Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Sự vận động của thơ tình Việt Nam qua hai thế hệ nhà thơ nữ (từ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn tới Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.63 KB, 50 trang )

MỞ ĐÀU
1. Lí do chọn đề tài
Lựa chọn đề tài Sự vận động của thơ tình Việt Nam qua hai thế hệ nhà thơ
nữ (từ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn tới Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư)
cho Luận văn của mình, chúng tôi xuất phát từ những lí do sau:
Thứ nhất, thơ tình là mảng đề tài hấp dẫn đối với các nhà thơ ở mọi thời đại.
Bởi tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp và là nguồn đề tài bất tận của
thi ca. Hơn nữa, ở các nhà thơ nữ, với trái tim và tâm hồn nhạy cảm riêng mang đặc
trưng phái tính lại có cách cảm nhận và thế hiện tình yêu trong thơ rất đặc biệt.
Có thể nói, đề tài tình yêu ở thời kì nào cũng có, nó xuất hiện dưới nhiều cách
thức biếu hiện khác nhau và ở mức độ khác nhau. Từ xa xưa, đã có rất nhiều bài ca
dao, dân ca cất lên tiếng nói của tình yêu đôi lứa và điều này được tiếp nối trong
dòng văn học trung đại. Phải cho đến thế kỉ XX, thơ tình mới được phát triển một
cách thực sự sâu rộng với những tên tuổi như Tản Đà, Xuân Diệu, Nguyễn Bính,
Hàn Mặc Tử, Sau đó là hàng loạt các nhà thơ trẻ xuất hiện, trong đó chiếm số
lượng không nhỏ là các cây bút nữ như Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn,
Lâm Thị Mĩ Dạ, Anh Thơ, Vân Đài đã đem đến cho thơ ca nhiều tiếng nói trẻ
trung, sôi nối, đầy ắp những triết lý nhân sinh quan về con người, cuộc sống. Đặc
biệt, từ năm 1986, khi đất nước đã có nhiều đổi mới trên mọi bình diện thì đã ảnh
hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ thuật của các văn
nghệ sĩ nói chung và các nhà thơ nữ nói riêng. Ở mảng thơ tình, sự xuất hiện của
các nhà thơ nữ đương đại như Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, đã
nhanh chóng thu hút được sự chú ý của công chúng cũng như giới nghiên cứu, phê
bình bởi những tìm tòi táo bạo theo hướng hiện đại, đi sâu vào vấn đề bản thể con
người.
Như vậy, cùng với tiến trình lịch sử văn học dân tộc không ngừng tiếp diễn,
thơ ca nói chung và thơ tình nói riêng trong những thời kì khác nhau mang những
1
đặc điểm khác nhau. Xu hướng vận động của thơ tình (đặc biệt là thơ tình của các
tác giả nữ trong văn học Việt Nam hiện đại) cần được nhìn nhận và đánh giá một
cách khách quan, biện chứng trên cả hai bình diện: những mặt tiến bộ, đổi mới, phát


triển theo hướng tích cực và những phương diện hạn chế, thoái lui.
Thứ hai, trong nền thơ hiện đại Việt Nam, Xuân Quỳnh (1948-1988) là một
gương mặt tiêu biểu. Lại Nguyên Ân từng nói: “Có lẽ từ thời Hồ Xuân Hương qua
các chặng đường phát triến, phải đến Xuân Quỳnh nền thơ ấy mới thấy lại được một
nữ sĩ mà tài năng và sự đa dạng của tâm hồn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể
như vậy, dồi dào và phong phú như vậy”.
Khác với các nữ sĩ làm thơ, Xuân Quỳnh là người đàn bà đã mang chính cuộc
đời mình ra làm chất liệu cho từng tác phấm, cho mỗi tập thơ, cái mà chị viết nhiều
nhất chính là về cuộc đời mình và trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị.
Trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Xuân Quỳnh nôi bật lêrĩ là một
gương mặt tiêu biêu mãng bản săc riêng. Trải quâ những năm tháng sống và viết,
yêu thương và lao động nghệ thuật hết mình, chị đã để lại những vần thơ thể hiện
tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, đầy nữ tính. Thơ
chị dù viết trong khói lửa đạn bom hay trong hòa bình dựng xây thì vẫn thống nhất
trong một cách nhìn, cách cảm riêng. Lấy sự chân thực làm điểm tựa cho cảm xúc
sáng tạo, các sáng tác của Xuân Quỳnh chính là đời sống của chị, là những tâm
trạng thật của chị trong mỗi bước vui buồn của cuộc sống. Mảng thơ viết về đề tài
tình yêu, hạnh phúc của Xuân Quỳnh ngay từ khi ra đời đã thu hút dược sự chú ý
của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Mảng thơ này thế hiện khá rõ nét “tính cố
điển” của thơ Việt Nam thời kì trước Đối mới.
Viết về thơ tình trong thời kỳ này cũng phải kể đến nhà thơ nữ Phan Thị
Thanh Nhàn (1943). Chị làm thơ từ rất sớm, đầu những năm 60 đã có thơ đăng báo.
Ngay từ khi mới xuất hiện trên thi đàn, Phan Thị Thanh Nhàn đã để lại những dấu
ấn khó phai trong lòng độc giả bởi tiếng thơ trữ tình duyên dáng mà ý nhị, kín đáo.
2
Trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình, Phan Thị Thanh Nhàn đã thử
nghiệm ngòi bút ở nhiều thể loại, bài viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi,
làm thơ và viết tiểu luận, phê bình Ờ thể loại nào chị cũng đạt được những thành
công nhất định. Nhưng với riêng thơ, Phan Thị Thanh Nhàn đã thế hiện rõ nhất tài
năng và vốn sống của mình. Đặc biệt ở mảng thơ tình, chị đã góp một tiếng nói

quan trọng vào khát vọng yêu, khát vọng hạnh phúc muôn đời của phụ nữ. Đặng
Tương Như có lần phát biểu: “Đọc thơ tình Phan Thị Thanh Nhàn thấy hiện lên một
phụ nữ yêu hết mình với một tình yêu không đòi hỏi đền đáp, bao giờ cũng lặng lẽ
hiến dâng, một tình yêu luôn giày vò, khắc khoải nhưng không bao giờ phản kháng
và oán trách”.
Thứ ba, thuộc vào thế hệ trẻ cầm bút, Vi Thùy Linh khi xuất hiện đã nhãrih
chóng trở thành một hiện tượng trong nên thi Cã Việt Nam đương đặi. Lớn lên vào
buổi những thi liệu đã quá già mà người đến với thơ bằng tấm lòng tươi trẻ hãy còn
thưa vắng, có lẽ vì thế Vi Thùy Linh không vin dựa vào truyền thống, không sống,
không viết “theo kiểu bầy đàn”. Chị không thể làm thay đổi cái bản thể đích thực
của mình để trở thành một người rụt rè trước những cái đã thành “phong tục”. Vi
Thùy Linh “dám mới”, thậm chí sốt sắng cải tạo tinh thần của thi ca. Dường như chị
không viết cái gì khác mình. Chị sống bằng chính con người thật của mình trên
trang giấy.
Người đọc thấy ở Vi Thùy Linh có cái “động” của một người thuộc thế hệ 8X,
mới mẻ và hiện đại. Trong tất cả các sáng tác của chị, chúng ta nhận thấy có rất
nhiều sự cố gắng nỗ lực để cách tân thơ ca trên mọi phương diện.
Tuy nhiên sự đối mới ấy đôi khi vẫn còn chưa thích nghi được ở cách cảm, cách
nghĩ của một số người. Nó mang đến nhiếu ý kiến trái chiều, gây nhiều tranh cãi
trong giới nghiên cún cũng như sự tiếp nhận của bạn đọc.
Thứ nữa là Phan Huyền Thư (1972), một nhà thơ nữ đương đại cũng “đình
đám” không kém và được xem là một gương mặt thơ nổi loạn và phá cách.
3
Sinh ra trong một gia đình làm nghệ thuật, mẹ là nghệ sĩ ưu tú Thanh Hoa, bố
là nhạc sỹ Phan Lạc Hoa, Phan Huyền Thư phần nào được thừa hưởng gen nghệ
thuật của những người sinh thành. Phan Huyền Thư được ví như “người nối dài sự
sống cho chữ” bởi theo chị “chữ cũng là thực thể sống, nó cũng trẻ, cũng già, cũng
ốm đau, xấu xí bệnh hoạn, điên rồ và cũng có lúc lăn đùng ra chết. Viết những điều
vô nghĩa là tạo ra một nghĩa địa chữ tôi muốn sự sinh nhiều hơn sự tử. Vì thế tôi
muốn đi tìm giá trị mới cho chữ”. Có lần chị phát biểu: ““Thi sĩ là một danh phận

