Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

giao trinh tac pham kinh dien Mac Angghen Lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.18 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA

HOÀNG NGỌC VĨNH
GIÁO TRÌNH
GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC
Nhà xuất bản Đà Nẵng
ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
THS. GVC HOÀNG NGỌC VĨNH
1
GIÁO TRÌNH
GIỚI THỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG -2005
GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC
THS.GVC HOÀNG NGỌC VĨNH
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc: VÕ VĂN ĐÁNG
Tổng biên tập: NGUYỄN ĐỨC HÙNG
2
Biên tập: NGUYỄN KIM HUY
Bìa và trình bày: TIẾN LINH
In 1.000 cuốn, khổ 16x24 cm tại Công ty cổ phần in Thừa Thiên Huế – 57 Bà Triệu-Huế. Theo
TNKH số 135/1834/XB – QLXB Cục xuất bản cấp ngày 17 tháng 12 năm 2004. Giấy trích ngang XB số:
174-XB, của NXB Đà Nẵng cấp ngày 23/3/2005. In xong nộp lưu chiểu tháng 5 năm 2005.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” CỦA C.MÁC VÀ F.ENGHEN 5
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” CỦA CÁC MÁC VÀ PHRI-ĐRÍCH
ĂNG-GHEN 14
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “LUDWIG FEUER BACH - SỰ CÁO CHUNG CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC”


CỦA F.ENGHEN 24
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “CHỐNG ĐUY RINH (ĐIIH RING)” CỦA F.ENGHEN (Ông Đuy Rinh làm đảo lộn
khoa học) 35
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN” CỦA
V. I. LÊNIN 48
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN” CỦA F.ENGHEN 60
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BÚT KÝ TRIẾT HỌC” CỦA V.I.LÊNIN 71
3
LỜI NÓI ĐẦU
-***-
Trong khi chờ đợi giáo trình có tầm cỡ quốc gia, chúng tôi biên soạn cuốn sách “Giới thiệu các tác
phẩm kinh điển triết học” nhằm phục vụ cho việc học tập của sinh viên Trung tâm Đào tạo Từ xa Đại học
Huế cùng những bạn đọc quan tâm đến nội dung cuốn sách.
Nội dung cuốn sách được hoàn thành dựa trên nội dung cuốn “Bài giảng các tác phẩm kinh điển
triết học” mà chúng tôi đã biên soạn phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên Triết học Đại
học Khoa học Huế theo sự phân công của Bộ môn Triết học - Khoa Mác-Lênin - Trường Đại học Khoa
học Huế tháng 02 năm 2000 và có sử dụng một số tư liệu của cuốn “Giới thiệu và hướng dẫn nghiên cứu
các tác phẩm và chuyên đề Triết học Mác - Lênin - Bộ môn Triết đại học kinh tế quốc dân 1991”.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng biên soạn theo quyết định số 3244/ GD - ĐT ngày 12/ 09/ 1995 của Bộ
trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, song cuốn sách cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, đọc giả xa gần để cuốn sách ngày càng hoàn thiện
hơn.
Chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 10 năm 2002
Th.s Hoàng Ngọc Vĩnh
4
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” CỦA C.MÁC VÀ F.ENGHEN
I. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của tác phẩm.
Vào những năm 1845-1846, Tây Âu đang tiến nhanh đến một cuộc cách mạng mới. Phong trào
công nhân phát triển mạnh và rộng rãi khắp châu Âu nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội

không tưởng.
Lúc này C.Mác và F.Enghen đã đi sâu vào hoạt động chính trị, hai ông nhận thấy cần phải xây dựng
một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học để phân ranh giới rõ ràng giữa hệ tư tưởng của giai cấp vô sản với
hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, tiểu tư sản, vạch con đường đi đến chủ nghĩa cộng sản một cách hiện thực
mà giai cấp vô sản đang đi vào một cách tự phát.
Theo F.Enghen, lúc này (mùa xuân 1845) quan niệm duy vật ở C.Mác đã hình thành đầy đủ. Hai
ông nhất trí lấy quan niệm đó để phê phán toàn bộ nền móng triết học cổ điển Đức sau Heghen.
Phê phán “Hệ tư tưởng Đức” là mục đích của tác phẩm: ”Muốn đánh giá đúng cái bịp bợm triết học
đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn
hiểu rõ tính nhỏ nhen, tính thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hêghen trẻ đó, và đặc biệt
muốn hiểu rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công hiện thực của các vị anh hùng
đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến công ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo
một quan điểm ở bên ngoài nước Đức”
1
.
“Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm viết chung của C.Mác và F.Enghen vào cuối giai đoạn hình thành
chủ nghĩa Mác: Lúc mà hai ông đã khắc phục chủ nghĩa duy tâm trong lĩnh vực xã hội và xây dựng những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật, đặt nền móng triết học cho lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tác phẩm này viết từ tháng 08/1845 đến tháng 05/1846. Nó gồm hai tập, nhưng nội dung quan
trọng nhất của tác phẩm là ở chương 1 của tập I.
- Trong tác phẩm, hai ông trình bày quan niệm duy vật lịch sử của mình và đấu tranh với triết học
duy tâm về lịch sử của Ludwig Feuerbach, Bauer, Xtiêc-nơ và những nhà Xã hội chủ nghĩa “chân chính”.
- Nội dung của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” rất phong phú. Trong đó, C.Mác và F.Enghen đã trình
bày một cách rõ ràng, hoàn chỉnh những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật về lịch sử. “Hệ tư tưởng
Đức” thực sự là tác phẩm lớn nhất của thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác (1842 - 1848).
- Thời C.Mác, tác phẩm này không được xuất bản vì bị kiểm duyệt nghiêm ngặt. Nó được xuất bản
lần đầu tiên tại Matxcơva năm 1932. Tại Việt Nam nó đã được tái bản bốn lần:
Lần 1 có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Phần thứ nhất: Phơ bách.
Lần thứ hai và ba có tựa đề “Ludwig Feuerbach - Sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và
quan điểm duy tâm chủ nghĩa” (Chương 1 Hệ tư tưởng Đức).

Lần thứ tư, trước khi bước vào thời kỳ đổi mới, tác phẩm được xuất bản vào tháng 10 / 1986, do
Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội ấn hành - có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Chương 1 Ludwig Feuerbach sự
đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm”, đúng như trong C.Mác và F.Enghen tuyển tập -
Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1980 - Tập 1 - Trang 259 đến 369.
- Tất cả các lần xuất bản thành tác phẩm riêng bằng tiếng Việt và cả trong C.Mác và F.Enghen
tuyển tập - Tập 1 nói trên, đều chỉ là Chương 1 trong tập I của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và
F.Enghen.
II. Bố cục của tác phẩm (Tái bản 10 / 1986).
- I Phơ bách Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và duy tâm. Trang 7 -9 (261 - 263).
1
C.Mác - F.Enghen -Hệ tư tưởng Đức - Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1987 - Trang 9.
5
- Phơ bách A. Hệ tư tưởng nói chung, hệ tư tưởng Đức nói riêng. Trang 10 -13 (264 - 267).
- [1]. Hệ tư tưởng Đức nói chung, triết học Đức nói riêng. Trang 13 - 26 (267 - 279).
- [2]. Trang 26 - 64 (279 - 314).
- [3]. Trang 64 - 70 (314 - 321).
- [4]. Trang 71 - 114 (321 - 362).
- Quan hệ của nhà nước và pháp quyền với sở hữu. Trang 114 - 120 (363 - 369).
III. NHỮNG NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA TÁC PHẨM.
Tác phẩm có hai nội dung chính: Phê phán triết học Đức sau Hêghen và Hệ thống quan niệm duy
vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác và F.Enghen.
1. Phê phán triết học Đức sau Heghen.
- Trong tác phẩm hai ông đã chỉ rõ: Phái Heghen trẻ om sòm tự xưng là cách mạng, nhưng trên thực
tế họ không vượt qua chủ nghĩa duy tâm của Heghen. Họ “tin rằng, tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến thống
trị trong thế giới hiện tại”. Họ phê phán ý thức hiện nay - cái mà họ cho là sai lầm - đòi thay thế nó bằng ý
thức phê phán - những quan niệm của chính họ, nhưng trên thực tế họ là những kẻ bảo thủ, chỉ cách mạng
bằng lời lẽ mà thôi: “Mặc dù họ đã dùng những lời lẽ khoa trương dường như làm đảo lộn thế giới, các nhà
tư tưởng của phái Hêghen trẻ vẫn là những kẻ đại bảo thủ. Những người trẻ nhất trong bọn họ đã tìm được
những từ ngữ chính xác để chỉ hoạt động của họ, khi họ tuyên bố rằng họ chỉ đấu tranh chống lại “những
câu nói” Không một người nào trong những nhà triết học đó có ý nghĩ tự hỏi xem mối liên hệ giữa triết

học Đức với hiện thực Đức là như thế nào, mối liên hệ giữa sự phê phán của họ với hoàn cảnh vật chất của
chính bản thân họ là như thế nào”
2
.
Trong lĩnh vực lịch sử, hai ông chỉ rõ phái Heghen trẻ cũng như chủ nghĩa duy tâm không biết đến
cơ sở hiện thực của lịch sử. Theo hai ông, họ chỉ coi mỗi thời đại lịch sử là thể hiện của một tư tưởng, một
quan niệm nào đó. Chính thế, khi phân tích một thời đại lịch sử nào đó ở họ suy cho cùng chỉ là sự “tán
đồng ảo tưởng của thời đại đó”.
Hai ông hoàn thành việc phê phán phái Heghen trẻ bằng cách phân tích và chỉ ra nguồn gốc xã hội
của họ. Theo hai ông, họ thuộc giai cấp thị dân Đức, một giai cấp trung gian của một nước Đức chưa từng
thực hiện một cuộc cách mạng tư sản triệt để. “Triết học Đức là hậu quả của những quan hệ tiểu tư sản”.
Tính nghèo nàn, bất lực của tư tưởng Đức phản ánh chính tính nghèo nàn, thảm hại của hiện thực Đức. Một
nước Đức phong kiến bảo thủ tồn tại bên cạnh một nước Pháp tư sản triệt để của một xã hội phương Tây
sục sôi cách mạng tư sản.
- Như nhan đề của chương 1 đã chỉ rõ, hai ông dành phần quan trọng để phê phán Ludwig
Feuerbach, vạch rõ tính duy tâm về xã hội của triết học ấy. Hai ông viết “Feuerbach không bao giờ hiểu
được rằng thế giới cảm giác được là tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân
hợp thành thế giới ấy, vì vậy ông không nhìn thấy chẳng hạn một đám người đói, còi cọc, kiệt quệ vì lao
động và ho lao, chứ không phải những người khoẻ mạnh thì ông buộc phải lẩn trốn vào trong “quan niệm
cao hơn” và trong “sự bù trừ” lý tưởng “trong loài” nghĩa là ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, đúng ở chỗ
mà người duy vật cộng sản chủ nghĩa nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều kiện của một sự cải tạo cả nền công
nghiệp lẫn cơ cấu xã hội. Khi Ludwig Feuerbach là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch
sử, còn khi ông tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở Feuerbach, lịch sử và chủ nghĩa duy
vật hoàn toàn tách rời nhau, điều này đã được nói rõ ở bên trên”
3
.
+ Hai ông chỉ rõ, Ludwig Feuerbach duy tâm ở chỗ ông ta thừa nhận con người là đối tượng cảm
tính, một thực thể có cảm giác và tình cảm (ở điểm này ông hơn các nhà triết học duy vật máy móc), nhưng
2
Sách đã dẫn - Trang 13.

