Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận môn kinh tế công cộng Bệnh viện hoạt động vì lợi nhuận – Bệnh nhân bị lạm dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.07 KB, 13 trang )

1
Bệnh viện hoạt động vì lợi nhuận – Bệnh nhân bị lạm dụng
I. Mở đầu:
Dịch vụ y tế là một loại hàng hóa đặc biệt không tuân theo quy luật
kinh tế thị trường nhưng các bệnh viện được giao tự chủ và vận hành theo cơ
chế thị trường (theo nghị định 10-CP (2002) và 43-CP (2006))
Tỷ lệ bệnh viện được giao tự chủ tài chính theo NĐ 43
Tổ chức và quản lý hệ thống y tế 2005 2006 2007 Nguồn thông tin
Tỷ lệ các cơ sở y tế công được giao tự chủ
theo NĐ 43 và 10 (%)
46.2 - 88.0 Vụ Kế hoạch – Tài
chính - Bộ Y Tế
Tỷ lệ các cơ sở y tế công tuyến trung ương
được giao tự chủ theo NĐ 43 và 10 (%)
41.4 - 100.0 Vụ Kế hoạch – Tài
chính - Bộ Y Tế
Tỷ lệ các cơ sở y tế công tuyến địa phương
được giao tự chủ theo NĐ 43 và 10 (%)
46.4 - 87.5 Vụ Kế hoạch – Tài
chính - Bộ Y Tế
Nguồn: Báo cáo chung tổng quan ngành y tế 2008 - Bộ Y tế Việt Nam
=> Việc triển khai những nghị định này đã bộc lộ những bất cập trong triển khai tự chủ bệnh
viện.
II. Hậu quả:
1. Chi phí của khám chữa bệnh vì lợi nhuận cao hơn của khám chữa bệnh ở BV, cơ sở hoạt
động phi lợi nhuận:
• Mỹ - Quốc gia có giường bệnh tư nhân vì lợi nhuận cao
o 2004: chi phí điều trị của 350.000 bệnh nhân năm 2004 ở 324 bệnh viên tại
Mỹ cho thấy chi phí điều trị tại các cơ sở y tế tư nhân vì lợi nhuận cao hơn
19% so với chi phí điều trị khu vực y tế không vì lợi nhuận.
o Chi phí bình quân một đợt điều trị nội trú là 8115 USD so với 6507 USD tại


bệnh viện công
o Số liệu thống kê y tế của tổ chức OECD cũng cho thấy các nước có tỷ lệ
giường bệnh tư nhân vì lợi nhuận cao hơn thì cũng có chi phí y tế bình quân
đầu người cao hơn. Tổng chi phí y tế bình quân đầu người tại Mỹ năm 2006 là
6714 USD tính theo sức mua tương đương (PPP), lớn gấp đôi chi phí y tế bình
quân đầu người của đa số các nước thuộc tổ chức OECD còn lại.
• Việt Nam – chi phí y tế tăng cao:
Chi từ tiền túi cho dịch vụ y tế mỗi lần thăm khám đã tăng 20%, từ 189.100 đồng năm 2004
lên 227.000 đồng năm 2008 đối với các dịch vụ ngoại trú, và 16% từ 1.909.000 đồng năm
2004 lên 2.218.000 đồng năm 2008 đối với các dịch vụ nội trú (theo thời giá tháng 1 năm
2008). Chi tiêu cho các dịch vụ ngoại trú cũng tăng với tất cả các nhóm dân cư và các vùng,
2
ngoại trừ vùng Bắc Trung Bộ và Đông Bắc. Chi tiêu cho dịch vụ khám chữa bệnh nội trú
cũng tăng đối với tất cả các nhóm dân cư và các vùng giai đoạn 2004-2008, trừ bằng sông
Cửu Long và miền Nam Trung Bộ. (Theo UNDP – Báo cáo QUốc gia về Phát triển con
người năm 2011 + Bảng 5.3)
Một nghiên cứu đánh giá việc thực hiện tự chủ bệnh viện theo Nghị định 43 cho biết có
nguy cơ lạm dụng, tăng chỉ định sử dụng các xét nghiệm kỹ thuật cao tại một số bệnh viện
các tuyến; 20% bác sỹ được điều tra cho biết có nguy cơ lạm dụng xét nghiệm. Bệnh viện
tuyến TW có chi phí điều trị ngoại trú của bệnh nhân bảo hiểm y tế tăng từ 1,2-2,6 lần năm
2008 so với năm 2005; chi phí điều trị nội trú tăng 1,1-2,8 lần.
3
o Tình trạng lạm dụng xét nghiệm:
 Ít khi các bệnh viện tuyến trên chấp nhận kết quả xét nghiệm, chẩn
đoán hình ảnh của nhau và của tuyến dưới. Họ thường buộc bệnh nhân
phải làm lại toàn bộ các giấy tờ xét nghiệm, chụp phim khi chuyển
viện hoặc khi vượt tuyến lên tuyến trên khám. Thậm chí, họ cho rằng cả
kết quả xét nghiệm… nhóm máu cũng không thể tin được.
=> Lợi nhuận mà các BV thu được từ chụp X-quang khoảng 20%, từ các dịch vụ xét nghiệm
sinh hóa có thể lên tới 40% do giá của các test, hóa chất xét nghiệm thường mua loại rẻ tiền