sang trọng mà tôi may mắn được cuộc đời ban tặng, cho dù là thoáng qua hay mờ
nhạt tôi vẫn thấy nâng niu. Bởi vì làm một bài thơ là cả cuộc đời bạn đã từng sống
cộng với những cảm xúc thăng hoa tức thờỉ, nó vật vẵ trong câm lặng và tuôn trào
trong nước mãt, không dễ gì đế làm một nhà thơ đích thực.” Và đối với chị, thơ tình
là “tiếng nói của kẻ thất tình, của người chưa được thoả mãn ái tình cho nên người
ta có quyền đòi hỏi và bày tỏ nhũng gì người ta muốn cho dù điên hay tỉnh, kiềm
chế hay bức xúc, tinh tế hay nồng nàn Cái chính là người nghe có ngồi lại với bạn
không hay người ta bỏ chạy. Nếu người ta cũng điên lên cùng với bạn thì chúc
mừng, vì bạn đã là thiên tài”.
(Theo nguồn www.tienve.org/home/authors)
Thêm nữa, thơ Phan Huyền Thư có chút gì đó rất táo bạo, công khai nói những
điều mà các thế hệ trước hoặc không dám hoặc chỉ làm lén lút. Người đàn bà trong
thơ Phan Huyền Thư đầy nữ tính, thứ nữ tính có chút hoang dại, vừa ra lệnh đồng
thời vừa hạ mình, cất dấu từ những dịu ngọt nhất cho tới liều độc dược mạnh nhất.
Việc xuất hiện một lóp người viết mới như Phan Huyền Thư đã thể hiện rằng
thơ không chết, thơ còn sống, thơ còn được nhiều người yêu, quá nhiều người còn
phải dùng nó để chia sẻ tình cảm, những vui buồn trong cuộc sống. Bản thân chị
không nghĩ rằng thế hệ trẻ ngày nay làm nên một cái gì mới hơn thế hệ trước về mặt
nghệ thuật. Sáng tác của những ngưòi viết trẻ có vẻ mới mẻ hơn thế hệ trước chỉ là
họ đang nói cái hiện tại. Suy cho cùng thơ ca mang giá trị thời đại, cho nên phải
4
tuân theo quy luật ở chỗ là không thời đại nào giống thời đại nào. Xã hội ngày nay
đang rất phát triến, các giá trị cũng đối khác và thơ ca cũng phải “ăn theo” để cho
kịp thời đại. Phan Huyền Thư đã thể hiện được điều đó.
Cuối cùng, đặt các bài thơ viết về tình yêu của các tác giả này cạnh nhau,
chúng ta sẽ thấy được xu hướng vận động của văn học Việt Nam nói chung và của
thơ ca Việt Nam đương đại nói riêng. Và so với thế hệ của Xuân Quỳnh, Phan Thị
Thanh Nhàn thì thế hệ của Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư đã có một bước ngoặt.
Trong bước đi mới đó, có thê nhận định khách quân răng: thơ của lớp trẻ đã có
những mặt kế thừa, phát huy được giá trị truyền thống, làm bước đệm cho những

đối mới, cách tân theo hướng tích cực; song bên cạnh đó, có những phương diện
“thoái lui”, đi quá giới hạn của những chuẩn mực thẩm mĩ, đạo đức xã hội và tâm lí
tiếp nhận của phần đông người Việt Nam ta.
Nhưng cần nhấn mạnh rằng, khi lựa chọn mảng thơ tình của Xuân Quỳnh,
Phan Thị Thanh Nhàn và Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư làm đối tượng khảo sát,
nghiên cứu, chúng tôi không có chủ đích coi đó là hai “cái mốc” trong sự vận động
của thơ tình các tác giả nữ trong văn học Việt Nam hiện đại. Chúng tôi lựa chọn
sáng tác của bốn nhà thơ này bởi chúng tiêu biếu cho “hai dòng phong cách, xu
hướng lớn” của việc sáng tác thơ tình ở hai thời kì: trước và sau Đổi mới.
2. Lịch sử nghiên cún vấn đề
Bên cạnh việc điểm lại những bài viết, những công trình nghiên cứu về thơ
Xuân Quỳnh, chúng tôi tạm chia lịch sử nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh thành hai
giai đoạn: trước và sau 1988
- Giai đoạn trước 1988:
Từ bỏ ánh hào quang trên sân khấu, cô diễn viên Xuân Quỳnh hầu như không
có một quá trình tu dưỡng về nghề thơ, không có gì hết ngoài trái tim biết yêu.
Nhưng chính trái tim ấy đã nói lên thành thơ và chị trở thành nhà thơ nữ lớn nhất
thế kỉ này của Việt Nam chỉ bằng trái tim chân thành và vô giá ấy.
5
Hon hai mươi năm cầm bút, thời gian không dài nhưng Xuân Quỳnh đã để lại
một số lượng tác phẩm không nhỏ (Khoảng 10 tập thơ và một số truyện viết cho
thiếu nhi). Từ tập thơ đầu tay “Chồi biếc” đến “Hoa cỏ may” là một chặng đường
thơ không ngừng nghỉ, luôn biết vươn lên trong hành trình khẳng định mình.
Tháng 6 năm 1987, trong cuộc gặp mặt các nhà thơ Á- Phi ở Liên Xô, Xuân
Quỳnh phát biểu: “Người ta làm thơ đầu tiên là để tự thể hiện, là một hành động
khắng định, rồi là một hành động khai sinh, đáp ứng như cầu sáng tạo, nhu cầu nối
liền mình với đồng loại, với các sự vật, vũ trụ và thời gian”. Xuân Quỳnh nói
“người ta” nhưng đế khắng định mình. Với chị làm thơ trước hết là để “tự thể hiện”.
Và thực sự trong cả cuộc đời cầm bút đầy ý nghĩa của mình, Xuân Quỳnh đã đem
đến cái bản ngã của người đàn bà táo bạo và mãnh liệt trong tình yêu để tạo nên dấu

