kém, không
chỉ ở n
ăng lực thực tiễn, mà cả ở năng lực tư duy lý luận, ở cả năng lực hoạch định
đường lối, chính sách.
Trong bối cảnh nhân loại đang tiến bước mạnh mẽ vào nền văn minh trí tuệ,
đến năm 2020 xây dựng nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải huy độ
ng đến mức cao nhất tất cả

các nguồn lực, trong đó có nguồn lực trí tuệ Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam đang tồn
tại nhiều vấn đề cần được nhận thức và giải quyết thấu đáo.
Nhìn từ thực tiễn, có thể cảm nhận được một thực trạng đáng lo ngại về chất
lượng nguồn lực lao động Việt Nam. Lao động Việt Nam hiện nay đa phần vẫn là lao
động phổ thông giản đơn, lao động chưa được đào tạo phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
Với trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng các yêu cầu khắ
t khe
của nền kinh tế thị trường, nền giáo dục và đào tạo Việt Nam kể từ mầm non, phổ
thông và dạy nghề đến đại học và sau đại học đang đứng trước hàng loạt những vấn đề
bức xúc liên quan đến chất lượng đào tạo, đến chương trình lạc hậu không phù hợp và
quá tải, đến những hiện tượng tiêu cực trong việc dạy, học và thi c
ử, v.v
Trong bối cảnh đương đại của xu hướng phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
8

quốc tế, việc xây dựng và đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, việc phát huy nguồn
lực trí tuệ Việt Nam đã và đang trở thành vấn đề hết bức thiết của xã hội. Nhiều lĩnh
vực quan trọng của nền kinh tế như ngân hàng, chứng khoán, tài chính, thương mại, du
lịch, dầu khí, các ngành công nghệ kỹ thuật cao như công nghệ thông tin, công nghệ
nanô, công nghệ sinh học, v.v., đ
ang có nhu cầu rất lớn đối với những chuyên gia,
những nhà khoa học có trình độ cao. Hiện tượng xuất khẩu lao động giản đơn và nhập
khẩu lao động có trình độ cao là một thực tế đáng buồn, không thể chấp nhận được đối
với Việt Nam trong “sân chơi” toàn cầu.
Trong khi đó hiện tượng coi thường “chất xám”, lãng phí “chất xám” và đặc
biệt chảy máu “chất xám” đang diễn ra ở
mức độ khá nghiêm trọng. Môi trường, điều
kiện làm việc và chính sách tiền lương trong khu vực Nhà nước vẫn còn nhiều bất cập,

chưa đủ sức thu hút và lôi cuốn nhân tài và lao động trí tuệ. Mặc dù có những tiến bộ,
các chính sách chiêu hiền đãi sĩ nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam ở trong và ngoài nước còn gặp khá nhiều bất cập, chưa phát huy được tác dụng.
Thực tế trên đang gióng lên nhữ
ng hồi chuông cảnh báo khẩn thiết, buộc tất cả
những người có lương tâm và trách nhiệm xã hội, từ những cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể tới mỗi người Việt Nam yêu nước phải suy nghĩ nghiêm túc về
thực trạng nguồn lực trí tuệ và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam, phải hiểu rõ tính
tất yêu không chỉ phát triển nguồn nhân lực nói chung, mà là xây dựng, đào tạo, sử
dụng và phát huy nguồn lực trí tuệ như một nguồn lực quý giá và vô tận so với các
nguồn lực khác trong bối cảnh của nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Việc xây
dựng và phát triển chiến lược đối với nguồn lực trí tuệ Việt Nam ở cả trong và ngoài
nước để nhanh chóng khắc phục thực trạng đáng lo ngại nói trên là điều có ý nghĩa
quyết định
đối với sự thành bại của sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI.
Tóm lại, chính bản thân thực tiễn cuộc sống đang đặt ra đòi hỏi bức thiết phải
có những nghiên cứu, khảo sát khoa học nghiêm túc trên phạm vi cả nước nhằm phản
ánh đúng thực trạng trí tuệ, nguồn lực trí tuệ, phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam,
nhận thức đượ
c những yếu tố cơ bản tác động về mọi mặt đến nguồn lực trí tuệ Việt
Nam, những mặt mạnh và hạn chế của nguồn lực ấy, từ đó, đưa ra được chiến lược và
chính sách phù hợp để khích lệ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, khơi nguồn trí tuệ để
phát triển.
Xét trên phương diện chính sách, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng
9

việc xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Nhiều tư tưởng, đường lối,
chính sách về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, về đội ngũ trí thức, về công tác
cán bộ, về cải cách chế độ tiền lượng, v.v., đã ra đời và đi vào thực tiễn cuộc sống. Tư
tưởng, đường lối, chính sách ấy đã phát huy tác dụng to lớn trong việc khơi dậy và

phát huy sức mạnh trí tuệ của toàn thể dân tộc, không chỉ trong cách mạng giải phóng
dân tộc, trong hai cuộc khánh chiến chống Pháp và chống Mỹ, mà cả trong sự nghiệp
Đổi mới ngày nay. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cũng cần phải
thấy rằng, trong toàn bộ quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng và Nhà nước ta
cũng có lúc mắc phải sai lầm, cũng có lúc Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luậ
t
của Nhà nước chưa hoàn chỉnh, đôi lúc quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chính
sách có vấn đề. Quan trọng hơn, trước giai đoạn phát triển mới của lịch sử nhân loại và
dân tộc, nhiều vấn đề mới đang đặt ra đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải xem xét giải
quyết trên cơ sở lối tư duy mới, không thể dừng lại ở lối t
ư duy truyền thống. Chính vì
thế, những đường lối, chính sách, pháp luật luôn luôn được điều chỉnh, bổ sung, phát
triển cho phù hợp với nhu cầu phát triển của thực tiễn. Không chỉ chính sách ở cấp vĩ
mô mà chính sách ở cấp vi mô cũng đang có vấn đề. Đó là quan niệm, và từ quan niệm
đến chính sách đầu tư cho xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ của các tổ chức vi
mô và các cá nhân đang còn nhiều bất cậ
p. Thống kê cho thấy, đầu tư cho nghiên cứu -
phát triển (R&D) của các doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại thấp trong khu vực, sự
phối hợp giữa trường đại học và doanh nghiệp trong nghiên cứu - đào tạo - ứng dụng
còn rất chưa chặt chẽ, chính sách đầu tư của các gia đình cho con cái sau khi tốt
nghiệp phổ thông trung học chưa được đặt trên cơ sở khoa học, v.v Chính sách ở cấp
vĩ mô là rấ
t quan trọng, nhưng chính sách ở cấp vi mô lại càng quan trong hơn, bởi đây
chính là mảnh đất mà toàn bộ các vấn đề xây dựng, phát huy nguồn lực trí tuệ diễn ra.
Những vấn đề về chính sách ở cấp độ vĩ mô hay vi mô đã góp phần tạo nên tính
cấp thiết cho đề tài nghiên cứu đánh giá về nguồn lực trí tuệ Việt Nam.
Trên phương diện học thuật, như sẽ khảo sát kỹ dướ
i đây, những nghiên cứu
về các vấn đề có liên quan (chẳng hạn về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ,
kinh tế tri thức), hoặc là những bộ phận, phương diện (chẳng hạn về trí thức, về nhân

lực chất lượng cao, v.v ) của nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong sự nghiệp chấn hưng
đất nước thì khá phong phú và có nhiều giá trị khoa học. Tuy nhiên, những nghiên cứu
trực diệ
n vào vấn đề nguồn lực trí tuệ thì còn rất ít ỏi, và đang ở giai đoạn khởi động.
10