3
Sđd - Trang 33.
6
ông ta không thấy giữa người với người một mối quan hệ nào khác ngoài tình bạn, tình yêu. Thậm chí ông
ta coi tình bạn, tình yêu là động lực quan trọng nhất của lịch sử. Cái nơi cần giữ lập trường duy vật nhất thì
ông ta lại duy tâm sa lầy trong cái trừu tượng về con người và không bao giờ đi tới được con người hiện
thực, con người xã hội: “Đành rằng so với những nhà duy vật thuần tuý thì Feuerbach có ưu điểm lớn là
ông thấy rằng con người cũng là một “đối tượng của cảm giác”; nhưng hãy gạt bỏ việc ông coi con người
chỉ là “đối tượng của cảm giác” chứ không phải là “hoạt động cảm giác được”, vì cả ở đây nữa, ông vẫn
còn bám vào lý luận và không xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những
điều kiện sinh hoạt nhất định của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đúng như họ
đang tồn tại, thì Feuerbach cũng không bao giờ đi tới được những con người đang tồn tại và hành động
thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại một sự trừu tượng: “Con người” và có thể nhận ra con người ”hiện thực,
cá thể, bằng xương bằng thịt” chỉ trong tình cảm thôi, nghĩa là ông không biết đến những “quan hệ con
người”, “giữa người với người” nào khác, ngoài tình yêu và tình bạn, hơn nữa là tình yêu và tình bạn được
lý tưởng hoá. Ông không phê phán những điều kiện hiện tại”
4
.
+ Hai ông cũng chỉ rõ, thái độ tĩnh quan của Ludwig Feuerbach đã dẫn ông ta đến tự nhiên chủ
nghĩa về lịch sử xã hội, coi con người là sản phẩm của tự nhiên, phục tùng những quy luật của tự nhiên,
những quy luật sinh học. Ông ta chỉ thấy cái tự nhiên mà không thấy cái xã hội ở con người. Ông ta đã tách
rời tự nhiên với xã hội, không thấy mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên với xã hội.
Thật ra, con người không chỉ là đối tượng cảm tính mà còn hoạt động cảm tính. Dĩ nhiên là từ tự
nhiên tách ra con người, nhưng con người lại cải tạo tự nhiên. “Bao giờ con người cũng đứng trước một
giới tự nhiên lịch sử và một lịch sử tự nhiên”. Tự nhiên có vị trí ưu tiên của nó, song không thể xem nó là
cái chủ yếu, bất biến, không thay đổi. Chính cái xã hội mới là cái cơ sở, cái tự nhiên phát triển, thành cái xã
hội, trở thành cái xã hội, không biến mất mà chỉ thay đổi hình thức của mình.
- Quan điểm tự nhiên chủ nghĩa về lịch sử chỉ thừa nhận quy luật tự nhiên, quy luật sinh học tác
động trong xã hội. Quan niệm ấy luôn luôn gặp các mâu thuẫn không thể giải quyết được giữa tính quy luật
khách quan và hoạt động có ý thức của con người; hoặc quy luật tự nhiên quyết định lịch sử hay ý thức con

người quyết định lịch sử; hoặc hoàn cảnh quyết định con người hay con người quyết định hoàn cảnh của
họ. Về điểm này, hai ông chỉ ra Ludwig Feuerbach duy tâm khi ông ta cho rằng, bản thân con người sáng
tạo ra lịch sử của mình mà chỉ đóng khung con người trong phạm vi thể chất, tình cảm - tức ông ta chỉ thấy
cái chủ quan mà không thấy cái khách quan, không thấy cái đặc thù của cái khách quan trong lĩnh vực xã
hội, không thấy cái đặc thù của quy luật xã hội (Triết học duy vật biện chứng coi con người sáng tạo ra
hoàn cảnh lịch sử trong chừng mực nào, thì hoàn cảnh lịch sử cũng tạo ra con người trong chừng mực ấy).
Ở đây, Ludwig Feuerbach đã thụt lùi hơn so với Heghen. Heghen cho rằng, kết quả hoạt động có mục đích
của con người không phụ thuộc vào bản thân hoạt động ấy, tức kết quả ấy là cái khách quan. Tuy nhiên,
Heghen đã giải thích tính khách quan ấy một cách tư biện (Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người và bản chất con người là: Con người là một chỉnh thể thống nhất của ba hệ thống các quy luật: Hệ
thống các quy luật sinh học tạo nên phương diện sinh học ở con người; Ý thức con người hình thành và
hoạt động trên cơ sở nền tảng sinh học của con người; Hệ thống các quy luật xã hội tạo nên cái xã hội của
con người, nó quy định mối quan hệ giữa người với người. Trong đời sống hiện thực ba quy luật đó không
tách rời nhau mà đan quyện hoà vào nhau, tạo nên bản chất con người với tư cách là cái đồng nhất của cái
tự nhiên sinh học và cái xã hội. Con người trước hết là một động vật bậc cao. Nhưng con vật chỉ tái sản
xuất ra chính mình, còn con người thì còn tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Nhu cầu tự nhiên của con
người được biểu hiện ở các mặt: nhu cầu ăn, ở, mặc ; nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, nhu cầu tái sản
xuất xã hội; nhu cầu tình cảm và nhu cầu hiểu biết. Để đáp ứng những nhu cầu đó con người cần phải lao
động. Trong lao động con người quan hệ với nhau, hình thành nên những quan hệ khác trong lĩnh vực đời
sống tinh thần. Chính thế C.Mác khẳng định “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
các quan hệ xã hội”. Bản chất con người không là cái bẩm sinh cũng không là cái chỉ sinh ra một lần là
xong, mà nó là một quá trình được trải qua hoạt động thực tiễn. Trong quá trình đó con người vừa là sản
4
Sđd - Trang 32-33.
7
phẩm của hoàn cảnh vừa cải biến hoàn cảnh. Con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử của mình.).
+ Hai ông chỉ rõ “toàn bộ suy diễn của Ludwig Feuerbach về quan hệ giữa người với người chỉ
nhằm chứng minh người ta cần có nhau và bao giờ cũng cần có nhau. Cũng như những nhà duy lý khác,
Ludwig Feuerbach không phải là một nhà cách mạng, mà là một nhà bảo thủ. Lý luận của Ludwig

Feuerbach chỉ là sự ca tụng tuyệt diệu cái đang tồn tại. Ông ta viết “Bản chất của tôi như thế nào thì tồn tại
của tôi như thế ấy”. Cái đang tồn tại mà Ludwig Feuerbach ca ngợi chính là trật tự tư sản. Là người có tấm
lòng nhân đạo, Ludwig Feuerbach không thể thờ ơ với cảnh khổ của người lao động. Nhưng là nhà dân chủ
tư sản ông ta không thể nhìn thấy được nguyên nhân của tình cảnh ấy và lối thoát hợp quy luật khỏi tình
cảnh đó. Ông ta không có ý thức bênh vực trật tự dân chủ tư sản, mà chính do hạn chế bản chất giai cấp của
tư tưởng của ông ta tạo ra. Ludwig Feuerbach không phủ định mà thừa nhận sự tồn tại của cáí đang tồn tại.
Mà cái đang tồn tại không là cái gì khác ngoài hơn là trật tự dân chủ tư sản.
- Như vậy, hai ông đã tiến hành hai bước làm cơ sở để xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử của
mình là: Thứ nhất là phê phán chủ nghĩa duy tâm về lịch sử của các nhà triết học duy tâm như Heghen và
phái Heghen trẻ. Thứ hai là phê phán chủ nghĩa duy tâm về lịch sử của các nhà triết học duy vật cũ mà đỉnh
cao là Ludwig Feuerbach. Đây là điểm mới trong xây dựng chủ nghĩa duy vật về lịch sử của Mác và
Ăngghen.
2. Hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác và F.Enghen trong tác
phẩm.
Quan niệm duy vật lịch sử của C.Mac và F.Enghen có hai nội dung chính là Tiền đề và bản chất
của quan niệm duy vật lịch sử; Quan niệm duy vật về lịch sử.
a) Tiền đề và bản chất của quan niệm duy vật lịch sử của C.Mác và F. Enghen. (Có năm
tiền đề)
Theo C.Mác và F.Enghen, tiền đề đầu tiên của mọi lịch sử là sự tồn tại của những cá nhân con
người “người ta phải có khả năng sống để rồi mới có khả năng làm ra lịch sử”. Con người muốn tồn tại ít
nhất phải ăn, ở và mặc. Muốn vậy con người phải sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Trong sản xuất
vật chất thì sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt là tiền đề cơ bản của mọi lịch sử, nó là sự thực lịch sử đầu
tiên, là quan hệ lịch sử đầu tiên. Hai ông viết “có thể phân biệt con người với loài vật bằng ý thức, tôn
giáo, nói chung bằng cái gì cũng được. Còn chính con người thì bắt đầu tự phân biệt với loài vật khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình Khi sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt cần thiết cho mình con người gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của bản thân mình”. “Người
ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải
có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản
xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, và đó là
một hành vi lịch sử, một điều cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm về trước người

ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ chỉ nhằm để duy trì đời sống con người”
5
. Như vậy tiền đề đầu tiên
của mọi lịch sử suy cho cùng là việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt.
Hai ông chỉ ra quan hệ lịch sử thứ hai là sự thoả mãn nhu cầu đầu tiên đưa tới những nhu cầu mới.
Và sự sản sinh ra những nhu cầu mới này là hành vi lịch sử đầu tiên. Nhưng muốn thỏa mãn nhu cầu thì
phải sản xuất, nhưng chính sản xuất lại tạo ra những nhu cầu mới. Đến lượt nó, những nhu cầu mới lại trở
thành nguyên nhân của sự phát triển sản xuất. “Bản thân nhu cầu đầu tiên được thoả mãn - khi đã có được
hành động được thoả mãn ấy và công cụ đạt được để thoả mãn nhu cầu ấy - đưa tới những nhu cầu mới”,
chính là tiền đề quan hệ lịch sử thứ hai, trong xây dựng quan niệm duy vật lịch sử của hai ông.
Quan hệ lịch sử thứ ba là trong tái sản xuất ra đời sống vật chất của chính bản thân mình, thì con
người cũng tái sản xuất ra con người thông qua quan hệ gia đình. Tức là, trong khi tái sản xuất ra đời sống
5
S đ d Trang 34.
8
của chính mình, thì con người cũng sản xuất ra những con người khác, con người luôn sinh sôi nảy nở. Khi
những nhu cầu đã tăng lên sinh ra những nhu cầu mới thì quan hệ gia đình cũng là một quan hệ phụ thuộc.
Gia đình lúc đầu là quan hệ xã hội duy nhất, về sau trở thành một quan hệ phụ thuộc khi mà những nhu cầu
đã tăng lên đẻ ra những quan hệ xã hội mới và dân số đã tăng lên đẻ ra những nhu cầu mới. Ba mặt đó của
hoạt động xã hội là ba mặt hay ba yếu tố tồn tại đồng thời với nhau ngay từ buổi đầu của lịch sử, từ khi con
người đầu tiên xuất hiện, và chúng còn biểu hiện ra trong lịch sử.
Thứ tư là sự sản xuất ra bản thân đời sống (vật chất) là một quan hệ hai mặt: Một mặt là quan hệ
tự nhiên, một mặt là quan hệ xã hội. Quan hệ tự nhiên với ý nghĩa là hoạt động sản xuất để tái sản xuất ra
đời sống vật chất. Quan hệ xã hội với ý nghĩa là hoạt động kết hợp của nhiều cá nhân bất kể trong điều kiện
nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì. Một phương thức sản xuất nhất định hay một giai đoạn công
nghiệp nhất định bao giờ cũng thống nhất với một phương thức hoạt động kết hợp nhất định, một giai đoạn
xã hội nhất định. Tức trong sản xuất ra đời sống, hai mặt quan hệ này là cái thống nhất với nhau trong một
phương thức sản xuất. Nói cách khác, tổng hợp những sức sản xuất mà con người đã đạt được quyết định
trạng thái xã hội. Quan hệ giữa sức sản xuất (hay giai đoạn công nghiệp) với giai đoạn xã hội, trạng thái
xã hội là quan hệ lịch sử thứ tư (phương thức sản xuất). “Người ta phải luôn nghiên cứu và viết lịch sử loài

người gắn liền với lịch sử của công nghiệp và trao đổi Ngay từ đầu đã có một hệ thống những mối liên hệ
vật chất giữa người với người, một hệ thống quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng
lâu đời như bản thân loài người”
6
.
Sau khi xem xét bốn nhân tố, bốn mặt của những quan hệ lịch sử đầu tiên ấy mới thấy con người
còn có cả ý thức nữa - “Con người có một lịch sử, vì họ phải sản xuất ra đời sống của họ và hơn nữa lại
phải sản xuất như vậy theo một phương thức nhất định, đó là do tổ chức thể xác của họ quy định, ý thức
của họ cũng bị quy định giống như vậy”
7
. Bởi ý thức và ngôn ngữ “chỉ sinh ra từ nhu cầu, từ sự cần thiết
thực sự phải giao dịch giữa người với người”. Ngay từ đầu, ý thức (dù chỉ là ý thức cá nhân) đã là một sản
phẩm của xã hội, là ý thức về hoàn cảnh gần gủi nhất có thể cảm giác được. Ý thức này ban đầu còn mang
tính hạn chế động vật (do quan hệ giữa người với tự nhiên, quan hệ giữa người với người còn mang tính
hạn chế động vật), ý thức phát triển lên nhờ sự phát triển của sản xuất, sự phân công của lao động. Đặc biệt
khi xuất hiện sự phân công lao động vật chất với lao động tinh thần thì từ đó ý thức thực sự có thể tưởng
tượng rằng nó là một cái gì khác chứ không phải là ý thức về thực tiễn hiện có. Phân tích mối quan hệ giữa
ý thức với thực tiễn, đặc biệt từ sau khi có sự phân công lao động vật chất với lao động tinh thần, C.Mác và
F.Enghen khẳng định: ý thức (lý luận) chỉ mâu thuẫn với những quan hệ hiện có khi những quan hệ xã hội
hiện có mâu thuẫn với sức sản xuất hiện có. Hoạt động tinh thần không tách rời với hoạt động vật chất. Ý
thức không độc lập với đời sống vật chất, mà trái lại phải phụ thuộc vào nó. Như vậy, quan hệ lịch sử thứ
năm mà C.Mác và F.Enghen xét đến là quan hệ giữa hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần; giữa đời
sống vật chất và ý thức (hoạt động tinh thần, ý thức đã tách mình ra không thống nhất với hoạt động vật
chất, đời sống vật chất). Ý thức ở con người ban đầu dù chỉ là ý thức về giới tự nhiên thì tự nó tất yếu phải
quan hệ với những người xung quanh nó phải là một ý thức xã hội. Bước đầu dù mang tính động vật thì
con người khác với động vật ở chỗ trong con người ý thức thay thế bản năng hoặc bản năng của con người
là bản năng được ý thức. Phân công lao động chỉ trở thành phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự
phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần
C.Mac và F.Enghen đã hoàn thành việc xây dựng năm tiền đề cho quan niệm duy vật về lịch sử của
mình bằng cách: Từ sản xuất mà giải thích giao dịch vật chất và giao dịch tinh thần, từ giai đoạn công

nghiệp mà giải thích giai đoạn xã hội và giai đoạn tư tưởng. Chính phương thức sản xuất vật chất quyết
định hình thức giao dịch (xã hội công dân, cơ sở của toàn bộ lịch sử), trên cơ sở đó xây dựng nên chế độ
nhà nước và mọi hình thái ý thức.
C.Mac và F.Enghen tom tắt “quan niệm đó về lịch sử là ở chỗ: xuất phát từ chính ngay sự sản xuất
vật chất ra đời sống trực tiếp mà xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và lý giải hình thức giao dịch -
6
S đ d Trang 36.
7
S đ d Trang 37.
9
tức là xã hội công dân trong các giai đoạn khác nhau của nó - gắn liền với phương thức sản xuất nhất định
và do phương thức sản xuất ấy sinh ra, coi như là cơ sở của toàn bộ lịch sử. Sau đó, phải hình dung hoạt
động của xã hội công dân trong lĩnh vực đời sống nhà nước. Đồng thời phải từ đó phải giải thích mọi sản
phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức, tôn giáo, triết học, đạo đức, v.v. và theo dõi quá trình hình
thành của chúng trên cơ sở đó. Nhờ vậy mà tất nhiên có thể hình dung được toàn bộ quá trình trong tính
hoàn chỉnh của nó.” “Quan niệm đó về lịch sử không đi tìm một phạm trù nào đó trong mỗi thời đại như
quan niệm duy tâm về lịch sử đã làm mà luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực của lịch sử; nó không căn
cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn; nó giải thích sự hình thành của tư tưởng căn cứ vào thực tiễn vật
chất; và do đó nó đi tới kết luận rằng không thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự
phê phán tinh thần, bằng việc quy chúng thành tự ý thức hay biến chúng thành những “u hồn”, “bóng ma”,
“tính kỳ quặc” v.v mà chỉ bằng việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sinh ra tất
cả những điều nhảm nhí duy tâm đó; Rằng không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch
sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác”
8
.
Bản chất của quan niệm duy vật lịch sử của C.Mac và F.Enghen là không xuất phát từ tư tưởng để
giải thích thực tiễn, mà giải thích sự hình thành của tư tưởng từ thực tiễn vật chất. Tư tưởng phụ thuộc vào
hoạt động vật chất và hoạt động giao dịch vật chất. Ý thức không là cái gì khác hơn cái tồn tại được ý thức
(tồn tại của con người là quá trình hiện thực đời sống của con người). Ý thức là phản ánh, là tiếng vọng về
mặt tư tưởng của quá trình sinh hoạt. Chính đời sống con người quyết định ý thức của họ chứ không phải

ngược lại. “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị, nói một
cách khác giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị.
Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh
thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị
giai cấp thống trị đó chi phối. Những tư tưởng thống trị không phải là cái gì khác, mà chỉ là sự biểu hiện
tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện
dưới hình thức tư tưởng; Do đó là sự biểu hiện của chính ngay những quan hệ làm cho một giai cấp trở
thành giai cấp thống trị; nói cách khác đó là những tư tưởng của sự thống trị của giai cấp ấy.”
9

b) Quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mac và F.Enghen.
1- C.Mac và F.Enghen xuất phát từ sản xuất vật chất mà lý giải “hình thức giao dịch”. Hai ông đã
phân tích quá trình sản xuất vật chất từ chiếm hữu nô lệ đến tư bản chủ nghĩa rồi phát hiện ra: Trình độ
phát triển của sức sản xuất biểu hiện trong trình độ phát triển của phân công lao động, mà mỗi giai đoạn
của phân công lao động cũng quyết định những quan hệ cá nhân với nhau phù hợp với những quan hệ của
họ đối với tư liệu, công cụ và sản phẩm lao động. Hai ông kết luận: Sức sản xuất (lực lượng sản xuất) quyết
định hình thức giao dịch (quan hệ sản xuất). Cốt lõi của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu. Hai ông đã rút
ra từ trong mối quan hệ xã hội muôn màu muôn vẻ cái cơ bản nhất quyết định mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất là quan hệ sản xuất (quan hệ sản xuất được hai ông gọi là hình thức giao
dịch, hay quan hệ giao dịch, hay phương thức giao dịch, hay quan hệ sản xuất và giao dịch). Quan hệ sản
xuất là mối quan hệ cơ bản nhất, quyết định nhất bởi lẽ nó trực tiếp quyết định toàn bộ kết cấu bên trong
của một dân tộc. Tức là, hai ông đã quy toàn bộ quan hệ xã hội (quan hệ giữa người với người trên cả hai
bình diện vật chất và tinh thần) về sự quyết định của quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất vật chất), và khẳng định quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định toàn bộ kết cấu của đời
sống xã hội.
2- C.Mac và F.Enghen cũng khẳng định, hình thức giao dịch (quan hệ sản xuất) - mà cốt lõi là hình
thức sở hữu (quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất) - quyết định kết cấu bên trong của xã hội. Đó là kết
cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp. Hai ông viết: “Cho đến nay, xã hội bao giờ cũng phát triển trong
khuôn khổ đối lập, thời cổ đại là sự đối lập giữa công dân tự do và nô lệ, thời trung cổ là sự đối lập giữa
quý tộc và nông nô, thời đại mới là giữa tư sản và vô sản.”