ấn của một nhà thơ “bản năng”. Nói như Hoài Thanh, thơ Xuân Quỳnh luôn có cái
bạo nhưng là một “cá/ bạo rất trong”. “Cải bạo rất trong” ấy được thể hiện ở chính
tâm trạng cái tôi trữ tình trong thơ. Đó là một tâm trạng luôn xáo động giữa đắm say
hạnh phúc và day dứt ưu tư, khao khát và trăn trở, yên bình và bão tố.
Cùng với sự ra đời các sáng tác của Xuân Quỳnh là sự xuất hiện của các bài
viết nghiên cứu, phê bình về thơ chị, đặc biệt là mảng tình yêu. Đây là mảng sáng
tác thành công nhất trong gia tài sáng tạo khá phong phú và đa dạng của chị.
Từ nhũng tập thơ đầu chị đã được đánh giá là một cây bút trẻ nhiều triển vọng.
Chu Nga trong “Tạp chí Văn học” số 1 năm 1973 đã nói về sắc biếc ở chồi thơ mói
nhú này. Mượn tên tập thơ đầu tay của Xuân Quỳnh, người viết muốn nhấn mạnh
chất tươi trẻ, hồn nhiên của “Một chồi thơ sắc biếc” [64]. Cũng vào khoảng thời
gian này, nhà nghiên cứu phê bình Hà Minh Đức, trong một bài viết về lực lượng
thơ trẻ, đã dành cho Xuân Quỳnh những nhận xét rất đúng: “Nghĩ đến lực lượng thơ
trẻ, tôi muốn nói đến Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh Xuân Quỳnh đã
đến với thơ tù’ phần riêng tâm tình, kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu tha thiết của tuổi trẻ,
lòng gắn bó với nghề nghiệp ( ) từ cái riêng đi vào cái chung thơ Xuân Quỳnh dần
6
trở nên phong phú và có bản sắc hơn. Xuân Quỳnh luôn chân thật và mềm mại trong
cảm xúc, chị nhìn cuộc sống không đơn giản, một chiều
ơ các tập thơ
u
Chôi bỉêc”, “Hoa dọc chiên hào”, Gió Lào cát trăng” và “Lời
ru trên mặt đất”, Nguyễn Xuân Nam đã phát hiện ra “Vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh” và
dành cho chị những trang ưu ái trong cuốn “Thơ - Tìm hiếu và thưởng thứcTác giả
khẳng định “vẻ đẹp hồn nhiên, mang đậm nét nữ tính, dịu dàng, đằm thắm, và nhân
hậu nhung lại không vướng mặc cảm cho mình là phái yếu của con người Xuân
Quỳnh trong thơ. Với bản tính ấy thơ tình của chị chủ động, bao dung mà cũng thiết
tha dữ dội “như nước lũ mùa xuân chảy xiết” [63].
Đen năm 1984, khi hai tập thơ “Tự hát” và “Sân ga chiều em đF của chị ra đời
trong bối cảnh hòa bình, khi những cảm xúc thế sự đời tư được bộc lộ một cách rõ

nét, cởi mở hon thì thơ chị thực sự trở thành đối tượng thu hút sự chú ý đặc biệt của
giới phê bình, nghiên cún văn học. Sau khi tuyến thơ “Sân ga chiều em đi” ra mắt
bạn đọc, Vương Trí Nhàn trong “Bước đầu đến với văn học” đã đề cập đến vấn đề
thi pháp trong thơ Xuân Quỳnh. Ở góc độ này, tác giả đã phát hiện khá sâu sắc về
con người Xuân Quỳnh. Ngay từ “Chồi biếc”, mặc dù còn rất trẻ cả về tuổi đời lẫn
tuổi thơ, nhưng Xuân Quỳnh đã có ý thức rất sâu về thời gian. Theo năm tháng, ý
thức đó càng ngày càng rõ rệt, hằn lên trở thành cảm giác về sự biến đổi. Phát hiện
này của Vương Trí Nhàn ở thời điếm ấy rất quan trọng, sẽ mở ra một hướng tiếp cận
mới trong việc chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh.
Ớ giai đoạn trước 1988, so với các bạn cùng trang lứa, Xuân Quỳnh là cây bút
được chú ý nhiều nhất. Độc giả cũng như các nhà nghiên cứu thấy ở Xuân Quỳnh
có nhũng vần thơ mang nét tươi trẻ, hồn nhiên, biết đi tù' cái riêng đến cái chung để
từ cái chung lại trở về với cái của riêng mình.
Giai đoạn sau 1988
Ngày định mệnh 29/8/1988 đã kết thúc một cách nghiệt ngã cuộc đời và chặng
đường thơ hơn hai mươi năm của Xuân Quỳnh. Người ta chợt nhận ra răng một sợi
7
dây vô hình mãi bên vững gătt kêt cuộc đời chị với những gì chị để lại trong thơ.
Năm 1989, Nhà xuất bản Tác phấm mới cho ra đời cuốn “Thơ Xuân Quỳnh”.
Cuốn sách đã tập hợp một số bài viết về Xuân Quỳnh và chọn in một số bài thơ tiêu
biếu trong gia tài thơ chị để lại. Cuốn sách được làm trong sự tiếc thương, trân trọng
đối với một tài năng đang độ chín.
Sau cuốn sách là hàng loạt những công trình nghiên cứu về cuộc đời, chặng
đường thơ Xuân Quỳnh. Bên cạnh các công trình mang tính học thuật nghiên cún về
phong cách, đánh giá những thành tựu đóng góp cho thơ ca; những bài báo, tạp chí
đi sâu tìm hiểu về những tác phẩm cụ thể tiêu biểu; các cuốn sách tuyển chọn, tập
hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu, bạn đọc yêu thơ còn thấy có các tập hồi kí,
các bài thơ viết về chị như một sự tưởng niệm, tri ân sâu sắc về Xuân Quỳnh.
Năm 1993, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản cuốn hồi ký của Đông Mai
- chị ruột của Xuân Quỳnh với nhan đề “Xuân Quỳnh - một nửa cuộc đời tôi”. Tập

hồi ký là sự hồi tưởng lại những năm tháng thăng trầm trong cuộc đời người phụ nữ,
người mẹ, người vợ của Xuân Quỳnh. Người viết đã giúp chúng ta dựng lại chân
dung chị, tính cách chị, là cơ sở để chúng ta soi chiếu giữa tác phẩm và cuộc đời nhà
thơ.
Năm 1994, Nhà xuất bản Hội Nhà văn lại cho ra mắt bạn đọc cuốn “Xuân
Quỳnh - Lưu Quang Vũ - Tình yêu và sự nghiệp” đề cập đến bản sắc và sức sáng tạo
của nhà thơ nữ này. Các bài viết được in ở đây là của bạn bè, đồng nghiệp cùng các
nhà nghiên cứu trẻ tuổi như Nguyễn Quân, Chu Văn Sơn, Đoàn Thị Đặng Hương,
Nguyễn Thị Minh Thái, Lê Minh Khuê, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, Lun
Khánh Thơ.
Với con mắt họa sĩ, Nguyễn Quân phát hiện trong thơ Xuân Quỳnh đậm đặc
các chi tiết, hình ảnh của thiên nhiên. Hình ảnh trong thơ thường giản dị, thậm chí
không có gì mới lạ nhưng lại không gây cảm giác nhàm chán vì cảm giác tươi mới
8
và cảm động ( ). Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh cũng là ngôn ngữ đòi thường, không
hoa mỹ. Thơ chị là loại thơ của hình ảnh thị giác, câu thơ “rất có duyên mà không
làm dáng”.
Mảng thơ tình yêu của Xuân Quỳnh có lẽ là nơi dừng và gặp gỡ của rất nhiều
cây bút, là nơi các tác giả khắng định tài năng của chị. Nguyễn Thị Minh Thái gọi
vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh là vẻ đẹp “đẫm tình”. Qua bài viết “Một giọng thơ tình ảm
ảnh ”, tác giả đã nhận xét “ Những câu thơ giống hệt như những giọt nước sau cơn
mưa qua, còn đọng lại trên lá cây. Chỉ cần một làn cảm xúc chợt đến, khẽ chạm vào
lá, là những câu thơ ấy sẽ rơi rụng ngay xuống vùng tâm thức và mồn một hiện lên
giữa lòng ta có lẽ cái khát vọng tình yêu” từng thiêu đốt thơ Xuân Quỳnh cũng
thiêu đốt luôn cả người đọc”.
Lun Khánh Thơ qua sự “Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh” cho rằng, Xuân
Quỳnh viết về tình yêu bằng một chất thơ trong sáng, nồng nàn, da diết. Ở nhà thơ
nữ này luôn có sự khát khao về một tình yêu muôn thuở, một hạnh phúc đòi thường
bình dị. Người viết đã lý giải nỗi khắc khoải, lo âu trong thơ Xuân Quỳnh cũng
chính do sự khao khát này. Nhung “không phải vì thế mà tình yêu trở nên hư vô