(chủ yếu từ các tuyến huyện trở xuống). Cũng chính vì lợi nhuận mà một số BV không quan
tâm nhiều đến độ chính xác của các kết quả xét nghiệm, chiếu chụp. Việc không thừa nhận
kết quả xét nghiệm, chiếu chụp của các BV khác chính là “chiêu” kiếm tiền “hợp pháp” của
các BV.
 Tiêu biểu: “nhân bản” kết quả xét nghiệm ở BV Hoài Đức (Hà Tấy) – 2013
(2 ngày 7-8/8/2013, chương trình Thời sự của Đài Truyền hình Việt Nam
và báo Tuổi trẻ đưa tin về việc "nhân bản" xét nghiệm ở Bệnh viện đa khoa
Hoài Đức, Hà Nội, gây bức xúc trong dư luận xã hội). Trước đó, tại BV Đa
khoa Hoài Đức, chỉ trong thời gian ngắn (từ tháng 7-2012 đến tháng 5-
2013) khoa xét nghiệm Bệnh viện Hoài Đức đã cấp phát 2.237 phiếu xét
nghiệm cho bệnh nhân, trong đó có 1.149 phiếu xét nghiệm huyết học
trùng nhau. (nhân bản là làm sai, lạm dụng quá mức nhưng bản thân lạm
dụng chỉ là 1 hình thức lách luật để tăng thêm chi phí - thừa, lãng phí chứ
không phải hoàn toàn sai)
 Sau “nhân bản” KQ xét nghiệm, BHXH đã kiểm tra và phát hiện tại nhiều
địa phương chi phí xét nghiệm đang có xu hướng tăng (có nơi tổng chi phí
xét nghiệm trước đó là 20-25%, nay tăng lên 30-40%). Cơ quan BHXH
cũng phát hiện và xử lý tình trạng xét nghiệm khống ở một số bệnh viện.
Ví dụ như để làm được 1.000 xét nghiệm cần phải sử dụng 500 gram hóa
chất A, nhưng khi kiểm tra, phát hiện BV chỉ nhập 500 gram, nhưng số xét
nghiệm đề nghị thanh toán lên đến 1.500 xét nghiệm.
 Trong một cuộc thanh tra của BHXH Việt Nam tại Phú Thọ về tình hình sử
dụng Quỹ KCB BHYT, một số hồ sơ bệnh án KCB BHYT nội trú được
chọn ngẫu nhiên tại BVĐK huyện Đoan Hùng đã cho thấy có những chỉ
định rất "trái khoáy". Như trường hợp bệnh nhân Nguyễn Tiến Dũng (49
4
tuổi) với chẩn đoán "nhiễm trùng ngón tay phải", đã được bác sĩ chỉ định:
Siêu âm 4D ổ bụng, chụp Xquang có gắn computer thẳng, nghiêng. Trường
hợp khác, bệnh nhân Trần Thị Dung (32 tuổi) được chẩn đoán: "Viêm
họng/viêm phần phụ" được chỉ định các dịch vụ kỹ thuật: Siêu âm thai,