8
S đ d Trang 55
9
S đ d Trang 64 - 65.
10
3- Theo hai ông, sự đối lập giai cấp tạo nên cơ sở thực tế của nhà nước. Nhà nước là hình thức mà
các cá nhân thuộc giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức trong đó toàn bộ
xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung. Nhà nước là con đẻ của chế độ tư hữu.
Pháp luật cũng là con đẻ của chế độ tư hữu. Tức các ông đã khẳng định chế độ tư hữu tư nhân đối với tư
liệu sản xuất là nguồn gốc thực sự của Nhà nước.
- Các tiền bối trước C.Mac và F.Enghen đã thấy nhà nước và pháp luật là những công cụ bạo lực,
cần thiết cho lợi ích chung, thể hiện ý chí chung của toàn xã hội (ví như Tômát Hốpxơ (1588-1679) chẳng
hạn). Hai ông gạt bỏ quan niệm chung chung ấy của giai cấp tư sản về nhà nước và pháp luật mà chỉ rõ bản
chất giai cấp của nó. Nhà nước chỉ là cái vẻ bề ngoài là hình thức tập thể. Nó là tập thể giả tạo, trong đó “tự
do cá nhân chỉ tồn tại đối với những cá nhân đã phát triển trong khuôn khổ của giai cấp thống trị và trong
chừng mực họ là những cá nhân của giai cấp ấy , đối với giai cấp bị trị nó không những là tập thể hoàn
toàn ảo tưởng mà còn là những xiềng xích”. C.Mac và F.Enghen rút ra kết luận cực kỳ quan trọng: giai cấp
nào muốn nắm quyền thống trị thì trước tiên giai cấp ấy phải nắm lấy chính quyền để có thể nêu ra lợi ích
của bản thân mình như là lợi ích phổ biến.
- Vạch ra bản chất giai cấp của nhà nước, C.Mac và F.Enghen cũng vạch rõ bản chất giai cấp các hệ
tư tưởng, chỉ rõ sự khác biệt giữa hệ tư tưởng của giai cấp thống trị với hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng.
“Tư tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị trong mỗi thời đại”. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào
là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì đồng thời là lực lượng thống trị tinh thần trong xã hội. Hệ tư
tưởng của mỗi giai cấp là phản ánh tồn tại xã hội của giai cấp đó vào ý thức chủ quan của nó, là biểu hiện
chủ quan của tồn tại khách quan của nó. Sự tồn tại của những tư tưởng cách mạng trong mỗi thời đại nhất
định phải đã có sự tồn tại của giai cấp cách mạng làm tiền đề.
4- C.Mac và F.Enghen đã nêu ra và chứng minh rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
- Quan niệm duy tâm cho rằng dường như mỗi giai đoạn lịch sử có những tư tưởng nào đó thống trị
xã hội vì nó chính xác hơn, hợp lý hơn.
- Hai ông bác bỏ quan niệm đó và chỉ ra rằng, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị cũ,

bao giờ cũng buộc phải nêu lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của toàn xã hội. Nói một cách
trừu tượng là làm cho những tư tưởng của bản thân mình mang hình thức phổ biến, nêu nó thành tư tưởng
duy nhất hợp lý, có ý nghĩa phổ biến. Sở dĩ như thế là vì, ban đầu lợi ích của nó gắn liền với lợi ích của các
giai cấp bị trị chưa phát triển thành lợi ích riêng biệt của một giai cấp riêng biệt được.
5- Xuất phát từ sự phát triển sức sản xuất biểu hiện trong trình độ của phân công lao động, C.Mac
và F.Enghen chỉ ra các hình thức sở hữu trong lịch sử rằng: “Những giai đoạn khác nhau của phân công lao
động đồng thời cũng là những hình thức khác nhau của sở hữu”. Tức tương ứng với những giai đoạn khác
nhau của phân công lao động là những hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau ứng với nó.
- Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu thị tộc. Đây là hình thức sở hữu tập thể (công xã) phù hợp với
giai đoạn chưa phát triển sản xuất, con người còn sống nhờ săn bắn, chăn nuôi và nhiều lắm là trồng trọt.
Chế độ nô lệ gắn liền với gia đình phụ quyền đã nảy sinh trong lòng nó hình thức sở hữu tư nhân dưới hình
thức che dấu.
- Hình thức sở hữu thứ hai là hình thức sở hữu công xã - nhà nước cổ đại. Trong nó, bên cạnh sở
hữu công xã đã phát triển sở hữu tư nhân về động sản và sau nữa là bất động sản. Tùy theo sự phát triển
của sở hữu tư nhân mà quan hệ giai cấp trong xã hội nô lệ phát triển đến hoàn bị.
- Hình thức sở hữu thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp là sở hữu ruộng đất đối lập
giữa quý tộc và nông nô trên địa bàn nông thôn. Phù hợp với hình thức sở hữu này là chế độ phường hội ở
thành thị trong công nghiệp thủ công.
- Hai ông đã chỉ ra một cách sâu sắc những đặc điểm cơ bản của ba loại quan hệ sản xuất trước tư
bản chủ nghĩa và dành nhiều trang để phân tích sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Sự phát
11
triển của thương nghiệp sinh ra tư bản lưu thông khác với tư bản tự nhiên phường hội; Các thành thị được
chuyên môn hóa sản xuất làm nảy sinh công trường thủ công: quan hệ hàng tiền thay thế cho quan hệ gia
trưởng giữa thợ cả và thợ bạn; Máy móc xuất hiện làm nảy sinh thị trường thế giới; Công nghiệp lớn ra đời
sinh ra tư bản hiện đại tạo ra ở khắp nơi những quan hệ giống nhau là sự đối lập giữa tư sản và vô sản.
Nhờ sự phân tích “kể từ thời trung cổ, sở hữu thị tộc trải qua nhiều giai đoạn khác nhau - sở hữu
ruộng đất phong kiến sở hữu động sản phường hội, tư bản công trường thủ công - trước khi chuyển hoá
thành tư bản hiện đại thành sở hữu tư nhân thuần tuý”, hai ông là người đầu tiên đã vạch rõ rằng: Lịch sử
là lịch sử nối tiếp những hình thức sở hữu - tức là những quan hệ sản xuất - khác nhau, những quan hệ này
phụ thuộc vào những phương thức tiến hành lao động nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp (gia

trưởng, đẳng cấp nô lệ, giai cấp). Khi phân tích xã hội tư bản, hai ông đã chỉ ra mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng quyết liệt dẫn đến nổ ra các cuộc cách mạng thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đang phát triển
là động lực sâu xa nhất - động lực kinh tế - của những biến đổi trong lịch sử, là nguồn gốc cơ bản của lịch
sử (sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi quan hệ sản xuất, nó là động
lực kinh tế, là nguồn gốc cơ bản của lịch sử).
6- C.Mac và F.Enghen chỉ ra những đặc điểm của phân công lao động trong xã hội có giai cấp:
- Phân công lao động luôn gắn liền với chế độ tư hữu. Là sự phân công lao động ngay từ đầu đã bao
hàm sự phân chia không đồng đều về những điều kiện của lao động, là sự tách rời giữa lao động tích lũy và
lao động thực tại, do vậy cũng bao hàm luôn cả sự phân phối không đồng đều những sản phẩm của quá
trình lao động tạo ra. Theo nghĩa đó, phân công lao động chỉ trở thành phân công lao động thực sự khi hoạt
động tinh thần và hoạt động vật chất, hưởng thụ và lao động, sản xuất và tiêu dùng được chia phần cho
những cá nhân khác nhau. Tư hữu như vậy là hậu quả của phân công lao động. Tư hữu chính là quyền chi
phối sức lao động của người khác. (Nhưng tư hữu không phải là sở hữu cá nhân. Bộ áo quần của cá nhân là
sở hữu tư nhân chứ không là tư hữu, bởi bộ áo quần cá nhân không cho cá nhân khả năng sử dụng bất kỳ
một lực lượng lao động nào dù là nhỏ nhất của kẻ khác. Ở đây cũng cần phải lưu ý phân biệt và không bao
giờ được nhầm lẫn rằng: xoá bỏ tư hữu cũng là xoá bỏ sở hữu tư nhân. Chúng ta đang dần xóa bỏ tư hữu
đối với tư liệu sản xuất, nhưng không xóa bỏ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất. Bởi lẽ, người lao
động nếu không được sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất thì không thể tiến hành sản xuất vật chất
được.)
- Chính phân công lao động đã hình thành sự giao dịch giữa lợi ích cá nhân với lợi ích chung.
C.Mac và F.Enghen chỉ ra trong xã hội có giai cấp, lợi ích chung dưới dạng nhà nước chỉ là một hình thức
cộng đồng ảo tưởng, vì nó là công cụ bảo vệ lợi ích chỉ cho giai cấp thống trị. Chính vậy, nhà nước - cái
“xa lạ không phụ thuộc” vào cá nhân - trở nên cần thiết để trấn áp những lợi ích riêng biệt luôn luôn thực
sự chống lại những lợi ích chung và chung một cách ảo tưởng.
- Phân công lao động trong xã hội có giai cấp đẻ ra tình hình: hành động của con người trở nên một
lực lượng xa lạ, chống đối chính con người, nô dịch con người chứ không phải con người thống trị nó. Con
người bị cột chặt vào một nghề lao động bó buộc. Ở đây con người cũng phụ thuộc vào giai cấp, tư cách cá
nhân của mỗi con người bị ràng buộc bởi tư cách cá nhân giai cấp (cái hoàn toàn ngẫu nhiên ở bên ngoài ý
muốn con người). Quan hệ giữa người và người trong xã hội lẽ ra chỉ là hoạt động kết hợp của họ lại với

nhau và không phụ thuộc vào ý chí của họ, thì phân công lao động trong xã hội có giai cấp lực lượng xã hội
do họ tạo ra đã trở thành lực lượng xa lạ ở bên ngoài và thống trị lại chính con người. Đó là sự tha hóa của
hoạt động xã hội.
- C.Mac và F.Enghen kết luận: Sự phân công lao động không xảy ra một cách tự nguyện mà xảy ra
một cách tự phát đã dẫn đến hậu quả các hoạt động của con người bị tha hóa. Nguyên nhân của sự tha hóa
đó chính là sự phân công lao động gắn liền với tư hữu. Muốn khắc phục tình trạng tha hóa đó phải tiến
hành cách mạng vô sản, xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản.
12
- Chủ nghĩa cộng sản xoá bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu, buộc lực lượng vật chất do
lao động tạo ra chịu sự kiểm soát của con người, phục tùng con người. Chủ nghĩa cộng sản xoá bỏ sự đối
lập giữa cá nhân và tập thể, nó là tập thể thực sự. Trong đó mỗi cá nhân có khả năng phát triển toàn diện
những năng khiếu của mình, ở đây các cá nhân đạt đến tự do đồng thời với sự kết hợp của họ, và nhờ vào
sự kết hợp ấy. Chủ nghĩa cộng sản loại bỏ tính tự phát của quá trình tiến hoá lịch sử mà nhảy vọt từ thế giới
tất yếu sang thế giới tự do. Dưới chủ nghĩa cộng sản mọi tư liệu sản xuất đều thuộc công hữu của xã hội,
mọi tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đều bị xoá bỏ.
7- Cuối cùng hai ông chỉ ra tính tất yếu của cách mạng Xã hội chủ nghĩa:
- Theo hai ông, cách mạng Xã hội chủ nghĩa có hai tiền đề thực tiễn: Một là, đông đảo quần chúng
trở thành những người không có sở hữu đối lập với cái thế giới đương thời đầy của cải và học thức (sự tha
hóa đã trở thành một lực lượng không thể chịu đựng được, một lực lượng mà người ta phải làm cách mạng
để chống lại nó). Tức, về xã hội là mâu thuẫn đối kháng ngày càng quyết liệt giữa giai cấp tư sản với giai
cấp công nhân và nhân dân lao động; Hai là, sự phát triển của sức sản xuất làm cho sản xuất và giao dịch
có tính chất thế giới, lịch sử biến thành lịch sử thế giới. Tức, sự phát triển của đại công nghiệp đã tạo ra
một lực lượng sản xuất có tính chất thế giới thì tất yếu với nó phải là một quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất mang tính công cộng.
Theo C.Mac và F.Enghen cả hai tiền đề này đều đã có cùng với sự phân công lao động rộng nhất
(đại công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản). Ở đó, một mặt sức sản xuất vật thể hóa (tư hữu) với những người
lao động bị tách rời khỏi sức sản xuất ấy là rất sâu sắc. Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã xóa
bỏ những hàng rào dân tộc, tạo ra thị trường thế giới, nền sản xuất thế giới, sự phụ thuộc toàn diện của các
cá nhân vào lực lượng tự phát có khả năng biến thành sự kiểm soát toàn diện và sự thống trị có ý thức đối