Thực trạng nghiên cứu học thuật đang đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu cả về
phương diện lý thuyết, lẫn phương diện thực tế, và cả về phương diện tư vấn chính
sách về nguồn lực trí tuệ Việt Nam.
Nhận thức được đòi hỏi khách quan trên cả ba phương diện: thực tiễn, chính
sách và học thuật, Đảng và Nhà nước đã đầ
u tư kinh phí để xây dựng và triển khai đề
tài khoa học cấp Nhà nước: “Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục
vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI” (mã số KX.03.22/06 - 10, thuộc
Chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX.03/06 - 10 “Xây dựng con
người và phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”).
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN C
ỦA ĐỀ TÀI
2.1. Ý nghĩa lý luận
Trên phương diện lý luận, các vấn đề trí tuệ, nguồn lực trí tuệ và phát huy
nguồn lực trí tuệ được quan tâm, đề cập tới trong vô số các công trình nghiên cứu trên
thế giới. Trong thời kỳ chuyển tiếp sang thời đại của văn minh trí tuệ, trong bối cảnh
hội nhập toàn cầu và phát triển kinh tế tri thức, đặc biệt vào thập niên cuối thế kỷ XX
đầ
u thế kỷ XXI, vấn đề lý luận liên quan đến bản chất, cấu trúc, vị thế và vai trò của
nguồn lực trí tuệ, vốn trí tuệ, giới tinh hoa trí tuệ đã trở thành những vấn đề nóng ở
nhiều quốc gia phương Tây. Xuất hiện nhiều trường phái, nhiều quan niệm và các cách
tiếp cận mới khảo cứu về nguồn lực trí tuệ, vốn trí tuệ của các quốc gia, các khu vực,
các ngành, các doanh nghi
ệp, các tổ chức, v.v., không chỉ ở tầm vĩ mô, mà còn cả ở

tầm vi mô, trong bối cảnh ngày càng suy giảm vai trò của yếu tố vật chất và gia tăng ý
nghĩa của yếu tố trí tuệ, tri thức với tính cách là nguồn lực chủ yếu của sản xuất, của
phát triển kinh tế - xã hội. Việc nghiên cứu đề tài này có thể xem là sự bắt nhịp về lý
luận với giới họ
c thuật quốc tế về những đề tài có giá trị khoa học và thực tiễn cao
trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay. Đây là cơ sở lý luận chiến lược không thể
thiếu cho một nền kinh tế cất cánh của mỗi quốc gia trong thế giới đương đại.
Đây là một đề tài nghiên cứu mang tính liên ngành, được tiếp cận trên các góc
độ triết học, sử học, xã hội học, khoa học chính sách và khoa h
ọc dự báo. Cách tiếp
cận liên ngành khoa học xã hội đã định hướng cho toàn bộ nghiên cứu. Nghiên cứu
này có điều kiện kết hợp và vận dụng các lý thuyết của các ngành khoa học xã hội
khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề về nguồn lực trí tuệ Việt Nam, đem lại cái nhìn đa
11

chiều cạnh về nguồn lực này. Bên cạnh đó, những phát hiện mới của nghiên cứu đặt ra
những vấn đề về mặt lý luận cho các ngành khoa học xã hội tiếp tục nghiên cứu.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài tập trung vào việc đánh giá nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong lịch sử cũng
như trong hiện tại, thực trạng phát huy nguồn lực trí tuệ hiện nay, tìm hiểu nh
ững yếu
tố thúc đẩy, cản trở việc phát huy nguồn lực này, để từ đó đề xuất những khuyến nghị
về mặt chính sách đối với Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nguồn lực trí tuệ Việt
Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI. Những kết quả của đề
tài sẽ cung cấp những luận cứ
quan trọng cho việc hoạch định chiến lược và chính
sách của Đảng, Nhà nước ở tầm vĩ mô đối với trí tuệ và nguồn lực trí tuệ Việt Nam,
đồng thời góp phần xây dựng chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đất nước
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức.
Đồng thời, các nhà nghiên cứu, các học viên sau đại học, sinh viên và nhữ

ng người
quan tâm tới vấn đề về nguồn lực trí tuệ Việt Nam sẽ có một nguồn tư liệu tham khảo
có giá trị từ kết quả nghiên cứu của đề tài.
3. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1

3.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Những vấn đề liên quan đến trí tuệ và nguồn lực trí tuệ con người đã dành được
sự quan tâm nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại ở cả phương Đông
và phương Tây với nhiều quan niệm, cách tiếp cận, nhiều tư tưởng, lý thuyết được đề
xướng. Tuy nhiên chỉ từ cuối thế kỷ XIX, nghiên cứu chuyên sâu v
ề trí tuệ có được
bước phát triển mới trên cơ sở khoa học.
Có vô số các công trình nghiên cứu về trí tuệ, nguồn lực trí tuệ, phát huy nguồn
lực trí tuệ. Tuy vậy, chúng tôi có thể phân chia các tư liệu về đề tài này thành các loại
sau: Thứ nhất, là các công trình nghiên cứu về các quan niệm, các cách tiếp cận về trí
tuệ trong lịch sử tư tưởng nhân loại ở cả phương Tây và phương Đông
2
. Thứ hai, là