siêu âm ổ bụng, siêu âm tử cung phần phụ, chụp tim phổi, chụp cột sống
thắt lưng, nội soi mũi họng… Tương tự, tại BVĐK Cẩm Khê, có trường
hợp bệnh nhân viêm ruột thừa cấp được chỉ định vừa siêu âm 4D, vừa
Xquang CR…, những kỹ thuật có mức tiền BHYT thanh toán cao…
=> Quả là vấn đề lạm thu trầm trọng
o Lạm kê đơn thuốc: Song song với lạm thu xét nghiệm, lạm kê đơn thuốc cũng
là 1 trong những vấn đề đáng báo động:
 Năm 2011, số người tham gia BHYT là 55,9 triệu người, chi phí khám
chữa bệnh BHYT khoảng 24.000 tỷ đồng, trong đó riêng tiền thuốc ước
tính 15.000 tỷ đồng, chiếm 60% và tăng đến 28% so với 2010. Kết quả
khảo sát tại một số BV Trung ương và BV đầu ngành tại Hà Nội được
công bố cách đây chưa lâu cho thấy, có đến 55% số đơn thuốc kê 6-10
loại thuốc/bệnh án, hơn 10% kê 11-15 loại thuốc/bệnh án và 1,8% đơn
thuốc kê từ 16-20 loại thuốc, cá biệt có đơn kê trên 20 loại thuốc/bệnh
án.
 Theo báo cáo của Trung tâm Giám định BHYT và thanh toán đa tuyến
(BHXH Việt Nam) về sử dụng Quỹ KCB BHYT tại 22 BV trung ương
trên địa bàn Hà Nội năm 2012, với nhóm thuốc hội chẩn có dấu (*), có
bệnh viện chỉ định lên đến 40%, trong khi nhóm thuốc này theo quy
định chỉ được chỉ định khi thật sự cần thiết, không có thuốc thay thế.
Nhóm thuốc bổ trợ vẫn được chỉ định rộng rãi, chiếm trên 10% tổng chi
thuốc, có BV lên tới trên 16%, tương đương hàng tỷ đồng. Ngoài ra,
còn xuất hiện những chỉ định lựa chọn thuốc có giá thành cao, sử dụng
kháng sinh đắt tiền nhưng không có kiểm tra xét nghiệm kháng sinh đồ,
sử dụng nhiều loại kháng sinh phối hợp trên cùng một bệnh nhân trong
cùng một thời điểm…
 Lãnh đạo khoa Dược của 1 bệnh viện lớn ở Hà Nội cho hay, mỗi tháng,
bệnh viện của ông sử dụng 50 tỉ đồng tiền thuốc, nhưng bỏ phí đến 6-8
5
tỷ đồng do kê sai, không cần thiết. So với 2007, chi phí thuốc vitamin

trong năm 2008 tăng 68% trong khi số lượt khám bệnh chỉ tăng 29.6%.
Chi phí thuốc Vitamin ở bv tư chiểm 35% tổng tiền thuốc, con số này ở
bệnh viện công là 16% trong khi đây là thuốc bổ, không phải thuốc điều
trị.
 Tin tức do Báo Tiền phong đưa tin về BV Nhân dân 115 TP HCM vào
đầu 2015 đã cho thấy sự thật bi hài: chỉ trong một buổi khám cho 23
bệnh nhân, riêng bác sĩ Nguyễn Thanh Hải đã kê toa có kháng sinh cho
10 người. Trung bình cứ hơn 2 người vào khám thì một người được kê
toa có thuốc kháng sinh. Số tiền mà 10 người bệnh phải bỏ ra là hơn 4
triệu đồng cho một loại thuôc kháng sinh. Đơn cử trong 4 tiếng buổi
sáng ngày 18/9, chỉ riêng tại phòng khám của bác sĩ Hải khám cho 21
người thì có 6 người phải uống kháng sinh đắt tiền, với chi phí gần 2
triệu đồng.
2. Chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh không tương xứng với chi phí bỏ ra:
 Nước ngoài:
o Một nghiên cứu tổng quan (năm 2003) so sánh khả năng tiếp cận, chất lượng
dịch vụ và chi phí hiệu quả giữa khu vực y tế công, y tế tư nhân vì lợi nhuận và
y tế tư nhân phi lợi nhuận, được lấy từ 149 công trình nghiên cứu với số liệu từ
1983 - 2003. Trong số 149 công trình nghiên cứu, có 88 nghiên cứu kết luận
khu vực y tế phi lợi nhuận phục vụ tốt hơn; 43 nghiên cứu không tìm thấy sự
khác biệt. Chỉ có 18 nghiên cứu cho rằng các trung tâm y tế kinh doanh vì lợi
nhuận phục vụ tốt hơn.
o Một nghiên cứu theo dõi 500.000 bệnh nhân chạy thận nhân tạo chu kỳ trong 1
năm đã chỉ ra rằng bệnh nhân chạy thận nhân tạo ở các cơ sở y tế tư nhân kinh
doanh vì lợi nhuận có xác suất tử vong cao hơn khu vực phi lợi nhuận. Tỷ lệ tử
vong ở các trung tâm thận nhân tạo kinh doanh vì lợi nhuận lớn hơn 8% so với
các trung tâm thận nhân tạo hoạt động phi lợi nhuận. Nghiên cứu này khẳng
định mỗi năm tại các trung tâm thận nhân tạo kinh doanh vì lợi nhuận tại Mỹ
có 2.500 ca tử vong sớm hơn bình thường
o Anh: Một nghiên cứu đăng tải trên tạp chí New England Journal of Medicine