huyền bí. Trái tim nồng nhiệt của một phụ nữ suốt đời khao khát tình yêu rất biết
nâng niu quý trọng niềm hạnh phúc đã có thật trong đời” [28, tr.35]. Đây là một
phát hiện rất xác đáng về con người Xuân Quỳnh trong thơ.
Đoàn Thị Đặng Hương với bài viết tuy ngắn gọn nhưng đã dựng được bức
phác thảo chân dung “Người đàn bà yêu và làm thơ” [28]. Với sự đồng cảm của tâm
hồn phụ nữ, người viết dường như nghe thấy trong những câu thơ của Xuân Quỳnh
hằn lên nỗi đau của một người đã sống hết mình, làm việc hết mình, yêu hết mình,
một niềm khát khao, một sự vật lộn với số phận để hiến dâng cho cuộc đời, cho
nghệ thuật. Cùng với những nhận xét sắc sảo, mang tính khái quát cao, tác giả còn
cho rằng Xuân Quỳnh là một trong tiếng thơ rất sớm của một người con gái, một
người đàn bà đã “chủ động yêu và đòi quyền được yêu” [28, tr.64].
9
Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Trọng Hoàn, mỗi người một cách
tiếp cận nhưng đều gặp nhau trong nhận xét: thơ tình yêu Xuân Quỳnh là niềm khao
khát yêu đương, khắc khoải kiếm tìm.
Như vậy, điểm lại tình hình nghiên cứu thơ Xuân Quỳnh ở trên, chúng ta thấy
ở mỗi công trình bài viết đều có một hướng khai thác khác nhau song đều có chung
một điểm đó là đề tài tình yêu, hạnh phúc đời thường, khát vọng tình yêu và giọng
điệu thơ nữ tính. Từ đó ta có thế khắng định rằng thơ Xuân Quỳnh có bản sắc riêng,
giọng điệu riêng được bắt nguồn từ một tài năng với một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm.
Đối với Phan Thị Thanh Nhàn, lâu nay việc nghiên cứu về thơ của chị còn rất
hạn chế, dường như chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính chất chuyên biệt
mà mới chỉ dừng lại ở những loại bài phân tích về từng bài thơ và loại bài tìm hiểu,
nghiên cứu về cả tập thơ, giai đoạn thơ.
Tập thơ đầu “Tháng giêng hai” của chị ra đời, in chung với Thúy Bắc năm
1969 đã nhận được cảm tình yêu mến của bạn đọc nhưng chưa có tiếng nói đánh giá
từ những người làm công tác nghiên cứu, phê bình.
Đen khi ba bài thơ Hương thầm, Xóm đê, Bản mới được giải nhì cuộc thi thơ
của báo Văn nghệ năm 1969-1970, thì Phan Thị Thanh Nhàn mới tạo được tình cảm
trong giới văn nghệ sỹ và để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng đông đảo độc giả. Nhà

thơ Xuân Diệu, trong bài phát biểu nhân kết thúc cuộc thi thơ báo văn nghệ năm
1969-1970 đã dành cho Phan Thị Thanh Nhàn nhiều lời khen tặng.
Trong bài “Đọc Hương Thầm” (Tác phẩm Mới - số 4/1976), tác giả Thu Văn
nhận định: Phan Thị Thanh Nhàn không sắc sảo nhưng có một hồn thơ dễ cảm “như
một bông hoa dịu nhẹ, khiêm nhường, phảng phất, kín đáo”. Tác giả nhìn thấy ở
Phan Thị Thanh Nhàn khả năng phát hiện tinh tế những vẻ đẹp của đời sống, tiếng
thơ ấm áp ân tình, đề tài bình dị, cảm xúc khỏe khoắn được dẫn dắt bởi con tim hơn
là lý trí. Bên cạnh đó tác giả cũng thấy những hạn chế của Phan Thị Thanh Nhàn
“thiếu rung động có suy nghĩ và chiều sâu”, cảm xúc tràn lan, kết thúc gò gẫm
Nhà phê bình Thiếu Mai trong bài “Một nét thơ đảng yêu" (Tạp chí Văn học,
1
0
số 1/1978) cũng đã chỉ ra bản sắc riêng của thơ Phan Thị Thanh Nhàn đó là sự “dịu
nhẹ, duyên dáng mà kín đảo”. Tác giả cũng nhận xét về sự chân thành trong cảm
xúc, về tình yêu với Hà Nội, tình yêu với đất nước, con người của Phan Thị Thanh
Nhàn.
Gần đây, nhất là sau khi chị được nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ
thuật, các báo không chuyên về lĩnh vực văn học và thông tin trên internet có nhiều
bài viết về Phan Thị Thanh Nhàn như: tác giả Hạnh Đỗ (Tiếp thị và Gia đình - tháng
1/2008) có bài nói về giá trị của “Hương thầm tác giả Hồ Điệp trong bài “Nhà thơ
Phan Thị Thanh Nhàn: vẹn nguyên như thủa hương thầm”
(http:/www.phongdiep.net tác giả Trần Hoàng Thiên Kim trong bài: “Phan Thị
Thanh Nhàn: thơ mình mình đọc câu nào cũng thương” (An ninh thế giới cuối tháng
- số 81, tháng 4/2008); tác giả Nguyễn Thị Hồng Ngát với bài: “Phan Thị Thanh
Nhàn - người chị thơ và đời” ( ); tác giả Nguyễn
Kim Anh với bài “Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn không thanh nhàn”
( ) Đa phần các bài đi vào khai thác cuộc sống
đời tư, tìm hiểu về công việc, xuất xứ những bài thơ cũ, đánh giá về nhân cách,
phẩm giá của nhà thơ chứ không bàn tới chính tác phẩm của chị. Tuy nhiên họ đều
nhận thấy ở thơ Phan Thị Thanh Nhàn những phẩm chất đáng quý.