với các lực lượng tự phát ấy. Chính ở đây, chủ nghĩa xã hội không còn là một tình trạng cần thiết lập,
không là một lý tưởng mà là một tình trạng hiện thực phải khuôn theo.
- Hai ông cũng phân biệt sự khác nhau về nguyên tắc giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với chủ nghĩa
xã hội không tưởng về việc xóa bỏ tình trạng hiện thực hiện nay. Người không tưởng lên án chủ nghĩa tư
bản như là một xã hội không có đạo đức đồng thời lên án cả đấu tranh giai cấp (tức lên án phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân), tưởng tượng và miêu tả rất tỷ mỷ về chủ nghĩa cộng sản. C.Mac và
F.Enghen chỉ vạch ra những nét cơ bản về chủ nghĩa cộng sản và chứng minh rằng tiền đề vật chất (giai cấp
công nhân và nền sản xuất đại công nghiệp) của những nét cơ bản đó đã hình thành trong lòng xã hội tư
bản. Chủ nghĩa cộng sản là khuynh hướng phát triển hiện thực của lịch sử thế giới.
8- Từ toàn bộ quan niệm duy vật lịch sử đó, C.Mac và F.Enghen đưa ra bốn kết luận:
1 Lực lượng sản xuất đã phát triển đến một trình độ, mà quan hệ sản xuất bắt đầu kìm hãm sự phát
triển đó, gắn liền với nó giai cấp vô sản ra đời và phát triển đối lập quyết liệt với trật tự hiện có và có ý
thức về cuộc cách mạng cơ bản, ý thức cộng sản.
2. Cho đến nay, lực lượng sản xuất vận động trong điều kiện thống trị của một giai cấp nhất định,
biểu hiện trong hình thức nhà nước nên bất cứ cuộc cách mạng nào cũng nhằm chống lại giai cấp thống trị
cũ.
3. Cách mạng Xã hội chủ nghĩa khác về chất so với các cuộc cách mạng khác trong lịch sử trước
nó: nó xóa bỏ tư hữu và xóa bỏ giai cấp.
4. Cách mạng Xã hội chủ nghĩa không chỉ xóa bỏ quan hệ kinh tế cũ, quan hệ chính trị cũ mà còn
cải tạo đông đảo quần chúng kể cả giai cấp vô sản. Do đó cách mạng là cần thiết không chỉ vì chỉ có cách
mạng mới lật đổ được giai cấp thống trị cũ, mà còn vì chỉ có cách mạng giai cấp lật đổ mới có thể dứt bỏ
khỏi bản thân mình mọi sự thối nát cũ và trở thành có năng lực tạo ra cơ sở mới của xã hội.
13
Với bốn kết luận đó, hai ông đã chứng minh rằng: quan niệm duy vật về lịch sử tất nhiên dẫn đến
kết luận cộng sản chủ nghĩa. Kết luận cộng sản chủ nghĩa là hệ quả đương nhiên của quan niệm duy vật về
lịch sử.
Bác lại luận điểm của Stiếcne đòi giai cấp vô sản phải tự cải tạo mình trước khi cải tạo xã hội,
C.Mac và F.Enghen cho rằng: chỉ có tiến hành cải tạo xã hội thì giai cấp vô sản mới có thể cải tạo mình
một cách triệt để. Chỉ trong những hoàn cảnh biến đổi thì người vô sản mới không còn như cũ và đầy quyết
tâm làm biến đổi hoàn cảnh ngay khi nào có khả năng đầu tiên. Trong hoạt động cách mạng, sự biến đổi

bản thân mình trùng với sự cải tạo hoàn cảnh. Quan điểm cách mạng triệt để này, đối lập với mọi quan
điểm tiểu tư sản sẵn sàng điều hoà giai cấp hoặc lẩn tránh cách mạng.
KẾT LUẬN:
“Hệ tư tưởng Đức” có nội dung rất phong phú, nó thực sự là tác phẩm lớn nhất của thời ký hình
thành chủ nghĩa Mác. Tác phẩm được hoàn thành vào năm 1846 là lúc quan niệm duy vật về lịch sử của
C.Mac đã hình thành đầy đủ. Trong tiến hành phê phán toàn bộ nền triết học Đức, hai ông đã xây dựng
những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật về lịch sử, đặt nền móng triết học cho lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Câu hỏi ôn tập:
1- Những nội dung triết học cơ bản của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”?
2- Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mac và F.Enghen đã phê phán những hạn chế của
phái Hêghen trẻ như thế nào?
3- Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mac và F.Enghen đã chỉ rõ chủ nghĩa duy tâm của
Phơ Bách biểu hiện ở những mặt nào?
4- Những tiền đề xuất phát của quan niệm duy vật lịch sử của C.Mac và F.Enghen trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” là gì?
5- Những nội dung cơ bản của quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mac và F.Enghen trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” là gì?
6- Nêu và phân tích bốn kết luận quan trọng của C.Mac và F.Enghen về chủ nghĩa cộng sản
trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”?
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” CỦA CÁC MÁC VÀ
PHRI-ĐRÍCH ĂNG-GHEN
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng của lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này, đánh dấu sự thành công về cơ bản lý luận của chủ nghĩa
Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành là Triết học, Kinh tế chính trị và Chủ nghĩa Cộng sản khoa học.
Tác phẩm này không chỉ là tác phẩm quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
mà còn là cương lĩnh chính trị của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó tập trung luận giải vai trò
lịch sử của giai cấp vô sản, tính tất yếu và những điều kiện giải phóng giai cấp vô sản. Nó là kim chỉ nam
cho hành động của toàn bộ phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. Là ngon cờ dẫn dắt giai cấp công
nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghiã tư bản, giải phóng loài

người vĩnh viễn thoát khỏi mọi ách áp bức bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người thực sự sống trong tự
do, hoà bình, hạnh phúc.
14
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
VÀ NHỮNG Ý NGHĨA CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM.
1. Hoàn cảnh ra đời:
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ khá cao. Cùng với sự phát triển của
nền đại công nghiệp ở các nước tư bản châu Âu, giai cấp công nhân hiện đại đã ra đời và sớm bước lên vũ
đài chính trị đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành
phố Li-ông (Pháp) năm 1831, vùng Xi-li-di (Đức) năm 1834 và phong trào có quy mô toàn nước Anh kéo
dài 10 năm từ 1838 - 1848. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh của phong trào công nhân đến cuối giữa thế kỷ
XIX vẫn luôn thất bại trước sự đàn áp của giai cấp tư sản.
Thực tế đó, chứng tỏ sự lớn mạnh của phong trào công nhân đòi hỏi bức thiết phải có một lý luận
soi đường và một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng thực sự khoa học và
cách mạng.
Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội lần thứ hai của ‘Đồng minh những người cộng sản’
đã thảo luận và thông qua những nguyên lý của CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN do C.Mác và Ph.Ăngghen trình
bày, bảo vệ; đồng thời đã uỷ thác cho C.Mác và Ph.Ăngghen viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Tác
phẩm được ra mắt đầu tiên vào ngày 18 tháng 3 năm 1848 (trùng ngày nổ ra các cuộc cách mạng ở Mi-Lan
và Béc-Linh).
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời không những là sản phẩm của trình độ chín muồi của
những điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội đương thời mà còn là sự kết tinh những tinh hoa trí tuệ loài
người, là công lao sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen. Sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
đánh dấu một bước chuyển lịch sử của phong trào công nhân quốc tế: Kể từ đây, giai cấp công nhân với tư
cách là một lực lượng xã hội độc lập, giai cấp vô sản hiện đại tiến hành cuộc đấu tranh tự giải phóng, đồng
thời giải phóng cho nhân loại vĩnh viễn thoát khỏi tình trạng áp bức và bóc lột giai cấp.
2. Ý nghĩa của tác phẩm
Hiện nay có một số ý kiến của giai cấp tư sản và những người phi mác-xít nhằm phủ nhận giá trị
của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, nhưng từ khi ra đời cho đến nay đã trãi qua hơn 156 năm, nó vẫn
còn nguyên giá trị lịch sử và cách mạng của nó:

- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là văn kiện mang tính cương lĩnh của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, nó đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy chỉ là một tập sách nhỏ chưa đầy
100 trang, nhưng chứa đựng tri thức đồ sộ bằng nhiều bộ sách. Khi nghiên cứu “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” cần phải nghiên cứu những lời tựa C.Mác và Ph.Ăngghen viết cho những lần xuất bản sau 1848.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có những giá trị lâu dài sau: Lần đầu tiên trong lịch sử tư
tưởng, triết học, sử học xuất hiện một quan niệm khoa học và có hệ thống về lịch sử phát triển của xã hội
loài người, về những động lực của phát triển lịch sử. Hai ông đã xuất phát từ sự vận động của đời sống
kinh tế-xã hội mà phân tích xã hội và xuất phát từ kinh tế-xã hội mà phân tích chính trị và văn hoá. Tuyên
ngôn đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng áp dụng triệt để trong lĩnh vực
lịch sử, từ đó chỉ ra quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người. Đây là cơ sở lý luận, phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế-xã hội đến nay vẫn giữ
nguyên giá trị.
+ Bằng thế giới quan khoa học, bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, hai ông đi sâu phân
tích những quy luật vận động của xã hội tư bản, vạch ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản là quy
luật giá trị thặng dư, cũng tức là vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
khẳng định tính tất yếu về mặt lịch sử của sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời vạch
ra những mâu thuẫn nội tại của chủ nghiã tư bản, phân tích những cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và
15
giai cấp tư sản, khẳng định cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đến kết quả: Xã hội tư bản sẽ bị thay thế bằng một xã
hội khác tiến bộ hơn, phát triển hơn, đó là xã hội cộng sản.
+ Hạt nhân chủ đạo của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là: Phương thức chủ yếu của sản xuất
kinh tế và trao đổi cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử
chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại. Do đó toàn bộ lịch sử của nhân loại có
giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bóc lột và những giai cấp bị bóc
lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị áp bức. Giai cấp vô sản không thể tự giải phóng mình, nếu không
đồng thời giải phóng toàn xã hội, giải phóng con người khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi tình trạng phân chia
giai cấp và áp bức giai cấp. Tức giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại đồng thời đều
là sứ mệnh của giai cấp công nhân.
+ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” chủ trương xây dựng một xã hội Cộng sản thay thế xã hội Tư
bản, đó là một xã hội công bằng, nhân đạo, không còn tình trạng người áp bức, bóc lột người. Xã hội Cộng