(2008) đưa ra bằng chứng về việc bệnh nhân ở y tế tư nhân vì lợi nhuận chịu
liều phóng xạ do chụp CT cao hơn so với khu vực y tế công.
6
 Việt Nam:
o Cuộc điều tra Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) của
Việt Nam năm 2010 tiến hành tại 30 tỉnh cũng yêu cầu người được hỏi nói về
trải nghiệm của họ đối với dịch vụ y tế và giáo dục. Khi được hỏi về chất
lượng của các bệnh viện công ở cấp huyện/xã, một điều rõ ràng là bệnh nhân
luôn dự kiến sẽ phải nằm chung giường, và chi phí y tế cũng như thời gian chờ
đợi không được coi là hợp lý.
o Tình trạng quá tải bệnh viện đang diễn ra tương đối trầm trọng ở tất cả các
tuyến bệnhviện. Trên toàn quốc, mặc dù công suất sử dụng giường bệnh có xu
hướng giảm nhẹ từ 122,3% (năm 2007) xuống 118,4% (năm 2008) và 111,6%
năm 2011 [16], nhưng công suất sử dụng giường bệnh chung ở tuyến trung
ương lại có xu hướng tăng: 116% năm 2009, 120% năm 2010 và 118% năm
2011, đặc biệt trầm trọng ở các bệnh viện trung ương, như Bệnh viện K:
172%; Bệnh viện Bạch Mai: 168%; Bệnh viện Chợ Rẫy: 139%; Bệnh viện Nhi
trung ương: 119%; Bệnh viện Bệnh nhiệt đới: 124%. Tình trạng quá tải ở các
bệnh viện tuyến tỉnh vẫn còn diễn ra, đặc biệt ở một số khoa sản, nhi.
Bảng số liệu công suất sử dụng giường bệnh theo tuyến (trang 61 - hệ thống y tế VN trước
giao đoạn 2011 2015 )
7
Những con số "ấn tượng" về tình trạng quá tải tại Bệnh viện Nhi Trung ương (Số liệu tháng
11/2009, trong đề tài Xây dựng công cụ giám sát, ghi nhận ý kiến của cha mẹ và người chăm
sóc trẻ ốm tại khoa Khám bệnh – BV Nhi TW của ThS YTCC Đỗ Mạnh Hùng):
- Tại khoa khám bệnh của bệnh viện Nhi Trung ương, hàng ngày có khoảng 1.500 đến 2.000
bệnh nhi đến khám bệnh, kèm theo khoảng 3.000 người nhà đi theo.
- Khảo sát 50 bậc cha mẹ đưa con đi khám tại bệnh viện Nhi TW thì có tới 46 người cho biết
họ rất mong muốn có được những thuận lợi về các dịch vụ trong bệnh viện, đặc biệt là việc
không phải chờ đợi lâu để lấy kết quả xét nghiệm, X-quang, siêu âm,