Phan Thị Thanh Nhàn viết khá nhiều về thơ tình, theo năm tháng, những bài
thơ tình của chị có sự chuyên biến, từ nhẹ nhàng, ý nhị, tươi tắn chuyến sang giàu
tính trải nghiệm, suy tư, trăn trở nhưng độ lượng hơn. Nhưng dù thế nào, những bài
thơ của chị vẫn rất chân thành, gần gũi và vì thế chiếm được chỗ đứng trong lòng
bạn đọc.
Vi Thùy Linh “một hiện tượng của thơ ca Việt Nam hiện đại” và cũng là một
hiện tượng gây nhiều tranh cãi của văn học Việt Nam đương đại. Khi những bài thơ
đầu tay của chị ra đời và được đăng tải đã nhận được những luồng dư luận rất khác
nhau, thậm chí trái chiều nhau gay gắt, “người khen thì cổ vũ hết lời mà người chê
thì cũng bầm dập đến điều”. Việc tìm hiểu về thơ Vi Thùy Linh mới chỉ dừng lại ở
1
1
mức độ các bài viết mang tính nhận định, đánh giá chung về một số phương diện
trong sáng tác của chị (như vấn đề bản năng, chất libido, ) được đăng tải trên các
báo, tạp chí và các trang mạng.
Khi đọc KhẢt của Vi Thùy Linh, nhà thơ - nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo đã cảm
nhận ở cô “cái tôi” đầy cá tính và sống động: “Một thiếu nữ đa tình?
Một phận ki ép đa đoan? Một tâm hồn dám sống? Là tất cả mà không là gì cả.
Mạnh mẽ, thành thật và tận hiển cho tình yêu, nghệ thuật. Thơ phóng sinh ỳ tưởng
ra ngoài gông cùm của thành kiến truyền kiếp, đập cánh quyết ỉiệt vào hiện đại.
Thơ phá tung cánh cửa vờ vĩnh che chắn trái tim trụy lạc, trưng cầu ảnh sáng. Đó
là Vi Thùy Lỉnh với tuyên ngôn “Không bao giờ hóa trang đế nhập vai người khác
”. Còn Nguyễn Việt Chiến khi đọc tập thơ này đã viết bài “Thơ Vi Thùy Linh cơn
cuồng lưu từ những mê - lộ - chữ” và nhận thây “V/ Thùy Lỉnh có một đời song
nong cháy đam mê và nhiều nỗi đau Trong những bài thơ định mệnh của mình, Vi
Thừy Lỉnh như là một người dệt tâm gai nhẫn nại đan dệt những cảm xúc của mình
với nỗi đau vô hình trong tay - ngôn - ngữ luôn bị trầy xước, rớm máu bởi những
nôi đau vổ hình trong thỉ ca và hữu hình trong tình yêu, đời sống con người ”.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên khi đọc tập “Đồng tứ' thấy Linh là
“Người “tận lực tham ố tuổi trẻ ” để sống thơ” (Tạp chí Văn học số 9, 2005) “Vân

một niềm khao khát của Linh như ngày nào, khao khát vừa ngây thơ vừa đau đón
mà hạnh phúc. Tôi (và ta) gặp lại ở đây những khát vọng cháy bỏng và thăng hoa
trong thơ Linh về tình yêu Thế là đủ cho Lỉnh hát ca và hoan lạc. Một niềm hoan
lạc sống đời thơ”.
TS. Nguyễn Đăng Điệp trong bài nghiên cứu “Màu yêu trong Đồng tử Linh ”
lại chú ý tới thi phẩm trong tập thơ, nhà nghiên cứu cho rằng: đã có thể nói đến
trường chữ của Vi Thùy Linh vì đây là thơ đánh dấu 10 năm “nàng Vi tự nguyện
dấn thân vào nghệ thuật”. Cụ thể là với ý thức vượt thoát khỏi sự sáo mòn của chữ
nghĩa và niềm tin vào sức mạnh vô song của tình yêu đã giúp nữ thi sĩ có nhiều câu
thơ đẹp, lạ, giàu sức gợi. Đặc biệt “dày đặc trong thơ Vỉ Thủy Linh là những động
1
2
từ gây cảm giác mạnh nhăm diên tả niềm khao khát hòa trộn Như con ngựa
không chịu bó mình vào những dây cương thế loại và những nguyên tắc về vần điệu
thông thường, Vi Thùỵ Linh lấy hơi thở tình yêu làm chỗ dựa đế kiến tạo nhịp điệu
câu thơ” [21].
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã thấy một “Hiện tượng Vi Thùy Linh (in trên
báo Sinh viên Việt Nam, 9/2003, rứt trong tập phê bình, tiểu luận “Giăng lưới bắt
chim”, Nxb Hội Nhà văn, 2005 - Giải thưởng Phê bình Hội Nhà văn Hà Nội, 2006)
“Nhiều người nói với tôi rằng Vi Thùy Linh là biếu tượng sex trong thơ. Tôi không
thấy thế. Vi Thùy Lỉnh là một biếu tượng trong trắng đấy chứ Vi Thùy Linh là một
hiện tượng trong thơ Việt Nam. Một tiếng thơ lạ ”.
Nhà thơ, Dịch giả Dương Tường nhận xét: “V7 Thùy Lỉnh là một cơn lốc - lốc
ý tưởng, lốc chữ (chứa chất no), lốc tình (đôi khi là khoái cảm). Cơn ỉốc không
kiềm chế đó đưomg nhiên gây sốc, khiến nhiều người ngộ nhận những cố gắng
trong thơ cô và lầm lân cho sự bất chấp những ước lệ và kiêng kị và phạm húy. Với
tôi, Vi Thùy Lỉnh là một biếu tượng giải phóng phụ nữ trong thơ”.
Trần Đăng Khoa trong bài viết “£>ợc lại thơ tình Vi Thủy Linh (1.1.2007) đã
đưa ra một cái nhìn tổng thế “Khi bàn về thơ Vi Thùy Linh, có người đã gọi chị là
nhà thơ đoi mới. Tôi không nghĩ thế. Bởi nói đến những nhà thơ đoi mới, thì chí ít,

họ cũng có những cải cũ đế mà đoi thành mới. Nhiều thi sĩ thành danh đã dũng
cảm đập vỡ mình ra, rồi nhào lặn lại thành một gương mặt khấc, với một vẻ đẹp
hoàn toàn khác. Vỉ Thủy Lỉnh đâu phải thế. Chị sinh ra đã có gương mặt riêng,
tiếng nói riêng. Chị không có nợ nần gì với quá khứ, cũng ít tiếp nhận những giá trị
của quá khứ. Và trong tâm khảm tôi tin, Vi Thùy Linh cũng chang có ỷ thức quyết
tâm làm người tiên phong đoi mới thơ ca. Đoi với chị hình như đó là một việc rất
xa lạ. Chị chỉ song đúng như những gì mình có. Nghĩ theo cách của riêng mình. Roi
cất lên tiếng nói cũng của chính mình. Tât cả đêu hồn nhiên và giản dị Thơ Vỉ
1
3
Thủy Linh là thê. Ngon ngang và rậm rạp trong những suy nghĩ trăn trở của ngày
hôm nay Phải nói Vỉ Thùy Linh là người dũng cảm, tự tin. Thơ chị có nội lực. Chị
vin vào nội lực ấy mà đúng dậy trên hai chân của mình và sáng bằng nước mắt.
Đọc thơ chị, ta luôn có cảm giác rợn ngợp như đang đứng trước một ngọn núi lửa
mới tuôn trào với một sức mạnh không thế ngăn cản noi. Lan trong ngon ngang đất
dỏ, nham thạch là không ít những thỏi quặng quý”.
Với Phan Huyền Thư, cũng giống như Vi Thùy Linh, việc tìm hiểu về thơ chị
cũng chỉ dừng lại ở những bài viết theo nhận định, đánh giá chung hoặc những bài
phỏng vấn trên các báo và tạp chí, internet. Thế hệ của Phan Huyền Thư được đánh
giá là thế hệ trẻ hôm nay phân thân với cái tôi đầy mãnh liệt. Thơ Phan Huyền Thư,
nhất là mảng thơ tình yêu rất táo bạo, mạnh mẽ. Tìm hiếu về thơ chị, thấy rõ ở mỗi
thời đại có giọng thơ của mình. Cũng bởi, bản chất của thơ là không đứng lại. “Thơ
là nghệ thuật của từ, lịch sử thơ ca là lịch sử ngôn từ”(Zhirmunski). Vì vậy, chị
được ví như nhà thơ đang lao động trên cánh đồng chữ, đó là lao động căng thẳng,
hứng thú và sáng tạo. Khi mười một tuối, chị đã thích làm thơ lục bát, khi mười bốn
tuối thì làm thơ sonnet, đến mười bảy tuổi lại kiên quyết ra tay với thơ bậc thang
đang “mốt”, khi biết yêu thực sự thì lại mê thơ Đường luật, bây giờ thì thích thơ tự
do. Trong một bài phỏng vấn, chị cũng tâm sự; “Không làm thơ tôi mới bị mất cân
bằng bởi có quá nhiều điều mình muốn nói mà không nói ra được, quá nhiều điều
muốn làm mà không được phép làm. Vì thế tôi làm thơ là tôi được là mình mà