sản là một liên hợp trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi
người. Mục đích đó của CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN không phải là mong muốn chủ quan mà là chiều hướng
khách quan của sự phát triển của lịch sử. Một xã hội phát triển cao như vậy không thể được hình thành một
cách dễ dàng, tự phát, mà phải trải qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: Lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải dành được chính quyền, xây dựng và sáng tạo ra xã hội
mới cao hơn, tiến bộ hơn xã hội tư bản về mọi phương diện.
+ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và các tác phẩm khác của hai ông đề ra các vấn đề chiến lược,
sách lược chủ yếu về hình thức, phương pháp, về con đường quá độ từ xã hội cũ lên xã hội mới. Hai ông
chỉ rõ thái độ khoa học, phương pháp luận duy vật biện chứng trong nghiên cứu, vận dụng các tư tưởng,
luận điểm, kết luận trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.
3. Những tư tưởng cơ bản của tác phẩm.
Một là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định hai nguyên lý của chủ nghĩa Mác: Phương
thức sản xuất và trao đổi kinh tế cùng với cơ cấu xã hội của phương thức đó quyết định sự sự hợp thành
nền tảng của xã hội; Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.
Hai là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng khỏi
tình trạng bị áp bức bóc lột, nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn bộ xã hội khỏi tình trạng bị áp bức
bóc lột, phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Ba là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” công khai trình bày trước toàn bộ thế giới về chiến lược,
sách lược của Đảng Cộng sản và đập tan những hư truyền về “bóng ma cộng sản” mà các thế lực chính trị
phản động đang loan truyền ở châu Âu lúc bấy giờ.
Bốn là, Từ khi ra đời cho đến nay đã trên 156 năm, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” luôn là nền
tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, nó soi sáng
con đường tiến lên của cách mạng thế giới. Đồng thời, mỗi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thế giới lại càng khẳng định tính chất khoa học và cách mạng, và làm
phong phú thêm những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”.
II. BỐ CỤC CỦA TÁC PHẨM (cuốn tái bản năm 1976).
“Các lời tựa 1872, 1882, 1883, 1888, 1890, 1892, 1893” Trang 7 đến trang 42.
“Tư sản và vô sản” trang 42 đến 66.
“Những người vô sản và những người cộng sản” trang 66 đến trang 81.

“Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghiã” trang 81 đến trang 99.
“Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập” trang 99 đến trang 102.
16
III. NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG CÁC CHƯƠNG, MỤC CỦA TÁC PHẨM.
1. Các lời tựa.
Các lời tựa của C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến hai nội dung chính:
Một là, hai ông khẳng định “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là Cương lĩnh của ‘Đồng minh
những người Cộng sản’ công bố công khai với toàn thế giới những nguyên lý của Đảng Cộng sản. Bản
Cương lĩnh này gọi là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” mà không gọi là “Tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa”
là để phân biệt tính chất giai cấp của phong trào cộng sản với các trào lưu xã hội chủ nghĩa đương thời.
Hai là, với tư cách là một cương lĩnh của Đảng Cộng sản, về mặt lý luận “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” trình bày thế giới quan của giai cấp vô sản về đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên
chính vô sản; thuyết minh sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, vai trò của giai cấp vô sản; phân định
ranh giới giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác (chủ nghĩa xã hội không
tưởng).
Về mặt chỉ đạo thực tiễn, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nêu lên những nhiệm vụ và những biện
pháp cụ thể để thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; những nguyên lý sách lược
và thái độ của Đảng Cộng sản đối với các Đảng Xã hội-Dân chủ. Nhiệm vụ của “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” là tuyên bố sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng tất yếu như sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội, giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mặc đầu
hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong mười lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý
tổng quát trình bày trong Tuyên ngôn này vẫn còn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải
xem lại. Chính ngay Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng
những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ
những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II Và cũng hiển nhiên là những nhận định về thái độ
của người cộng sản đối với các đảng đối lập (chương IV) nếu cho đến nay vẫn còn đúng trên những nét cơ
bản thì trong chi tiết, những nhận định ấy đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã hoàn toàn thay đổi và sự tiến

triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng được kể ra trong đó.”
10
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Nga xuất bản năm 1882 C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra, nếu
Tuyên ngôn được xuất bản bằng tiếng Nga vào đầu những năm 60 giỏi lắm chỉ là một của lạ về văn chương
mà thôi, thì tình hình ngày nay không còn như thế nữa. Bởi lẽ, “Trong cuộc cách mạng 1848-1849, bọn vua
chúa ở châu Âu cũng hệt như giai cấp tư sản châu Âu, đều coi sự can thiệp của nước Nga là phương tiện
duy nhất để cứu thoát chúng thoát khỏi tay giai cấp vô sản vừa mới bắt đầu giác ngộ về lực lượng của
mình. Chúng tôn Nga Hoàng làm trùm phe phản động châu Âu. Hiện nay Nga Hoàng, ở Ga-tsi-na, đã là tù
binh của cách mạng, và nước Nga đang đi tiên phong trong phong trào cách mạng châu Âu”
11
. “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” ngày nay ở Nga có nhiệm vụ tuyên bố diệt vong không tránh khỏi và sắp xảy ra
của chế độ sở hữu tư sản.
Sau khi phân tích những thay đổi cơ bản của xã hội Nga, C.Mác và Ph.Ăngghen tiên đoán tài tình
rằng “nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách
mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một
sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa.”
12
10
C.Mác và F.Enghen - Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội 1976 - trang 8, 9.
11
S đ d trang 11, 12.
12
S đ d trang 12.
17
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883, Ph.Ăngghen chỉ ra, do C.Mác đã mất nên
không thể nói đến việc sửa lai hay bổ sung Tuyên ngôn nữa. Ph.Ăngghen khẳng định: “Tư tưởng cơ bản và
chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu
phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ cấu của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của
thời đại ấy: do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc

đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai
cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu
tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và giai cấp bị áp bức (tức giai cấp vô sản)
không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức giai cấp tư sản) được nữa, nếu
không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc
đấu tranh giai cấp - Tư tưởng chủ chốt ấy hoàn toàn và tuyệt đối là của C.Mác”
13
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, sau khi chỉ ra sự ra đời và sức sống của
Tuyên ngôn trên thế giới, Ph.Ăngghen giải thích, sở dĩ tên gọi của Tuyên ngôn là “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” mà không gọi là “Tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa” là để phân biệt đây là tuyên ngôn của giai cấp
vô sản giác ngộ chứ không là khát vọng không tưởng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản về xã hội chủ nghĩa.
Ông cũng lại khẳng định, tuy Tuyên ngôn là tác phẩm viết chung, nhưng luận điểm chủ yếu làm hạt nhân
cho sách là của C.Mác.
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1890, Ph.Ăngghen viết: “Vô sản tất cả các nước
doàn kết lại!”. Chỉ có một vài tiếng đáp lại chúng tôi, khi chúng tôi tung lời kêu gọi ấy với thế giới, cách
đây bốn mươi hai năm, ngay trước ngày cuộc cách mạng đầu tiên nổ ra ở Pa Ri, trong đó giai cấp vô sản đã
xuất hiện với những yêu sách của chính mình. Nhưng ngày 28 tháng 9 năm1864, những người vô sản trong
phần lớn các nước Tây Âu đã liên hợp lại để lập ra Hiệp hội lao động quốc tế, một hội mà tên tuổi vẻ vang
được ghi nhớ mãi mãi. Thật ra bản thân Quốc tế chỉ sống có Chín năm. Nhưng sự đoàn kết bất diệt do
Quốc tế đã xây dựng được giữa những người vô sản tất cả các nước vẫn tồn tại và càng mạnh hơn bao giờ
hết. Bởi vì ngày hôm nay, khi tôi viết những dòng này, giai cấp vô sản châu Âu và châu Mỹ đang điểm lại
lực lượng chiến đấu của mình, lực lượng lần đầu tiên được huy động thành một đạo quân duy nhất, dưới
cùng một ngọn cờ và nhằm cùng một mục đích trước mắt là đòi pháp luật quy định ngày làm việc bình
thường là tám giờ, yêu sách đã được tuyên bố từ 1866 tại Đại hội của Quốc tế ở Giơ-ne-vơ và sau này lại
được tuyên bố lần nữa tại Đại hội công nhân ở Pa ri năm 1889. Cảnh tượng ngày hôm nay sẽ chỉ cho bọn tư
bản và bọn địa chủ tất cả các nước thấy rằng những người vô sản tất cả các nước đã thật sự đoàn kết với
nhau.”
14
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Ba Lan xuất bản năm 1892, Ph.Ăngghen chỉ ra ảnh hưởng to lớn và
rộng rãi của Tuyên ngôn trong công nhân châu Âu và sự in mới của Tuyên ngôn bằng tiếng Ba lan là bằng

chứng chứng tỏ yêu cầu ngày càng tăng sự phổ biến về Tuyên ngôn trong công nhân công nghiệp Ba lan.
Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ: “Chỉ có thể có được sự hợp tác quốc tế thành thực giữa các dân tộc châu Âu khi
nào mỗi dân tộc đó là người chủ tuyệt đối trong nhà mình Chỉ có giai cấp vô sản Ba Lan trẻ tuổi mới có
thể giành được nền độc lập đó, và nắm trong tay họ, nền độc lập đó sẽ được bảo vệ chắc chắn.”
15
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Ý xuất bản năm 1893, Ph.Ăngghen viết: “nếu cách mạng 1848
không phải là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thì ít ra nó cũng dọn đường, chuẩn bị địa bàn cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ tư sản đã làm cho đại công nghiệp phát triển ở tất cả các nước thì đồng thời
cũng tạo ra ở khắp nơi, trong bốn mươi lăm năm gần đây, một giai cấp vô sản đông đảo, đoàn kết chặt chẽ
và mạnh; do đó nó đã sinh ra, như Tuyên ngôn đã nói, những người đào huyệt chôn nó Tuyên ngôn hoàn
toàn thừa nhận vai trò cách mạng mà chủ nghĩa tư bản đã đóng trong quá khứ Hiện nay, cũng như năm
13
S đ d trang 13, 14.
14
S đ d trang 31, 32.
15
S d d trang 34, 35.
18
1300, đang mở ra một kỷ nguyên lịch sử mới. Để đời đời truyền tụng sự nảy sinh của kỷ nguyên mới này,
kỷ nguyên vô sản, liệu nước Ý có cung cấp được cho chúng ta một Đan-tơ mới chăng?”
16
2. Mở đầu.
Chỉ với 26 dòng, lời mở đầu đã thể hiện tính khoa học và tính chiến đấu của “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN đa được tất ca các
thế lực Giáo hoàng, Nga hoàng, bọn cấp tiến Pháp, bọn cảnh sát Đức ở châu Âu thừa nhận là một thế lực,
chứ không còn là một bóng ma đang ám ảnh châu Âu. Do đó đã đến lúc những người cộng sản phải công
khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích và ý đồ của mình để đập lại câu chuyện
hoang đường về bóng ma cộng sản.
3. Chương 1: Tư sản và Vô sản
Trong chương này, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nêu lên sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai

cấp vô sản - hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản; sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cùng với giai
cấp tư sản. Hai ông đã làm rõ:
- Lịch sử xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã cho đến nay là lịch sử đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp bị áp bức, bóc lột với giai cấp bóc lột, thống trị. Cuộc đấu tranh ấy diễn ra
không ngừng và kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu
tranh với nhau. Trong xã hội tư sản hiện đại, cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản hiện đại với giai cấp tư
sản dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã làm rõ vai trò lịch sử của hai giai cấp tư sản và vô sản hiện
đại.
Giai cấp tư sản là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của một loạt các cuộc cách mạng
trong phương thức sản xuất và trao đổi. Khi mới ra đời giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng
trong lịch sử. Nó đại diện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất đang lên, đánh đổ sự thống trị của giai
cấp phong kiến, thiết lập nền chuyên chính tư sản thực hiện những tiến bộ xã hội. “Chưa đầy một thế kỷ,
giai cấp tư sản thống trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của
tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Đại diện cho lực lượng sản xuất mới, giai cấp tư sản đã đập tan xiềng
xích của chế độ phong kiến, thay vào đó là chế độ tự do cạnh tranh thích hợp với sự thống trị về chính trị
của giai cấp tư sản. Là một giai cấp tư hữu bóc lột, nên vai trò của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu,
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời. Giai cấp tư
sản không những đã rèn vũ khí để giết mình, mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy để đánh đổ
chính bản thân giai cấp tư sản: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì
ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ
khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô
sản”
17
.
Giai cấp vô sản hiên đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và và sáng tạo ra
một xã hội mới tốt đẹp hơn. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai
cấp vô sản trong lịch sử quy định. Giai cấp vô sản hoàn toàn có khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế
giới của mình, do họ là giai cấp tiên tiến gắn liền với nền đại công nghiệp, lớn lên cùng nền đại công
nghiệp; là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại biểu cho xu hướng tiến lên của đại công nghiêp. Họ là

giai cấp thực sự cách mạng, dưới chủ nghĩa tư bản những người vô sản bị tước hết mọi tư liệu sản xuất nên
họ chẳng có gì là của riêng mình để bảo vệ cả. Muốn giải phóng, họ phải phá huỷ hết thảy những gì từ
trước đến nay vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư hữu.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, trước hết là phải thanh toán xong giai cấp tư sản
trong nước mình, đánh đổ toàn bộ sự thống trị của giai cấp tư sản cả về kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp
16
Sdd trang 37, 38.
17
S dd trang 54.
19
luật mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số nhân dân, sau đó tiến lên hoàn thành sự nghiệp giải phóng thế giới
khỏi ách áp bức bóc lột giai cấp.
- Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản diễn ra ngay tư khi giai cấp vô sản mới
ra đời và phát triển đi từ thấp đến cao, từ tự phát lên tự giác. Thắng lợi của giai cấp vô sản trong cuộc đấu
tranh chống lại giai cấp tư sản là tất yếu. Cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đến bùng nổ cách mạng công khai, giai
cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực cách mạng lật đổ giai cấp tư sản. “Sự sụp
đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau”
18
. Kết luận này của hai ông
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” không những vững vàng và khoa học mà còn sâu sắc về chính trị.
4. Chương 2: Những người vô sản và những người cộng sản.
Trong chương này hai ông tập trung trình bày về tính giai cấp của Đảng Cộng sản, mối quan hệ
giữa Đảng và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học, một số nguyên lý chiến
lược và sách lược cách mạng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tính chất giai cấp của Đảng Cộng sản và quan hệ giữa Đảng với giai cấp: Đảng là đội quân tiên
phong, bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp vô sản.
Về mặt lý luận Đảng có ưu thế hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ có nhận thức sáng suốt
về điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.
Về mặt thực tiễn, Đảng là bộ phận kiên quyết nhất bao giờ cũng cổ vũ phong trào vô sản tiến lên
giành thắng lợi; Đảng là bộ phận không tách rời giai cấp, luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp và đại biểu cho

lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Phải có Đảng lãnh đạo giai cấp vô sản mới là tròn sứ mệnh lịch sử
của mình. Nhiệm vụ của Đảng trước hết là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị
của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền.
Tóm lại, Đảng là bộ phận gắn liền với giai cấp vô sản, là bộ phận tiên tiến nhất và kiên quyết cách
mạng nhất của giai cấp vô sản, Có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp vô sản mới hoàn thành được sứ mệnh
lịch sử thế giới của mình.
- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học:
Về sở hữu: hai ông cho rằng, tư bản vận động được là nhờ sự hoạt động chung của xã hội. Do đó
việc biến tư bản thành sở hữu chung chỉ có nghĩa là thay đổi tính chất giai cấp của nó - giải phóng lực
lượng sản xuất có trình độ xã hội hoá cao. Hai ông tuyên bố xoá bỏ mọi chế độ tư hữu và thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
Về vấn đề tự do cá nhân, hai ông tuyên bố phải xoá bỏ cá tính tư sản, tính độc lập tư sản và tự do tư
sản, thứ tự do buôn bán và bóc lột sức lao động của người khác.
Về vấn đề gia đình, hai ông khẳng định những người cộng sản chủ trương xoá bỏ gia đình tư sản,
bởi lẽ quan hệ gia đình tư sản dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân nhà tư sản, người phụ nữ bị coi như là một
công cụ sản xuất, cha mẹ bóc lột con cái, cộng thê, mãi dâm chính thức và không chính thức. Chưa thỏa
mãn với việc phá hoại hạnh phúc của những người vô sản, họ còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm thú vui
đặc biệt.
Về vấn đề giáo dục: Người cộng sản không bịa ra tác động của xã hội đối với giáo dục, vì nó là cái
vốn sẵn có, mà chỉ thay đổi tính chất của sự tác động ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư
sản mà thôi.
Về vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định dưới chủ
nghĩa tư bản giai cấp vô sản và nhân dân lao động không có tổ quốc, bởi mọi quyền đại diện tổ quốc, dân
tộc và tất cả các lợi ích khác đều do giai cấp tư sản nắm giữ. Chính thế, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết
phải tự mình thành giai cấp dân tộc, phải tự mình thành dân tộc nhưng không phải theo kiểu như giai cấp tư
18
S dd trang 65.
20
sản hiểu. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cũng khẳng định: “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp
trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”. Không có

độc lập, thống nhất cho từng dân tộc thì không thể thực hiện được sự liên hợp quốc tế của giai cấp vô sản.
Về vấn đề tôn giáo, triết học và những quan điểm ý thức tư tưởng nói chung, “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” quan niệm đó là công cụ thống trị về tinh thần của các giai cấp bóc lột thống trị, dưới chủ
nghĩa tư bản nó nói lên thời kỳ thống trị của cạnh tranh tự do trong lĩnh vực tri thức mà thôi. “Cách mạng
cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền, không có gì đáng lấy làm lạ
khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ
truyền”.
- Những nguyên lý chiến lược và sách lược cách mạng:
Cách mạng CSCN phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1, Phải xây dựng giai cấp vô sản thành
giai cấp thống trị. Sau khi nắm được chính quyền giai cấp vô sản phải dùng thế lực chính trị của mình tập
trung phát triển lực lượng sản xuất đồng thời với việc phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” cũng đã nêu ra 10 biện pháp cụ thể
19
mà C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng có thể
áp dụng ở những nước tư bản phát triển nhất lúc bấy giờ nhằm cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới.
Trong đó, sáu biện pháp đầu nói về cách mạng quan hệ sản xuất như tước đoạt sở hữu ruộng đất, đánh thuế
luỹ tiến, xoá bỏ quyền thừa kế, tập trung tín dụng vào ngân hàng nhà nước, tập trung phương tiện vận tải
quan trọng vào tay nhà nước Ba biện pháp tiếp theo nói về phát triển lực lượng sản xuất như tăng cường
các xí nghiệp quốc doanh, tiến hành khai hoang cải tạo ruộng đất, thi hành nghĩa vụ lao động, kết hợp lao
động nông nghiệp với lao động công nghiệp, xoá dần khoảng cách giữa thành thị với nông thôn Biện
pháp thứ mười nói về giáo dục công cộng và kết hợp giáo dục với sản xuất. Trong mười biện pháp trên,
cho đến nay nhiều biện pháp còn mang đầy đủ tính hiện thực phổ biến của nó đối với con đường lên chủ
nghĩa xã hội ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Giai đoạn 2, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã phác hoạ ra xã hội Cộng sản trong tương lai. Ở
đó không còn giai cấp và không còn đấu tranh giai cấp. Nhà nước với tư cách là bộ máy thống trị giai cấp
cũng không còn nữa. Một thế liên hợp của người lao động phát triển toàn diện xuất hiện, trong đó “sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Về Cách mạng phát triển không ngừng: Điều này có liên quan đến lời tựa hai ông viết năm 1882
“Nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy
bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến

triển cộng sản chủ nghĩa”.
Về vấn đề chính quyền nhà nước “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” coi nó là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, hai ông chưa dùng đến thuật ngữ chuyên chính
vô sản, nhưng tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được diễn đạt một cách rõ ràng qua các thuật ngữ “Giai
cấp vô sản nắm chính quyền”, “giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị”. Sau này, trong thư
gửi Vây-ơ-đờ-mây-e ngày 5/3/1852 C.Mác đã sử dụng khái niệm “chuyên chính vô sản” - một trong những
nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
5. Chương 3: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Trong chương này, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” tập trung phân tích, phê phán những trào lưu
xã hội chủ nghĩa phi vô sản nhằm bảo đảm thắng lợi cho việc truyền bá học thuyết chủ nghĩa cộng sản
khoa học vào phong trào công nhân. Tinh thần, thái độ, phương pháp phân tích, phê phán của hai ông đối
với các trào lưu văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa phi mac-xít luôn là cơ sở khoa học giúp
chúng ta phân biệt ranh giới giữa chủ nghĩa cộng sản khoa học với các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản
động, phản bội, cải lương, xét lại, không tưởng hiện nay.
19
Xem sdd trang 79, 80.
21
- Hai ông vạch rõ tính chất phản động kéo lùi lịch sử, chống lại phong trào cộng sản của các trào
lưu xã hội chủ nghĩa phong kiến và tiểu tư sản:
Chủ nghĩa xã hội phong kiến là thứ văn học của bọn quý tộc phong kiến bị gạt khỏi địa vị thống trị
bởi giai cấp tư sản. Bọn này một mặt giơ cái bị ăn mày lên làm cớ để lôi kéo nhân dân, mặt khác lại “không
bỏ qua cơ hội để lượm lấy những quả táo bằng vàng và đem lòng trung thành, tình yêu và danh dự mà đổi
lấy việc buôn bán len, củ cải đường và rượi mạnh.”
20
Chủ nghĩa xã hội của Cơ đốc giáo là thứ chủ nghĩa xã hội đi sát với chủ nghĩa xã hội phong kiến,
nó là thứ nước thánh mà bọn thầy tu dùng để xức cho nỗi giận hờn của bọn quý tộc phong kiến và phủ lên
chủ nghĩa khổ hạnh một lớp sơn xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản tuy phân tích sâu những mâu thuẫn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
nhưng nó có tính chất không tưởng và có tính chất phản động. Tính chất phản động tiêu biểu của nó là
muốn đem nền sản xuất đại công nghiệp đặt vào trong chiếc áo chật hẹp của chủ nghĩa phường hội, và về