1
Ở đây, chúng tôi chỉ nêu một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu. Những nội dung cụ thể sẽ được trình bày
chi tiết trong chương 1 dưới đây.
2
Thuộc nhóm này, có thể nhắc đến những công trình sau: Gardner, Howard, Cơ cấu trí khôn - Lý thuyết về
nhiều dạng trí khôn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998; Gardner, H. (1983). Frames of mind: The theory of multiple
intelligences. New York: Basic Books; Eysenck, H. J. (1982). Introduction. In H. J. Eysenck (Ed.), A model for
intelligence (pp. 1 - 10). New York: Springer - Verlag; Guilford, J. P. (1967). The nature of human intelligence.
New York: McGraw - Hill; Sternberg, R. J., & Gardner, M. K. (1982). A componential interpretation of the

general factor in human intelligence. In H. J. Eysenck (Ed.), A model for intelligence (pp. 231 - 254), New York:
Springer - Verlag; Sternberg, R. J. (1985), Beyond IQ: A triarchic theory of human intelligence, New York:
Cambridge University Press; Thurstone, L. L. (1924). The nature of intelligence. New York: Harcourt Brace;
12

các công trình nghiên cứu về một số khái niệm liên quan đến trí tuệ, các loại hình trí
tuệ, các mô hình trí tuệ, đo lường trí tuệ
3
. Thứ ba, là các công trình nghiên cứu về gien,
môi trường, văn hóa và các yếu tố tác động đến việc phát triển trí tuệ
4
. Thứ tư là các
công trình về một số khái niệm liên quan đến nguồn lực trí tuệ và phát huy nguồn lực
trí tuệ
5
. Thứ năm, các lý thuyết chung về nguồn lực trí tuệ được phát triển mạnh trong


Armstrong, Thomas, Multiple Intelligences: Seven Ways to Approach Curriculum, Educational Leadership,
November, 1994.
3
Thuộc nhóm này, có thể nhắc đến những công trình sau: Guilford, J. P. (1967), The nature of human
intelligence, New York: McGraw - Hill; Altman, Ida, Concept of Intelligence, University Press of America, 1997;
Morin, E. (chủ biên), Thách đố của thế kỷ XXI - Liên kết tri thức, Nxb Đaị học Quốc gia Hà Nội, 2005; Cohn,
J.S., Whas is giftedniss? A multidimensional approach. In: Kramer, A. H: Gifted children their potentia", New
York, 1981; Ferger, B, Hochbegabung: Chancen und Problem, Verlag Hans Huber, Bern/ Stuttgart/ Toronto,
1988; Sternberg, R. J. (in press), Intellectual ability, in: Encyclopedia of Cognitive Science, Macmillan
Publishers Limited, 2002; Sternberg, R. J., The concept of intelligence, in: R. J. Sternberg (Ed.), Handbook of
intelligence (pp. 3 - 15), New York: Cambridge University Press, 2000; Spearman, C. (1973/1923). The nature
of "intelligence" and the principles of cognition, New York: Arno Press.; Roedell, Jackson & Robinson (1980),

Hochbegabung in der Kindheit, Heidelberg: Roland Asanger Verlag; Tettenborn, A. (1996). Familien mit
hochbegabten Kindern, Münster / New York: Waxmann; Süß, H. - M. (1996), Intelligenz, Wissen und
Problemlösen, Göttingen: Hogrefe.; Goleman, Daniel, Trí Tuệ Xúc Cảm - Ứng Dụng Trong Công Việc, Nxb Tri
Thức, 2007; Abroms, K.I, Social giftedniss and its relationship with intellectual giftedniss in J. Freeman: The
psychology of gifted children, Chicherter: Sohn Wiley & Sens, 1985; Kaiser, H.J., Soziale Intelligenz,Verlag W.
Kohlhammer, Stuttgart, 1998; Spariosu, Mihai, Global Intelligence and Human Development, MIT Press Ltd,
2004; Sternberg, R. J., & Grigorenko, E. L, (in press), Intelligence applied, New York: Oxford University Press,
2002; Sternberg, Robert J. (Ed.), Encyclopedia of human intelligence, Macmillan, New York, 1994; Armstrong,
Thomas, Multiple Intelligences in the Classroom. Alexandria, VA: Association for Supervision and Curriculum
Development, 1994; Armstrong, Thomas, Multiple Intelligences: Seven Ways to Approach Curriculum,
Educational Leadership, November, 1994; Gates, Bill; Collins Hemingway, Bill Gates - Tốc độ tư duy, (Nguyễn
Văn Phước, Vũ Tài Hoa, Lê Hiền Thảo dịch), Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2002 ; Eysenck, H.J, The nature and
measurement of intelligence in The psychology of gifted children, Chicherter, New York , 1985; Hunt, T, The
measurement of social intelligence, Journal of Applied Psychology, 1928; Jensen, A. R., Why is reaction time
correlated with psychometric g? Current Directions in Psychological Science, 2 (1993), 53 - 56; Jensen, A. R.,
The psychometrics of intelligence, in H. Nyborg (Ed.), The scientific study of human nature: Tribute to Hans J.
Eysenck at eighty (pp. 221 - 239), New York: Elsevier, 1997; Spearman, C., General intelligence objectively
determined and measured, American Journal of Psychology, 15 (1904), 201 - 293; Sternberg, R. J., Beyond IQ:
A triarchic theory of human intelligence, New York: Cambridge University Press, 1985; Sternberg, Robert J.;
Lautrey, Jacques; Lubart, Todd I., Models of Intelligence, American Psychological Association, 2003; Eysenck,
H. J., Introduction. In: H. J. Eysenck (Ed.), A model for intelligence (pp. 1 - 10). New York: Springer - Verlag,
1982; Sternberg, R. J., & Gardner, M. K., A componential interpretation of the general factor in human
intelligence, In: H. J. Eysenck (Ed.), A model for intelligence (pp. 231 - 254), New York: Springer - Verlag,
1982; Holocher - Ertl, S., Kubinger, K.D., Förderungsorientierte Hochbegabungsdiagnostik: Das Wiener
Diagnosemodell zum Hochleistungspotenzial, Report Psychologie, 3 (2009), 116 - 129; Jäger, A.O.,
Intelligenzstrukturforschung: Konkurrierende Modelle, neue Entwicklungen, Perspektiven, Psychologische
Rundschau, 35 (1984), 21 - 35.
4
Thuộc nhóm này, có thể nhắc đến những công trình sau: Fetzer, James H., Evolution of Intelligence, 2004;
Klix, F., Zur Evolution der Menschlichen Intelligenz, Verlag W. Kohlhammer, Stuttgart, 1998; Доналдсон ,М.,

Мыслительная деятельность детей, М., 1985; Carraher, T. N., Carraher, D., & Schliemann, A. D.,
Mathematics in the streets and in schools, British Journal of Developmental Psychology, 3 (1985), 21 - 29;
Holocher - Ertl, S., Kubinger, K.D. & Hohensinn, C., Hochbegabungsdiagnostik: HAWIK - IV oder AID 2.
Kindheit und Entwicklung, 17 (2008a), 99 - 106.
5
Thuộc nhóm này, có thể nhắc đến những công trình sau: Dahlman, C. J. & Aubert, J., China and the knowledge
economy: Seizing the 21st century, Washington, DC: The World Bank, 2001; Drucker, P., Post - Capitalist
Society, Oxford: Butterworth Heinemann, 1993; Edvinsson, L & Malone, M. S., Intellectual capital, London,
Piatkus, 1997; Guthrie and R. Petty, Intellectual capital: Australian annual reporting practices, Journal of
Intellectual Capital (3), pp. 241–251, 2000; Drucker P., Beyond the Information Revolution //The Atlantic
Monthly, October 1999. Vol. 284, № 4; Drucker P.F., Post - Capitalist Society, Oxford Butterworth: Heinemann,
1993; Brooking, A., The components of intellectual capital?(1997), in: intellectual_
13