không gây hại cho ai, không lấy đi của ai điều gì, không phải tranh giành bon chen
trong cuộc sống”. Ớ mảng thơ tình, Phan Huyền Thư rất mạnh bạo đưa ngôn ngữ
“sex” vào trong thơ. Thơ nói về tình yêu, về chuyện chăn gối thời nào cũng có,
nhưng để tình dục bước chân mạnh mẽ vào văn chương thì phải tìm ở ngôn ngữ thơ
ca hiện đại. Phan Huyền Thư diễn đạt những chuyện đó bằng nghệ thuật thi ca ở cấp
1
4
độ ứng xử văn hóa giữa người với người, khiến tự nhiên nó có một vẻ đẹp riêng,
một vẻ nhân văn riêng.
Chúng tôi cũng xin được thống kê một số bài viết nổi bật như sau:
Thơ Phan Huyền Thư - nằm
nghiêng về cách tân
Nguyên Thụy Kha, Tạp chí Sông Hương, sô 168,
tháng 2
Xỉn đừng làm chữ của tôi
đau
Nguyên Huy Thiệp, trích
Giăng lưới băt chim,
Nxb Hội Nhà văn, 2006
Nhà thơ Phan Huyền Thư-
ngườỉ nối dài sự song cho
chữ ị phỏng vấn)
Hà Thanh Vân, nguôn
www.tienve.org/home/authors
Lao động và nói buôn trong
tập thơ Nằm nghiêng của
Phan Huyền Thư
Đào Duy Hiệp, nguôn www.tanvien.net
Nhìn chung, các bài viết hầu hết đều tập trung nhấn mạnh đến ý thức phái
tính, khát vọng tình yêu khác xa vói truyền thống của thế hệ các cây bút nữ đương

đại, vấn đề tính dục và việc thể hiện những khát khao nhục cảm một cách hăm hở,
khồng Iigần ngại trong thư của Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư. Bên cạnh việc ghi
nhận những tín hiệu mới, tích cực trong việc đối mới, cách tân thơ của họ, không
ít tác giả đã chỉ ra những điểm cực đoan trong nghệ thuật biểu hiện của Vi Thùy
Linh, Phan Huyền Thư.
Qua quá trình tổng hợp, thống kê và phân tích tư liệu, chúng tôi nhận thấy,
việc khảo sát mảng thơ tình của Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn và Vi Thùy
Linh, Phan Huyền Thư - hai thế hệ tác giả với hai phong cách thơ hoàn toàn khác
biệt, tiêu biểu cho hai giai đoạn khác nhau của thơ ca Việt Nam hiện đại - trong
tương quan so sánh một cách có hệ thống cũng chưa được tiến hành một cách cụ
thể.
1
5
3. Mục đích nghiên cún
Thực hiện Luận văn này, chúng tôi hướng tới các mục đích cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thấy được những điểm tương đồng, gặp gỡ trong cách thức cảm nhận,
thể hiện và viết về tình yêu của hai thế hệ - tiêu biểu cho “hai dòng
phong cách, hai xu hướng lớn” trong việc sáng tác thơ tình thời kỳ trước và sau Đổi
mới.
Thứ hai, thấy được sự khác biệt giữa thơ tình ở thế hệ trưởng thành trong thời
kì kháng chiến chống Mỹ và thế hệ các nhà thơ trẻ đương đại. Mục đích của luận
văn là tìm ra những phương diện kế thừa, phát triển cũng như những mặt hạn chế,
thoái lui của thơ tình các nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ trẻ đương đại nói chung so
với thơ tình của các cây bút thuộc thế hệ thời kháng chiến chống Mĩ nói chung.
Thứ ba, qua sự tìm hiểu, phân tích, so sánh đó để hình dung được một cách
khách quan hơn về xu hướng vận động, “diễn biến” của thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung và của thơ tình các tác giả nữ nói riêng.
4. Nhiệm yụ nghiên cún
4.1. Khám phá cái “tôi” trong thơ tình vận động từ nhuần nhị truyền thống
đến phá cách cố điển.

4.2. Tìm hiểu những cảm xúc chủ đạo để tạo thành những áng thơ tình ghi
dấu ấn của mỗi nhà thơ.
4.3. Nghiên cứu những phương thức, phương tiện tiêu biêu, đặc săc trong
thơ của bốn nhà thơ nữ - tiêu biểu cho hai thời đại. Trên cơ sở đó luận
văn phân tích mối tương quan biện chứng giữa nội dung và hình thức
trong sáng tác của thơ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cửu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi tập trung chọn lọc, khảo sát các
sáng tác thuộc mảng thơ tình yêu của bốn tác giả Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh
Nhàn và Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư trong các tập thơ sau.
1
6
Thơ Xuân Quỳnh:
Chồi biếc (trong tập Tơ tằm - Chồi biếc, in chung với cẩm Lai, Nxb Văn
học, 1963).
Hoa dọc chiến hào (Nxb Văn học, 1968).
Giỏ Lào cát trắng (Nxb Văn học, 1974).
Lời ru trên mặt đất (Nxb Tác phấm mới, 1978).
Sân ga chiều em đi (Nxb Văn học, 1984).
Tự hát (Nxb Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam, 1984).
Thơ viết tặng anh (Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1988).
Hoa cỏ may (Nxb Tác phẩm mới - Hội Nhà văn Việt Nam, 1989).
Thơ Phan Thị Thanh Nhàn:
Tháng giêng hai (Nxb Văn học, 1969).
Hương thầm (Nxb Văn học, 1973).
Chân dung người chiến thắng (Nxb Tác phẩm mới, 1977).
Bông hoa không tặng (Nxb Tác phấm mói, 1987).
Nghiêng về anh (Nxb Hội nhà văn, 1992).
Thơ Vỉ Thủy Lỉnh:
Khát (Nxb Hội Nhà văn, 1999).

Lỉnh (Nxb Thanh niên, 2000).
Đồng tử (Nxb Văn nghệ, 2005).
Vili ìn love (Nxb Văn nghệ, 2008).
Phim đôi - Tình tự chậm (Nxb Thanh niên, 2010).
Thơ Phan Huyền Thư:
Nằm nghiêng (Nxb Hội Nhà văn, 2002).
Rỗng ngực (Nxb Văn học, 2005).
Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát, có sự liên hệ, đối chiếu với các sáng tác
của một số nhà thơ nữ khác như Lâm Thị Mĩ Dạ, Ý Nhi, Đoàn Thị Lam Luyến,
1
7
Dư Thị Hoàn, Ly Hoàng Ly,
6. Phương pháp nghiên cún
Chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như sau:
- Phương pháp so sánh'. Được áp dụng ở nhiều cấp độ như: so sánh các tác
phẩm của cùng một tác giả ở các thời kì sáng tác khác nhau, so sánh các bài
thơ tình của Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư với các bài thơ tình của Xuân
Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, so sánh các sáng tác của Xuân Quỳnh, Phan
Thị Thanh Nhàn, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư với sáng tác của các nhà
thơ cùng thế hệ,
- Phương pháp loại hình: Ket hợp cả hai phương thức cơ bản:
+ Phân loại các hiện tượng (hình ảnh, hình tượng, cách thức biếu hiện cái “tôi”
trữ tình, giọng điệu, trong thơ tình của Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn và Vi
Thùy Linh, Phan Huyền Thư) trên cơ sở của việc chứng minh các nhóm hiện tượng
giống nhau theo một tiêu chuấn nào đó.
+ Chứng minh cho sự tồn tại của một loại hình văn học nhất định, biện hộ cho
sự tồn tại và hiệu quả thẩm mĩ của nó trong các sáng tác thơ ca về đề tài tình yêu
của bốn tác giả nữ (nhìn rộng ra là của các tác giả nữ thuộc thế hệ Xuân Quỳnh,
Phan Thị Thanh Nhàn và của các nhà thơ trẻ đương đại cùng thế hệ với Vi Thùy
Linh, Phan Huyền Thư).