- Thời gian từ khi làm thủ tục đến khi được khám là 1h25 phút.
- Thời gian từ khi được chỉ định đến khi có được kết quả xét nghiệm là 4h15’.
Trong đó: Để được chỉ định xét nghiệm: mất 10 phút, từ lúc làm thủ tục xét nghiệm - đợi xét
nghiệm - được xét nghiệm: mất 55 phút, đợi kết quả xét nghiệm mất 2h30’ (lâu nhất), Có kết
quả rồi quay lại chờ gặp bác sỹ mất 40 phút.
III. Nguyên nhân:
- Tính đặc thù của ngành y tế:
 Hàng hoá không thẩm định được giá trị:
Do việc khám chữa bệnh mang tính đặc thù ngành nên người bệnh hoàn toàn phụ thuộc vào
bác sĩ. Việc mình bị bệnh gì hay uống thuốc như thế nào, xét nghiệm ra sao, những loại
thuốc gì và mua ở đâu đều do bác sĩ chỉ định, người bệnh chỉ biết tuân theo. Chính điều này
dẫn tới nếu y đức của bác sĩ bị mất, thiệt thòi sẽ thuộc về người bệnh.
 Trình độ chuyên môn của các y, bác sĩ ở các tuyến cơ sở, xã, huyện lại hạn chế trong
khi các bác sỹ ở tuyến lớn ít/ hầu như không có sự chia sẻ.
 Chi phí khám chữa bệnh, giá thuốc cũng có tính chất đặc thù (Cầu về thuốc là cầu
không co giãn):
Có thể thấy việc chữa bệnh cũng như các mặt hàng thuốc là những hàng hóa có độ co
giãn thấp và gần như không co giãn bởi:
+ Chúng đều là những hàng hóa ít có hàng hóa thay thế:
+ Tâm lý của người bệnh muốn mau khỏi bệnh nên có thế chấp nhận chữa bệnh, mua
thuốc dù giá cao
+ Người bệnh không có sự lựa chọn trong việc mua thuốc nào, hay giá nào thì phù
hợp.
8
 Nguồn cung hạn chế: tình trạng quá tải đã và đang xảy ra ở hầu khắp các bệnh viện
Việt Nam. Công suất sử dụng giường bệnh cao nhiều lần thực tế. Theo số liệu báo cáo
của Bộ Y tế đến ngày 31-12-2010, cả nước có 1.148 bệnh viện với 191.020 giường
bệnh (GB). Trong khi đó, số lượng bệnh nhân khám và điều trị ngoại trú mỗi năm là
hơn 120.000 lượt và hơn 10 triệu lượt người điều trị nội trú. Hơn 2 triệu lượt ca phẫu
thuật phức tạp.

 Bên cạnh cơ sở vật chất, nguồn lực hạn chế, thì nguồn cung ứng thuốc cũng hạn chế.
Có thể thấy rõ là các loại thuốc đặc trị như ung thư, tim mạch… không phải hiệu
thuốc nào cũng có, phân phối nhỏ giọt. Và những loại thuốc này thường là thuốc nhập
ngoại cho nên giá thuốc càng khó kiểm soát.
- Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của y bác sỹ: thu nhập từ % hoa hồng chia sẻ khi bán thuốc
lạm kê đơn thuốc (tiền thuốc chữa bệnh 1, tiền thuốc bổ gấp 40 lần)
- Sự quản lý lỏng lẻo cũng như quy định, quy chế chưa nghiêm túc dẫn đến giá thuốc biến
động liên tục, không thông nhất, hay quy định về bác sỹ không được bán thuốc dưới mọi
hình thức
IV. Biện pháp khắc phục: Giảm tính mất đối xứng trong thông tin
- Ngoài các biện pháp liên quan trực tiếp đến cán bộ y tế, cần phát triển hệ thống ở các khía
cạnh khác nữa để nâng cao chất lượng dịch vụ tại các cơ sở y tế công: Xây dựng và áp dụng
các tiêu chuẩn dịch vụ; Quản lý nguồn nhân lực; Đào tạo và đào tạo lại; hướng dẫn và giám
sát hỗ trợ; phát triển, sử dụng và giám sát quản lý, chương trình và hướng dẫn lâm sàng, đặc
biệt chú ý các hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý và tuân thủ phác đồ điều trị, kể cả kiểm tra
chuyên môn.
- Xây dựng một hành lang pháp lý đủ mạnh mẽ, đảm bảo quản lý hành nghề y tế tư nhân và
quản lý bán lẻ thuốc
- Giảm áp lực về tự cân đối tài chính của các bệnh viện công, tư và phát huy khả năng
phòng, chữa bệnh ngay tại tuyến cơ sơ.
- Chính phủ việt nam cần xây dựng chính sách dựa trên nền tảng truyền thống của khu vực y
tế công (Mạng lưới y tế cơ sở là xương sống của hệ thống y tế Việt Nam và dịch vụ y tế công
là cứu cánh cơ bản trong chăm sóc sức khỏe cho dân nghèo nông thôn) và tiếp tục phát triển
các dịch vụ y tế công để góp phần xóa đói giảm nghèo, phục vụ cho toàn dân nói chung và
cho người nghèo nói riêng, đặc biệt dân nghèo nông thôn. Nhà nước cần tăng cường vai trò
của mình đối với ngành y tế của dân với tư cách nhà cung cấp tài chính, cung cấp dịch vụ và
9
quản lý dịch vụ.
10
11

12
13
14

×