Kinh tế học, đặc biệt là kinh tế học phát triển (trường phái Tư bản con người) từ
khoảng giữa thế kỷ XX trở lại đây
6
.
Trong những năm gần đây, trước những “kỳ tích” kinh tế của các “con rồng”,
“con hổ” châu Á, nhiều nghiên cứu chuyên sâu của các nhà kinh tế học phát triển, của
các tổ chức quốc tế như World Bank (WB), Internatinal Money Foundation (IMF),


capital/components. html; Skyrme D. (1998) Measuring The Value of Knowledge, London Business Intelligence
Ltd; Roos, J. and Roos, G. ‘Valuing intellectual capital?, FT Mastering Management, No, 3 (1997), July -
Aug.,pp. 6 - 10; Karl Erik Sveiby "The Intangible Asset Monitor", J. of Human Resource Casting and
Accounting, 2 (1997); Paolo Magrassi, A Taxonomy of Intellectual Capital, Research Note COM - 17 - 1985;
Сергеев А. Л. Интеллектуальный капитал когнитивной микроэкономики: тезаурус и структура
//Экономический анализ: теория и практика, 2005. № 11. С. 50 - 55; Сергеев А. Л., Категории в теории
интеллектуального капитала //Экономический вестник РГУ. 2005, № 1., С. 53 - 58; Сергеев А. Л.,

Методологические знания в интеллектуальном капитале организации.//Научная мысль Кавказа, 2004, №
4. С. 47 - 50; Сергеев
А. Л. Типология ресурсов интеллектуального капитала фирмы //Экономический
вестник РГУ, 2005, № 1. С. 59 - 64; Stewart T.A. Intellectual Capital: The New Wealth of Organizations. -
N.Y. - L.: Doubleday / Currency, 1997; Марковская Елизавета Игоревна, Интеллектуальные ресурсы в
обеспечении конкурентоспособности предприятия, in: - ru.net/diss/cont/80217.html;
Klein, David A., Strategic Management of Intellectual Capital, Elsevier: Science & Technology, 1998, Skyrme,
David, Measuring Knowledge and Intellectual Capital, Business Intelligence, 2003; Dahlman, C. J. & Aubert, J
China and the knowledge economy: Seizing the 21st century, Washington, DC: The World Bank, 2001;
Edvinsson, L & Malone, M. S., Intellectual capital, London, Piatkus, 1997; Guthrie and R. Petty, “Intellectual
capital: Australian annual reporting practices”, Journal of Intellectual Capital (3), pp. 241–251, 2000; Marr, B.,
Gray,D. and Neely,A., Why do firms measure their intellectual capital, Journal of Intellectual Capital, Vol.4
No.4, pp.441 - 64, 2003; O'Donnell, Henriksen, and Voelpel, "Becoming critical on intellectual capital", Journal
of Intellectual Capital, Vol 7 No.1, 2006; Mouritsen, Jan, Per Nikolaj Bukh, Mette Rosenkrands Johansen &
Heine T. Larsen, Developing and Managing Knowledge through Intellectual Capital Statements, Journal of
Intellectual Capital 3(1):10 - 29.2002; Brooking, A., Intellectual Capital: Core Assets for the Third Millennium
Enterprise, Thompson Business Press, London 1996; Brooking, A., The management of intellectual capital,
Long Range Planning, Vol. 30 No. 3 (1997); Edvinsson, L., The knowledge capital of nations, Knowledge
Management, April (2002), pp. 27 - 30; Edvinsson, L., Stenfelt, C., IC of nations for future wealth creation,
Journal of Human Resource Costing & Accounting, Vol. 4 No. 1 (1999); Edvinsson, L., “Developing intellectual
capital at Skandia”, Long Range Planning, Vol.30 No. 3 (1997), pp.320 - 31; Hall, R., “The Strategic Analysis of
Intangible Resources”, Strategic Management Journal, Vol. 13, No. 2 (1992), pp. 135 - 144; Hall, R., “A
Framework linking Intangible Resources and Capabilities to Sustainable Competitive Advantage”, Strategic
Management Journal, Vol.14 (1993); Hudson, W.J., Intellectual Capital: How to Build It, Enhance It,Use It,
Wiley, New York, NY, 1993; Malhotra, Y. “Knowledge assets in the global economy : assessment of national
intellectual capital” , in Malhotra, Y. (eds), Knowledge Management and Business Model Innovation, Idea
Publishing Group, London, 2001; Roos, G., Roos, J., “Measuring your company’s intellectual performance”,
Long Range Planning, Vol. 30 No. 3 (1997); Sullivan, P.H. (1998, eds), Profiting from intellectual capital:
extracting value from innovation, Wiley, New York; Sveiby, K.E., “The Intangible Asset Monitor”, Journal of
Human Resource Costing & Accounting, Vol. 2 No. 1 (1997).

6
Thuộc nhóm này có thể nhắc đến các nhà kinh tế học đoạt giải thưởng Nobel như Théodore W. Schultz (1902-
1998) với các tác phẩm: Investment in Human Beings, Chicago: University of Chicago Press, 1962; Investment
in Human Capital: The Role of Education and of Research, New York: Free Press, 1971; Investment in
Education: Equity-Efficiency Quandary, Chicago: University of Chicago Press, 1972; Human Resources
(Human Capital: Policy Issues and Research Opportunities), New York: National Bureau of Economic Research,
1972; Economics of the Family: Marriage, Children, and Human Capital, Chicago: University of Chicago Press,
1974; Investing in People, University of California Press, 1981. Ngoài ra còn có Gary Becker với các tác phẩm:
Human Capital: A Theoretical and Empirical Analysis, with Special Reference to Education, (National Bureau
of Economic Research, 1964, 2nd ed., 1975, 3rd ed., 1993); Economic Theory, (Alfred A. Knopf, 1971, new ed.,
2007; The Economic Approach to Human Behavior, (University of Chicago Press, 1976; A Treatise on the
Family, (Harvard University Press, 1981, Enl. ed., 1991; An Economic Analysis of the Family, (Economic and
Social Research Institute, 1986; Economic Growth, Inequality and Population Growth: the Family and the State,
(Institute of Economics, Academia Sinica, 1987; v.v
14