Phương pháp tiếp cận liên văn bản:
Phương pháp tiếp cận này sẽ cho ta thấy rất rõ rằng, mỗi văn bản đang khảo sát
đều tồn tại trong sự liên hệ với các văn bản khác xuất hiện trước hoặc cùng thời với
nó. Đó là sợi dây liên hệ giữa thơ tình của Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn với
thơ tình của Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư cũng như mối liên hệ của chúng với
các văn bản khác. Từ đó, chúng ta sẽ thấy được tính kế thừa, tính hệ thống, tiến
trình của sự vận động thơ ca nói chung.
1
8
Đe Luận văn có tính khoa học và hệ thống, chúng tôi đã kết họp một số
phương pháp nghiên cún như: thống kê, phân tích, chứng minh, nhằm tiếp cận đối
tượng nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và triệt để hơn.
7. Đóng góp mới của đề tài
Thực hiện các nhiệm vụ trên Luận văn sẽ làm nổi bật được những nét đặc sắc
của thơ tình Việt Nam qua hai thế hệ nhà thơ nữ. Ket quả của Luận văn khẳng định
bản sắc riêng độc đáo của từng ngòi bút, mặt khác thấy được sự tương đồng, gặp gỡ
trong cách thức cảm nhận và thể hiện về tình yêu của bốn nhà thơ nữ. Và cuối cùng
là qua sự khảo sát, so sánh thấy được xu hướng vận động, diễn biến của thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung và của thơ tình các tác giả nữ nói riêng.
Người viết cũng mong rằng kết quả của Luận văn sẽ đóng góp
một phần phục vụ cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập thơ nói chung trong nhà trường hiện nay.
1
9
NỘI DƯNG Chương 1
Sự VẬN ĐỘNG TỪNHUÀN NHỊ TRUYÈN THỐNG ĐẾN PHÁ CÁCH
HIẸN ĐẬI Của cái tôi trữ tình trong thơ hai thẻ hệ • • •
1.1. Những đỉếm tương đồng trong phương thửc thể hiện cái “tôi”
của bốn nhà thơ
Cái “tôi” là đơn vị tồn tại của cái chủ quan, là hình thức tự ý thức của cái

chủ quan. Trong thơ, cái “tôi” trữ tình có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan
trọng, cái “tôi” trữ tình là hình thức tự ý thức của tác phấm trữ tình. Theo Lê Lưu
Oanh, trong cuốn “Cd/ tôi trữ tình trong thơ - Qua một số hình tượng thơ trữ tình
Việt Nam 1975-1990” đưa ra khái niệm: Theo nghĩa hẹp, cái “tôi” trữ tình là hình
tượng cái tôi, cá nhân cụ thể, cái tôi - tác giả - tiểu sử với những nét rất riêng tư;
là loại nhân vật trữ tình đặc biệt khi tác giả miêu tả, kế chuyện, biếu hiện về chính
mình. Theo nghĩa rộng, cái “tôi” trữ tình là nội dung, đối tượng, phẩm chất của
trữ tình. Còn theo Vũ Tuấn Anh, trong cuốn “Sự vận động của cái tôi trữ tình và
tiến trình thơ ca ” cũng chỉ ra: Cái “tôi” trữ tình đó là sự thể hiện một cách nhận
thức và cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của
chủ thể và thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế
giới tinh thần riêng biệt, độc đáo, mang tính thẩm mỹ nhằm truyền đạt năng
lượng tinh thần ấy đến với người đọc.
Có thể nói rằng “cái tôi trữ tình chính là sự tự ý thức của cái tôi được biếu
hiện trong nghệ thuật và bằng nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan
niệm về cái tôi được biểu hiện thông qua các phương tiện trữ tình”.
Và như vậy, cái tôi trữ tình không đồng nhất và trùng khớp với cái tôi nhà
thơ mà là sự thể hiện toàn bộ đời sống tinh thần và tư duy sáng tạo nghệ thuật của
nhà thơ. Nó là kết quả của sự chọn lọc, kết tinh và thăng hoa những suy tư, cảm
xúc và trải nghiệm của cái tôi nhà thơ. Đặc biệt, ở thơ tình cái “tôi” chủ thể giữ
vai trò quan trọng, là chìa khóa tối cần thiết để người đọc giải mã những quan
niệm, khát vọng tình yêu cùng những bài học triết lý nhân sinh mà các nhà thơ
gửi gắm trong đó.
1.1.1. Thiên tính nữ nghiêng hắn về hy sinh, dâng hiến, vị tha trong tình
yêu
Với Xuân Quỳnh, những sáng tác viết về đề tài tình yêu là những sáng tác
thành công nhất của chị, nhà thơ bộc lộ tâm trạng thật trong mỗi bước vui buồn
của cuộc sống. Đó cũng là nơi Xuân Quỳnh nói lên được niềm vui, nỗi khổ của
chính mình trong cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Tiếng nói ấy không chỉ là
lời bộc bạch cho bản thân tác giả mà đó còn là lời giãi bày thay cho nhũng ai

đang yêu, đã yêu. Và cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh là cái được tác giả
sáng tạo ra và có đời sống riêng tách biệt, độc lập với nhà thơ. Nhung cái tôi trữ
tình ấy đã thể hiện nỗi lòng trạng thái tâm lý của Xuân Quỳnh trong tình yêu. Nó
được sinh ra từ chính cuộc đời “không yên định” của chị và bộc lộ quan niệm về
tình yêu của chính nhà thơ. Theo thời gian và năm tháng, tình yêu của chị cũng
chín dần và thơ tình của chị ngày càng đi vào chiều sâu, cái “tôi” trong thơ tình
không còn vẻ mộng mơ, sôi nối như lúc ban đầu mà ngày càng đượm thêm vẻ
nồng nàn, tha thiết.
Cái tôi trữ tình trong thơ tình Xuân Quỳnh táo bạo, mạnh mẽ, chủ động
trong mọi nấc thang của tình yêu. Đó là người phụ nữ thoắt táo bạo đấy những lại
ngại ngùng, e dè ngay được. Cho nên có khi chị dấu mình đi, mượn hình ảnh
(không phải là mình) đế thố lộ điều thầm kín:
Con sóng dưới lòng sâu Con
sóng trên mặt nước Ôi cơn
sống nhớ bờ Ngày đêm
không ngủ được.
(Sóng - Xuân Quỳnh)
Nhưng có khi cái tôi trữ tình bỗng nhiên vứt luôn cái vỏ nhân hóa vay
mượn ấy đi để cho trái tim tự thốt lên lời:
“Lồng em nhớ đến anh Cả
trong mơ còn thức Dầu xuôi
về phương Bắc Dầu ngược
về phương Nam Nơi nào em
cũng nghĩ Hưởng về anh một
phương ”.
(Sóng - Xuân Quỳnh)
Trái tim đầy ắp tình yêu đẩy tâm thức người phụ nữ lên cao độ, bắt buộc thi
sĩ phải giải tỏa bằng cách thổ lộ và không ngại ngùng, e ấp. Không còn những
thẹn thùng giữ kẽ trong tình yêu mà chỉ còn lại những tiếng nói thổ lộ về tình yêu
với nỗi nhớ và lời thề thủy chung muôn đời của cái tôi trữ tình. Đó là một cái tôi

trữ tình táo bạo mãnh liệt mà không vấp váp vội vàng. Nồng nàn, đắm say, tha
thiết yêu và được yêu là thế, nhưng ở Xuân Quỳnh, tình yêu luôn đồng nghĩa vói
tấm lòng vị tha, sẵn sàng hi sinh và dâng hiến. Tình yêu với Xuân Quỳnh không
chỉ có những phút giây đắm say mà chị còn hướng đến “bao bọc người yêu trong
cái tình thương lớn mà một người đàn bà mạnh mẽ nhất, nhân hậu nhất mới có
thể có được” (Nguyễn Hòa Bình). Người đọc không khỏi chạnh lòng, xúc động
trước những câu thơ chân thành, sâu lắng của chị:
Ước chi làm chiếc nón che anh
Đêm gió lạnh em xin làm ngọn lửa
Ảo ướt ai phơi, balô ai xếp hộ
Mong sao trời ngừng mưa ỉ
{Không đề - Xuân Quỳnh)
Còn với Phan Thị Thanh Nhàn, cái tôi trữ tình cũng đắm say, khát khao yêu
thương, hạnh phúc không kém, thậm chí cũng luôn sẵn sàng hi sinh vì tình yêu.
Mang trong mình một trái tim đầy nhiệt huyết, yêu thương, một tấm lòng nhân
hậu, bao dung, tràn đầy nữ tính, Phan Thị Thanh Nhàn viết về tình yêu với rất
nhiều cung bậc khác nhau.
Anh ơiỉ Neu ví được cao xa như thế
Em cũng chang là trời đất gì đâu
Nhung anh có có biết không ? trời đất
Sẽ chang là gì nếu thiếu nhau.
(Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn)
Số phận đã không cho chị cuộc sống bình yên. Cái thuở “hương thầm” chị
có một gia đình hạnh phúc. Chồng chị là cán bộ nghiên cứu, nhưng lại yêu văn
chương. Anh chị đã quen nhau từ lóp bồi dưỡng viết văn ở Quảng Bá. Đọc thơ
nhau, làm bạn với nhau rồi yêu nhau. Kỷ niệm ngọt ngào của tình yêu khiến chị
có những lời thơ trong trẻo. Vậy mà đã 30 năm có lẻ, chị phải một mình nuôi con.
Người chồng yêu thương ra đi khi chị còn quá trẻ, một mình vật lộn với cuộc
sống trong thời bao cấp để nuôi con khôn lớn. Nhiều lúc chị cũng thèm muốn,
khát khao:

Ước gì gặp lại anh Dù
chỉ trong phút cuôi ĐẾ
nói một lời thôi Em đã
yêu anh nhất
(Phan Thị Thanh Nhàn)
Sau thời kì Đổi mới, cái tôi nồng nàn say đắm khát khao yêu vẫn được tiếp
nối mạnh mẽ với nhiều biểu hiện sinh động ở thế hệ Vi Thùy Linh, Phan Huyền
Thư.
Đọc KhÁt (Vi Thùy Linh) ta thấy tình yêu rất mới. Trên 2/3 nội dung của
KhÁt là dành cho tình yêu. Đọc thơ của Vi Thùy Linh thấy rõ một điều đó là tình
yêu không vụ lợi, một tình yêu không theo kiểu trào lưu, một tình yêu không sắc
màu “thị trường”. Đó là tiếng lòng của một cô gái đang yêu mãnh liệt, khát khao
dâng hiến đến tận cùng:
Anh yêu của em Em yêu
anh cuồng điên Yêu đến
tan cả Ảo tung ký ức
(Người dệt tầm gai - Vi Thùy Linh)
Anh là suy nghĩ của em khỉ môi ngày thức dậy Anh là niềm
vui và nôi buồn, là những gì trong em đang có Anh là đỉnh cao
khát vọng dâng hiến
là hơi thở của em
(Sóng - Vi Thùy LinhJ Nói một cách công
bằng, Vi Thùy Linh đã nói được thành thật nhất, chính xác nhất những cảm xúc
của người con gái khi yêu. Với những động từ mạnh mẽ như ‘‘cuồng điên”, “ào
tung”, “tan” được sử dụng với tần suất lớn càng diễn tả nỗi ước mong đến cực
độ được nhập cuộc vào tình yêu.
Đối với Phan Huyền thư, cái tôi trữ tình cũng đã thế hiện tình yêu nồng nàn,
say đắm, khát khao yêu và được yêu:
Như ngựa non tập phỉ nước đại
Em hí lên hân hoan trong vũ

điệu Thảo nguyên
Gió liếm vào gảy đêm một mùi cỏ thơm Của
sương âm thầm làm giọt Em là con ngựa đau
chang khiến tàu thèm bỏ cỏ Bờm roi tung vó ức
chăng đầy.
(Ngựa đêm - Phan Huyền Thư)
Phan Huyền Thư luôn khát khao biếu hiện cái tôi trước cuộc đời, cái tôi
bản thể mang tính khác biệt, chị luôn muốn tạo sự độc đáo riêng biệt trong lối tư
duy, diễn đạt và hình ảnh. Chính vì thế mà trong thơ tình của mình chị luôn lấy
những hình ảnh độc đáo và khác lạ. Hình ảnh giường”, “khăn tắm”, “áo lót”,
“ngực lép”, “bồn tắm” được nhà thơ sử dụng rất đắt. Với trái tim nhạy cảm của
một nhà thơ, chị được nhận xét là một người đa tình. Chị cũng đã yêu hết mình,
cháy hết mình với những dòng thơ tình khát khao, dâng hiến:
Mỗi sáng
Anh đi lại trong ý nghĩ của em
Mỗi sáng
Anh dao động ý nghĩ em
(Thất vọng tạm thời - Phan Huyền Thư)
Tình yêu đã chiếm lĩnh mọi suy nghĩ của “em”, càng khát khao đến tình
yêu, cái tôi trữ tình càng muốn thể hiện rằng ở thời điểm nào mình cũng nghĩ về
“anh”, nghĩ về tình yêu mà mình đang khát khao chờ đợi và sẵn sàng dâng hiến.
Cả hãi thê hệ nhà thơ nữ đẵ mượn cây bút đê làm nồi bật được tâm trạng
khát khao yêu, mong chờ được yêu, sẵn sàng hi sinh, dâng hiến cho tình yêu. Đây
chính là nét đẹp trong mỗi con người nhung quan trọng hơn nó chính là sức mạnh
để cho những người phụ nữ như Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn và Vi Thùy
Linh, Phan Huyền Thư dám sống, dám yêu và có những vần thơ nồng nàn, khát
khao như thế.
1.1.2. Cái “tôi” trữ tình táo bạo mạnh mẽ trong tình yêu Trong xã hội
phong kiến với nhiều hủ tục, luật lệ hà khắc, người phụ nữ phải sống theo
những chuẩn mực, lễ giáo “tam tòng tứ đức”, không được phép thể hiện

cái “tôi”. Nhưng đến thời kì hiện đại, người phụ nữ có quyền bình đẳng
với nam giới, làm chủ cuộc sống cũng như thể hiện những khát
vọng, phấn đấu cho riêng mình. Cùng với đó, tiếng nói thơ ca của phái nữ, đặc
biệt là trong lĩnh vực thơ tình, cũng trở nên cởi mở hơn. Người phụ nữ tự do thể

×