World Economic Forum (WEF)
7
, v.v., đã cung cấp nhiều khung lý thuyết và bài học
kinh nghiệm về xây dựng và phát huy nguồn lực con người, về nguồn lực khoa học
công nghệ, về xây dựng kinh tế tri thức trong phát triển quốc gia. Đây thực sự là
những cơ sở khoa học quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề xây dựng và phát huy
nguồn lực trí tuệ Việt Nam.
Ở các nước Đông Âu, trong đó có nước Nga, khái niệm nguồn lực trí tuệ,
thường được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, ở các nước phương Tây, khái niệm
nguồn lực trí tuệ (intellectual resources) này được coi là đồng nghĩa với khái niệm vốn
trí tuệ (intellectual capital). Khái niệm vốn trí tuệ thường sử dụng rộng rãi trong nhiều
công trình nghiên cứu và sách báo ở các nước phương Tây, nhất là kể từ cuối thế kỷ
XX đầu thế kỷ XXI. Ở đây có thể kể đến tên tuổi của các nhà nghiên c
ứu về bản chất,

cấu trúc, vai trò của nguồn lực trí tuệ hay vốn trí tuệ như C. J. Dahlman, J. Aubert; P.
Drucker; L. Edvinsson; M. S. Malone; Guthrie and R. Petty, A. Brooking, David
Skyrme D; J.Roos; G. Roos; A. Stewart Thomas; Paolo Magrassi; Сергеев А. Л.;,
David A. Klein; Guthrie and R. Petty; B. Marr; D. Gray, A. Neely, Jan Mouritsen, Per
Nikolaj Bukh, Mette Rosenkrands Johansen & Heine T. Larsen, R. Hall; W.J.Hudson;
G.Roos; J. Roos; K.E. Sveiby
8
, v.v. Các công trình này bước đầu mang đến cho độc
giả các nước một bức tranh khái quát về bản chất, vị thế của nguồn lực trí tuệ trong bối
cảnh của xu hướng phát triển kinh tế tri thức.
Nhìn chung, đa số các công trình này nói trên chủ yếu xem xét nguồn lực trí tuệ
dưới góc độ kinh tế, đặc biệt liên quan nguồn lực trí tuệ của một doanh nghiệp, chứ
chưa đi sâu nghiên cứu nguồn lự
c trí tuệ và những vấn đề về xây dựng và phát huy
nguồn lực trí tuệ của quốc gia.
3.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về đề tài trí tuệ, nguồn lực
trí tuệ nói chung và nguồn lực trí tuệ Việt Nam nói riêng trong bối cảnh hội nhập hiện
nay vẫn ở tình trạng rất khiêm tốn. Đây là lĩnh vực đề tài còn chưa được nghiên cứu
một cách thấu đáo, đặc biệt dưới giác độ nghiên cứu tổng hợp có tính liên ngành.


7
Chẳng hạn như công trình: Của cải của quốc gia đang ở đâu? Đo lường nguồn của cải Thế kỷ 21 (Nxb. CTQG,
H., 2009), Nhìn Lại sự Thần Kỳ Của Các Nước Đông Á (Joseph E. Stiglitz. Shahid Yusuf, Nxb. Từ điển Bách
Khoa, H., 2009, v.v
8
Xem: các tư liệu đã dẫn.
15


Tuy nhiên, liên quan gián tiếp đến đề tài này cũng đã có khá nhiều công trình
được công bố ở trong nước. Có thể tạm chia những công trình đó thành các nhóm sau
đây:
Nhóm thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu về bản chất của trí tuệ nói
chung và trí tuệ người Việt Nam nói riêng, chủ yếu tiếp cận dưới góc độ nhân học và
tâm lý học
9
. Đây là loại công trình có liên quan đến vấn đề con người và nguồn nhân
lực nói chung, trong đó có nguồn lực trí tuệ ở Việt Nam. Một vài công trình đã phân
tích những đặc trưng về thể chất, những vấn đề liên quan đến đặc điểm, cấu trúc, cơ
chế y - sinh học của người Việt Nam. Nhóm công trình này cũng gián tiếp góp phần
chỉ ra đặc tính tâm lý học của trí tuệ của người Việt Nam, nhất là quá trình di
ễn biến
của tâm lý người Việt Nam trong các môi trường sống trong từng lứa tuổi khác nhau.
Đây là những nghiên cứu có giá tham khảo ở mức độ nhất định đối với đề tài. Trong
nhóm này, đáng chú ý là công trình của Bùi Thị Ngọc Lan: “Nguồn lực trí tuệ trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam” (Nxb. Chính trị Quốc gia, 2002). Đây là một trong những
công trình đi tiên phong vào lĩnh vực nghiên cứu nguồn lực trí tuệ Việ
t Nam, tuy nhiên,
công trình còn khá sơ lược, nhiều quan điểm mà công trình đề xuất cần được tranh
luận, trao đổi, nhất là khi đứng từ góc tiếp cận liên ngành.
Nhóm thứ hai là những nghiên cứu về kinh tế học phát triển, về lý thuyết, mô
hình và kinh nghiệm tăng trưởng, phát triển của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
khu vực Đông Á, ASEAN, và Việt Nam
10
. Các công trình thuộc nhóm này đã cung cấp
khung khổ lý thuyết, bài học kinh nghiệm thực tế và những gợi mở chính sách về xây
dựng và phát huy nguồn lực con người, trong đó có những vấn đề về nguồn lực trí tuệ.



9
Thuộc loại này phải kể đến chương trình nghiên cứu cấp nhà nước KX - 07: “Con người, mục tiêu và động lực
phát triển kinh tế - xã hội” do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, mà kết quả nghiên cứu được công bố trong kỷ
yếu Hội thảo khoa học Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới tại Hà Nội vào năm 1994; Chương trình
KHCN cấp Nhà nước KHXH 04 - 04: Chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam trong giai
đoạn CNH,
HĐH đất nước cũng do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm; cuốn Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực (Hà Nội,
2001) và cuốn Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007) đều do Phạm Minh Hạc làm chủ biên. Thuộc loại này, cũng
không thể bỏ qua được cuốn Kỷ yếu Hội th
ảo Quốc tế "Nghiên cứu và phát triển văn hóa, con người, nguồn
nhân lực đầu thế kỷ XXI" thuộc chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà nước KX - 05, được tổ chức vào
tháng 11 năm 2003 trong đó có báo cáo tham luận của Nguyễn Quang Uẩn về phát triển con người, phát triển
nguồn nhân lực và giáo dục; cuốn Bàn về đặc điểm tăng trưởng người Việt Nam do Lê Nam Trà làm chủ biên
(Hà Nộ
i, 1997), v.v Bên cạnh đó, có thể kể đến cuốn sách dịch đang thịnh hành hiện nay ở Việt Nam Phương
Pháp 3. Tri thức về Tri thức - Nhân Học về Tri thức của Edgar Morin (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006),
trong đó tác giả chủ trương "tổ chức lại tri thức luận", xây dựng lại tri thức luận phức hợp, tránh quan niệm cắt
xén, đơn giản, một chiều mối quan hệ giữ
a triết học với khoa học.
10
Chẳng hạn như công trình của Trần Văn Tùng (chủ biên): Chất lượng tăng trưởng nhìn từ Đông Á (Nxb. Thế
giới, H, 2003); Trần Thị Nhung: Tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới 2
đến nay (Nxb. Khoa học xã hội, H., 2002), v.v
16

Nhóm thứ ba, bao gồm một số nghiên cứu về tài năng, nhân tài, đào tạo, phát
triển nhân tài ở Việt Nam
11
. Tiếp cận chủ yếu dưới góc độ giáo dục học, tâm lý học và

sử học đối với vấn đề nhân tài, nhóm các nghiên cứu này đã góp phần không nhỏ vào
việc chỉ ra những bài học kinh nghiệm của lịch sử Việt Nam trong việc xây dựng, sử
dụng và phát triển nguồn nhân lực tài năng được xem là nguyên khí quốc gia ở Việt
Nam.
Nhóm thứ tư bao gồm nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, v
ề phong tục,
truyền thống Việt Nam, có liên quan ít nhiều đến đặc tính, vai trò và đóng góp của trí
tuệ Việt Nam trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc
12
. Trong nhóm này
có khá nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề phương thức tư duy, trí tuệ, nhân
cách và tài năng của người Việt Nam dưới góc độ văn hoá học, góp phần làm rõ những
chiều cạnh của văn minh trí tuệ, tinh thần Việt Nam trên cả bình diện cá nhân và cộng
đồng. Gần đây, trên báo Tiền phong và một số diễn đàn đã xuất hiện những cuộc thảo
luận về “thói hư, tậ
t xấu của người Việt Nam”, trong đó có nhiều ý kiến tiếp cận các
nhược điểm trong lối tư duy, cách ứng xử và bộc lộ tài năng của người Việt Nam.
Nhóm thứ năm là những nghiên cứu thuộc dạng “tủ sách danh nhân” chuyên
khảo cứu về dựng chân dung, sự nghiệp, nhân cách, tài năng của nhiều cá nhân xuất
chúng là người Việt Nam
13
.

Loại công trình này ít nhiều khảo sát về trí tuệ của những
nhân vật, vì thế có giá trị tham khảo quan trọng đối với đề tài, đặc biệt là trong việc
nhìn nhận, đánh giá về những năng lực vượt trội và những đóng góp đã được thừa


11
Thuộc nhóm công trình này, phải kể đến cuốn của Nguyễn Trọng Bảo, Nguyễn Huy Tú, Phát hiện, tuyển chọn,

bồi dưỡng tài năng. Kết quả của đề tài Nhà nước KX - 07 - 08/1992 - 1994; cuốn Phương sách dùng người của
ông cha ta trong lịch sử (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994) do Phan Hữu Dật làm chủ biên; cuốn Trí thức
với Đảng, Đảng với tri thức trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước
(Nguyễn Văn Khánh chủ biên,
Nxb. Thông Tấn, Hà Nội, 2004); cuốn Kỷ yếu Hội thảo quốc gia Bồi dưỡng nhân tài phục vụ CNH - HĐH đất
nước do Bộ Giáo dục và đào tạo ấn hành tháng 8/2000; cuốn Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước của
Nguyễn Đắc Hưng (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội); cuốn Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài của Nghiêm
Đình Vỳ, Nguyễn Đắ
c Hưng (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002) ; cuốn Khảo lược về kinh nghiệm phát
hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam do Phạm Hồng Tung làm chủ biên (Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2005), v.v
12
Thuộc nhóm này, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như cuốn Tuổi trẻ nhân tài và tài năng quân sự của
Nguyễn Trọng Bảo (Nxb. Quân đội nhân dân, 1993); cuốn Tính cộng đồng, tính cá nhân và cái tôi của thanh
niên Việt Nam của Đỗ Long và Phan Thị Mai Hương (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002); cuốn Việt Nam văn
hoá sử cương của Đào Duy Anh (Nxb. Bốn Phương, Hà Nội, 1995); cuốn Văn hóa và con người của Nguyễn
Trần Bạ
t (Nxb. Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội, 2005), v.v
13
Thuộc nhóm các công trình này, phải kể đến cuốn của Trương Bá Cần Nguyễn Trường Tộ - Con người và Di
thảo (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1988); cuốn của Đinh Thị Minh Hằng: Lê Quý Đôn trên tiến trình ý thức
văn học dân tộc (Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996); cuốn Nguyễn Công Trứ: Về tác gia và tác phẩm do Trần
Nho Thìn giới thiệu và tuyển chọn (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003); cuốn Những người đi qua hai thế
kỷ do Đinh
Xuân Lâm chủ biên (Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2001); cuốn Lịch sử và văn hoá Việt Nam - Những gương mặt trí
thức do Nguyễn Quang Ân chủ biên (Nxb. Văn hoá Thông Tin, 1998), v.v
17

nhận của các cá nhân xuất chúng, trong việc phân tích, đánh giá về tiềm năng, đặc
điểm của nguồn lực trí tuệ Việt Nam đã được phát huy trong những lĩnh vực cụ thể.

Nhóm thứ sáu là các công trình nghiên cứu về chiến lược, chính sách và thực
trạng phát triển khoa học công nghệ và giáo dục Việt Nam
14
. Đây là nhóm công trình
nghiên cứu đề cập khá nhiều vấn đề liên quan đến xây dựng và phát huy nguồn lực trí
tuệ Việt Nam.
Ngoài ra, không thể không kể đến các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp quy
của Nhà nước về văn hóa, trí thức, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đặc biệt
là trong thời kỳ Đổi mới; các tác phẩm của Hồ Chí Minh và một số đồng chí lãnh đạo
Đảng và nhà nước như
Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
v.v Đây là nguồn cung cấp các cơ sở tư tưởng, cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý cho việc
triển khai nghiên cứu về nguồn lực trí tuệ Việt Nam.
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước cho thấy, đề tài
“Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất
nước trong thế kỷ XXI” là một đề
tài mới. Những công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài là phong phú và có giá trị khoa học to lớn, là cơ sở quan trọng đảm bảo
tính khả thi của đề tài.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng, đề xuất giải pháp và kiến nghị về xây dựng và phát huy
nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI.
4.2. Nhi
ệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, Đề tài xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
chủ yếu sau đây:
- Phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến khái niệm trí tuệ, nguồn lực trí tuệ,
phát huy nguồn lực trí tuệ: Các vấn đề lý luận về trí tuệ, nguồn lực trí tuệ, phát huy



14
Thuộc loại công trình này, không thể không nhắc đến cuốn Nhân tài trong chiến lược phát triển quốc gia của
Nguyễn Đức Hưng, Phan Xuân Dũng (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004); cuốn Chiến lược phát triển giáo
dục trong thế kỷ XXI - kinh nghiệm của các quốc gia của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002); cuốn Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001. Đổi mới và sự nghiệp phát triển
con ngườ
i của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001);
cuốn Những quan điểm của các nhà kinh điển mácxít về tầng lớp trí thức và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta đối với đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (Hà Nội, 2000), Trí thức Khoa học xã hội và nhân văn trong sự nghiệ
p CNH, HĐH đất nước (Luận án
Tiến sĩ triết học của Ngô Thị Phượng, Hà Nội, 2006); gần đây còn phải kể đến đề tài “Xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” (Mã số: KX.04.16/06 - 10) do Đàm Đức Vượng chủ trì; v.v
18

nguồn lực trí tuệ trong lịch sử phương Đông và phương Tây; Làm rõ các vấn đề lý
luận liên quan đến khái niệm trí tuệ, nguồn lực trí tuệ; Làm rõ khái niệm công cụ của
đề tài như trí tuệ, nguồn lực trí tuệ, chấn hưng đất nước, giải pháp xây dựng và phát
huy nguồn lực trí tuệ, chủ thể tham gia xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ.
- Nghiên cứu nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong lịch sử và
đặc điểm cơ bản của
nguồn lực trí tuệ Việt Nam; Tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và phát huy nguồn lực trí
tuệ Việt Nam trong lịch sử cũng như của một số nước ở Đông Á, Đông Nam Á.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng, tiềm năng nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong một
số lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là củ
a khoa học và nghệ thuật.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát huy nguồn
lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong những năm đầu thế
kỷ XXI.

5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Mặc dù đề tài
KX.03.22/06-10 là đề tài cấp nhà nước, song trong khuôn khổ của mộ
t đề tài nghiên
cứu, với giới hạn về kinh phí và thời gian, để đảm bảo tính khả thi của đề tài, chúng tôi
giới hạn phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau
15
:
Thứ nhất, trí tuệ, điều kiện hình thành và phát triển trí tuệ, môi trường phát huy
trí tuệ bao gồm hai mặt cơ bản là tự nhiên và xã hội. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
giới hạn tập trung tìm hiểu những biểu hiện về mặt xã hội của trí tuệ. Việc đo lường
chỉ số trí tuệ của người Việt Nam mặc dù sẽ đem lại những thông tin tham khảo có ích
cho đề tài, song hi
ện nay, thang đo chỉ số trí tuệ của người Việt chưa được xây dựng
riêng, việc đo lường trí tuệ vẫn chỉ dừng ở việc áp dụng những thang đo của Phương
Tây đối với cá nhân hoặc một vài nhóm nhỏ. Do nội dung nghiên cứu của đề tài quá
nhiều, hơn nữa cần nhấn mạnh về những biểu hiện xã hội của trí tuệ vì điểm c
ốt lõi
trong nghiên cứu này cần tập trung là làm thế nào để xây dựng và phát huy nguồn lực
trí tuệ Việt Nam, nên trong nghiên cứu này chúng tôi không đi vào biểu hiện tự nhiên
của trí tuệ, đo lường trí tuệ cá nhân mà trên cơ sở kế thừa những thành quả của các
nghiên cứu có trước trong và ngoài nước và lựa chọn đề cập đến trong chừng mực
phục vụ cho nghiên cứu về mặt xã hội của trí tuệ.


15
Ở đây chúng tôi chỉ nêu khái quát phạm vi nghiên cứu, lý do xác định phạm vi nghiên cứu như trên sẽ được
trình bày cụ thể ở những mục có liên quan trong báo cáo này.
19


Thứ hai, nói đến “nguồn lực trí tuệ Việt Nam” chủ yếu là nói đến nguồn lực trí
tuệ của “người Việt Nam”. Khái niệm “người Việt Nam” phản ánh một chỉnh thể với
cấu trúc phức tạp và biến đổi qua thời gian. Chính vì thế, bên cạnh việc nghiên cứu
tổng quát diễn tiến, đặc điểm chung của nguồn lực trí tuệ của cộng đồng người Việ
t
Nam, chúng tôi đi sâu nghiên cứu một số bộ phận đặc thù của nguồn lực trí tuệ Việt
Nam, đó là sinh viên, phụ nữ, trí thức trong nước, trí thức Việt kiều. Ngoài ra, chúng
tôi cũng đề cập đến nguồn lực trí tuệ của dân tộc thiểu số - một đối tượng chưa được
nghiên cứu nhiều ở Việt Nam.
Thứ ba, “sự nghiệp chấn hưng đất nước trong th
ế kỷ XXI” là một quá trình phát
triển đất nước trong một khoảng thời gian dài, với nhiều chặng đường và mục tiêu phát
triển khác nhau, trong bối cảnh khu vực và thế giới biến chuyển mạnh mẽ và khó
lường. Do vậy, trong nghiên cứu này, những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển
nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI
mà chúng tôi đề xuất tuy mang tính dài h
ạn, song tập trung chủ yếu vào giai đoạn từ
nay đến năm 2020.
Thứ tư, các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu cũng được lựa chọn sử dụng
cho phần điều tra khảo sát thực trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội cũng được giới hạn để phù hợp với đối tượng, không gian, thời
gian nghiên cứu
đã được giới hạn như trên, cụ thể, chúng tôi tiến hành khảo sát 2
nhóm khách thể nghiên cứu như sau:
- Nhóm 1: đội ngũ cán bộ - những người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên
hiện đang công tác trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội bao gồm: khoa
học, giáo dục, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, trong đó tập trung
chính vào 2 lĩnh vực là khoa học và nghệ thuật. Nhóm khách thể khả
o sát này là cơ sở
để đánh giá thực trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam.

- Nhóm 2: đội ngũ sinh viên của các khối ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội và nhân văn, quân sự, ngoại giao, kinh tế, nghệ thuật, trong đó tập trung vào 2 lĩnh
vực là khoa học và nghệ thuật. Nhóm khách thể khảo sát này là cơ sở để đánh giá tiềm
năng nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Bởi lẽ tiềm năng ngu
ồn lực trí tuệ là những nguồn
lực trí tuệ còn ẩn giấu, chưa bộc lộ, là một nguồn lực cụ thể, có thể hiện thực hóa. Tìm
hiểu về tiềm năng nguồn lực trí tuệ Việt Nam tức là tìm hiểu về đội ngũ trí thức tương
lai trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hay nói cách khác đó chính là đội ngũ sinh
20

viên - những người đang trong quá trình học hỏi, tích lũy tri thức, kinh nghiệm và
chính là đôi ngũ cán bộ kế cận trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghiên cứu về
nguồn lực trí tuệ của đội ngũ sinh viên sẽ góp phần giúp chúng ta hình dung được về
xu hướng phát triển của nguồn lực trí tuệ trong tương lai.
Để có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu của đề tài hơn nữa, c
ần có sự đầu tư
thêm về kinh phí, thời gian.
6. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp luận
Đề tài được triển khai trên cơ sở phương pháp luận triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin với các quan điểm phương pháp luận cơ
bản là quan điểm khách quan, quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm
lịch sử - cụ thể.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, Đề
tài sử dụng tổng hợp phương pháp
nghiên cứu của các khoa học xã hội và nhân văn, đồng thời, sử dụng phương pháp
nghiên cứu của một số chuyên ngành phù hợp với yêu cầu của các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể:
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu của triết học

Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp thường được sử dụng trong nghiên cứu
triết học như khái quát hoá, trừ
u tượng hoá, hệ thống hoá, phân tích, tổng hợp, diễn
dịch, quy nạp, kết hợp lịch sử - lôgic, so sánh - đối chiếu, phân tích văn bản học, v.v.,
khi nghiên cứu vấn đề trí tuệ, nguồn lực trí tuệ lịch sử tư tưởng phương Đông và
phương Tây, xây dựng các khái niệm công cụ phục vụ nghiên cứu của đề tài.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu của sử học
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Ph
ương pháp lịch sử - cụ thể sẽ được sử dụng đậm nét khi tìm tòi tư liệu,
nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong lịch
sử (ở các triều đại phong kiến, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong
20 năm đổi mới, v.v ).
- Phương pháp so sánh - đối chiếu sẽ được dùng trong quá trình khảo sát kinh
nghiệm một số nước trong việc xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ; phân tích,
21

nhận diện trí tuệ Việt Nam trong mối quan hệ với trí tuệ một số nước của khu vực và
châu Á.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành sẽ được áp dụng trong quá trình phân tích
các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam hiện nay.
6.2.3. Phương pháp nghiên cứu của xã hội học
Các phương pháp nghiên cứu của xã hội học như phỏng vấn b
ằng bảng hỏi,
phỏng vấn sâu, phỏng vấn bán cấu trúc, phân tích tài liệu được sử dụng nhằm đánh giá
thực trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam hiện nay, cụ thể như sau:
Phương pháp phỏng vấn sâu: chúng tôi đã thực hiện 9 cuộc phỏng vấn sâu với
cán bộ quản lý của các sở, ban, ngành, cán bộ công tác trong lĩnh vực nghệ thuật và du
học sinh ở nước ngoài.

Phương pháp ph
ỏng vấn bán cấu trúc: chúng tôi thực hiện 39 cuộc phỏng vấn
với các cán bộ và 28 sinh viên thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: do phạm vi của đề tài nghiên cứu rộng,
nên chúng tôi đã xây dựng 3 bộ bảng hỏi độc lập dành cho 3 nhóm đối tượng khác
nhau, đáp ứng yêu cầu đề tài đặt ra đó là: 1, Nhóm cán bộ nói chung (bao gồm những
người hi
ện đang công tác trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, kinh tế - kinh doanh,
ngoại giao, quân sự); 2, Nhóm cán bộ nghệ thuật (do đây là lĩnh vực đặc thù, nên có
riêng bảng hỏi cho những người công tác trong lĩnh vực nghệ thuật); 3, Nhóm sinh
viên thuộc các khối ngành tương tự như nhóm cán bộ.
Quá trình tổ chức điều tra, khảo sát được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 8/2009.
Địa bàn khảo sát theo yêu cầu của đề tài: Hà Nội (900 phiếu), thành phố Hồ
Chí
Minh (600 phiếu), Đà Nẵng (300 phiếu), Bình Dương (200 phiếu). Cơ cấu mẫu khảo
sát thực tế thu được như sau:
Bảng 1: Cơ cấu mẫu khảo sát phân theo lĩnh vực chuyên môn
Nhóm cán bộ
Nhóm sinh viên
Khoa học tự nhiên, kỹ thuật 316 234
KHXH & NV 328 287
Kinh tế, kinh doanh 187 189
Ngoại giao 77 68
Nghệ thuật 248 154
Quân sự 34
1156 966
22

Phương pháp phân tích tài liệu: Những phương pháp điều tra xã hội học cũng
có những hạn chế nhất định về mặt thông tin. để khắc phục những hạn chế đó, chúng

tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp. Phương pháp này cho phép chúng
tôi tiếp cận với những nguồn số liệu về nguồn nhân lực trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Do vậy, để đánh giá thự
c trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam hiện nay, chúng tôi kết hợp
sử dụng các số liệu thống kê chính thức và số liệu điều tra, khảo sát của đề tài.
7. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đề tài KX.03.22/06 - 10 được triển khai trong 02 năm (2009 - 2010). Về mặt
khảo sát: đề tài đã tiến hành một cuộc khảo sát kinh nghiệm nước ngoài và điều tra
khảo sát trong nước trên địa bàn 04 tỉnh/thành phố là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đà Nẵng. Về mặt tư liệu, đề tài đã tập hợp và nghiên cứu một số lượng
lớn các tài liệu, tư liệu dưới nhiều hình thức, nhiều nguồ
n thông tin có uy tín trong và
ngoài nước. Về mặt lực lượng, đề tài đã huy động được sự tham gia đông đảo của gần
100 nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị - xã hội ở cấp Trung ương và địa phương, ở
trong và ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội, trong và ngoài nước, ở nhiều lĩnh vực nghiên
cứu khác nhau từ khoa học xã hội và nhân văn đến khoa học tự nhiên, ở các lĩnh vực
hoạt động từ
chính trị, đến kinh tế, văn hóa, xã hội.
Các sản phẩm nghiên cứu của Đề tài rất phong phú, bao gồm:
- Bộ số liệu điều tra xã hội học (định lượng gồm 2122 phiếu đã qua xử lý, 1 bộ
biên bản phỏng vấn sâu, phỏng vấn bán cấu trúc).
- 03 kỷ yếu Hội thảo khoa học của 3 Hội thảo khoa học cấp quốc gia.
- 70 chuyên đề khoa học và 04 báo cáo tổng hợp kế
t quả nghiên cứu của các
nhánh.
- 05 bài nghiên cứu đã công bố trên tạp chí chuyên ngành, 01 sách chuyên khảo
đã xuất bản, 01 bản dịch tài liệu tiếng nước ngoài, 01 bản thảo công trình nghiên cứu
100 gương mặt trí tuệ Việt Nam trong thế kỷ XX.
- 5 học viên cao học và 1 nghiên cứu sinh đã và đang triển khai nghiên cứu
những vấn đề mà Đề tài đã vạch ra.

Về nội dung khoa học: Thông qua toàn bộ những hoạt động và sản phẩ
m khoa
học nói trên, Đề tài KX.03.22/06 - 10 đã có những đóng góp như sau
16
:


16
Chúng tôi nhấn mạnh các chữ: “thông qua toàn bộ những hoạt động và sản phẩm khoa học”, bởi Báo cáo tổng
hợp này, dù những người chấp bút đã rất cố gắng, song vẫn không thể bao quát và thể hiện được toàn bộ những
kết quả nghiên cứu vốn rất phong phú và mang đậm dấu ấn của nhiều chuyên ngành khác nhau.

×