sau trào lưu này chỉ còn là những lời oán thán hèn nhát.
Chủ nghĩa xã hội chân chính Đức chỉ là sự cưỡng hôn giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa Pháp với
Triết học Đức. Nó là loại văn học bẩn thỉu và khó chịu. Một mặt nó là thứ ngáo ộp mà giai cấp tiểu tư sản
hằng mơ ước để dọa lại giai cấp tư sản. Mặt khác nó là thứ vũ khí trong tay chính phủ chuyên chế Đức để
chống lại giai cấp tư sản non trẻ và đem “cái lối giả nhân giả nghĩa đường mật của nó bổ sung cho roi vọt
và súng đạn mà những chính phủ ấy đã dùng để trấn áp những cuộc khởi nghĩa của công nhân Đức”
21
.
- Hai ông phân tích và phê phán chủ nghĩa xã hội bảo thủ (chủ nghĩa xã hội tư sản). Hai ông coi tư
tưởng xã hội chủ nghĩa của giai cấp tư sản là bảo thủ, bởi lẽ nó muốn duy trì chủ nghĩa tư bản chứ không
kéo lùi lịch sử như các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác. Loại chủ nghĩa xã hội này do đủ loại các nhà cải
lương ngồi xó buồng nặn ra nhằm chữa bệnh cho xã hội tư bản, hy vọng tẩy trừ được những yếu tố làm cho
xã hội tư bản tan rã. Nội dung chủ nghĩa xã hội bảo thủ có thể tóm lại là “sở dĩ những người tư sản là
những người tư sản, đó là vì lợi ích của giai cấp công nhân”
22
. Có nghĩa chúng thừa nhận sự tồn tại của giai
cấp tư sản là vì lợi ích của giai cấp vô sản.
- Với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tưởng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX theo
đánh giá của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” thì:
+ Họ đả kích mạnh mẽ xã hội đương thời và vẽ lên bức tranh toàn cảnh về một xã hội tương lai hợp
với nguyện vọng bản năng đầu tiên của giai cấp vô sản, góp phần thức tỉnh cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản.
+ Họ nêu lên những đề nghị tích cực, những dự kiến rất có giá trị về một xã hội tương lai, trong đó
có những luận điểm mà sau này hai ông kế thừa, phát triển thành những luận điểm của chủ nghĩa cộng sản
khoa học.
+ Tuy nhiên những biện pháp thực hiện lại không mang tính cách mạng. Họ chỉ bằng những hành
động gương mẫu, những cuộc thí nghiệm nhỏ, những lời kêu gọi lòng từ thiện của những người giàu có
+ Những hạn chế này của họ là do những điều kiện vật chất cần thiết cho sự giải phóng của giai cấp
vô sản chưa đầy đủ và những người đại biểu cho cho trào lưu tư tưởng này chưa thấy được sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản. Chính vậy, họ đã đi tìm một khoa học xã hội ở ngoài xã hội, lấy tài ba cá nhân thay thế

cho hoạt động xã hội, lấy những điều tưởng tượng chủ quan thay thế cho những điều kiện lịch sử cụ thể,
đem một xã hội hoàn thiện, hoàn mỹ hư cấu từ trong tư duy chụp lên xã hội hiện tại. Những đề nghị, những
biện pháp của họ dù vĩ đại cũng chỉ là ước mơ.
20
S dd trang 83.
21
S dd trang 89, 90.
22
S dd trang 93.
22
+ Khi phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản mới bắt đầu thì họ là những nhà cách mạng xét về
nhiều phương diện. Nhưng khi phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trở nên quyết
liệt thì các môn đồ của họ trở thành những kẻ thông thái rởm một cách có hệ thống, những kẻ bảo thủ và
phản động. Chẳng hạn tông phái Rô-bet Ô-oen chống lại phong trào Hiến Chương ở Anh, tông phái Sác-lơ
Phu-ri-ê chống lại phái Cải cách ở Pháp
6. Chương 4: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập.
Trong chương này hai ông khẳng định lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về những vấn đề
chiến lược và sách lược mềm dẻo của Đảng đối với các Đảng Xã hội-Dân chủ Tư sản hoặc Tiểu tư sản
đang đối lập với các thế lực phản động cầm quyền ở các nước Pháp, Thuỵ Sỹ, Đức, Ba Lan lúc bấy giờ.
Ở đây đã thể hiện tư tưởng cách mạng không ngừng, có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược đối với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế và là kim chỉ nam soi sáng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có
trình độ chậm phát triển về kinh tế:
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định: Những người cộng sản chiến đấu cho những mục
đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại họ cũng bảo
vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào.
- Trong khi liên hợp với các Đảng phái để chống lại thế lực phản động đang thống trị những người
cộng sản vẫn giành cho mình quyền phê phán những lời nói suông, những ảo tưởng và “không giờ phút nào
Đảng Cộng sản lại quên gây cho công nhân một ý thức sáng suốt và rõ ràng về sự đối kháng kịch liệt giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”
23

, để sau khi thanh toán xong các thế lực phản động thống trị là có thể
tiến hành ngay cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
- Mục đích của những người cộng sản chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật
tự xã hội hiện có. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản không mất gì hết ngoài những xiềng xích
trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy họ giành được cả một thế giới về mình.
IV KẾT LUẬN
“VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI”. Kết luận đầy niềm tin và khẩu hiệu chiến đấu
đầy sức mạnh của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” luôn vang lên như hồi kèn xung trận của giai cấp vô
sản trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa tư bản vì thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là tác phẩm đầu tiên trong số các tác phẩm kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin mà sinh viên cần phải được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh và sâu sắc theo
quyết định số 472-QĐ ngày 20 tháng 05 năm 1985 của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (Nay là Bộ
GD và ĐT).
Ngày 18 tháng 03 năm 1848 tác phẩm này đã được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng, cho đến nay trên
thế giới nó đã được tái bản trên 150 lần. Từ những năm 1929 - 1930 nó đã được các chiến sỹ cộng sản Việt
Nam chuyền tay nhau nghiên cứu, kể cả trong hoàn cảnh bị Pháp giam cầm, và đến nay nó đã được tái bản
ở Việt Nam lần thứ 15. Tư tưởng chủ đạo và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học của
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” luôn là bó đuốc soi đường, là kim chỉ nam hành động, bảo đảm cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu và nắm vững
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có ý nghĩa thiết
thực, quan trọng, góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa học, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình
độ tự giác chấp hành các đường lối chính sách của Đảng.
Khi nghiên cứu “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cần nắm vững hoàn cảnh ra đời, những tư tưởng
cơ bản, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày
trong tuyên ngôn để soi đường cho nhận thức khoa học và phương pháp tư duy của mình. Không thần bí
23
S dd trang 100.
23
hoá nó, không coi những nguyên lý đó là những tín điều bất di bất dịch rồi mang khuôn mẫu đó chụp lên

hiện tại bất chấp mọi sự đổi thay của hoàn cảnh lịch sử. Mặt khác từ những tư tưởng cơ bản và những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” mà xem xét sự
vận động của nó ở Việt Nam và trên thế giới. Trên cơ sở đó hiểu rõ hơn giá trị chỉ đạo của “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản”, khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo của cách mạng Việt Nam trong Luận cương của
Đảng năm 1930 và các Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, nâng cao trình độ tự giác chấp
hành các đường lối, chính sách của Đảng.
Câu hỏi ôn tập:
1- Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”?
2- Những nội dung cơ bản của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”?
3- Những nội dung cơ bản của chương “Tư sản và Vô sản” của tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”?
4- Những nội dung cơ bản của chương “Những người vô sản và những người cộng sản” của tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”?
5- Nêu và phân tích những nội dung cơ bản và ý nghĩa của chương “Văn học xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa” của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”?
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “LUDWIG FEUER BACH - SỰ CÁO CHUNG CỦA TRIẾT
HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC” CỦA F.ENGHEN
I. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của tác phẩm.
- Tác phẩm “Ludwig Feuerbach - sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” đã được F.Enghen viết
vào năm 1886, nhân việc ban biên tập tạp chí “Neue Zeit” đề nghị ông viết bài phê bình cuốn sách của
Starcke nói về Ludwig Feuerbach. Nhưng trong tác phẩm này F.Enghen không tập trung phê phán cuốn
sách của Starcke, mà trình bày một cách khái quát, có hệ thống quan hệ của Ông và C.Mac với các triết
thuyết của Heghen và Ludwig Feuerbach, vạch ra bước chuyển biến cách mạng trong lĩnh vực triết học do
C.Mac và F.Enghen thực hiện.
- Tác phẩm này là một cần thiết, do lúc này ở Đức, triết học cổ điển đang sống lại dưới nhiều hình
thức khác nhau.
- Đây là tác phẩm quan trọng nhất trong kho tàng lý luận triết học Mác-Lênin. Nó trình bày một
cách có hệ thống những quan điểm cơ bản của triết học Mác. Theo Lênin, đây là một trong những cuốn
sách gối đầu giường của công nhân giác ngộ.
II. Bố cục của tác phẩm.

Tác phẩm này hiện được đăng trong Tuyển tập C.Mac và F.Enghen - Tập VI - Nhà xuất bản Sự
Thật - Hà Nội 1984 - Trang 353 - 422 và được đăng trong C.Mac và F.Enghen toàn tập - Tập 21 - Trang
259 - 307.
Tác phẩm gồm Lời tựa viết năm 1888 và bốn phần được phân bố như sau:
- Lời tựa 1888 từ trang 357 đến 359.
- Phần I từ trang 360 đến 372.
- Phần II từ trang 372 đến trang 386.
- Phần III từ trang 386 đến trang 397.
- Phần IV từ trang 397 đến trang 422.
III. Những nội dung cơ bản của tác phẩm.
24
1- Lời tựa viết năm 1888.
F.Enghen nêu ra sự cần thiết phải viết tác phẩm “Ludwig Feuerbach sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức”, trình bày một cách vắn tắt có hệ thống quan hệ của C.Mac và F.Enghen với triết học của
Heghen (xuất phát và đoạn tuyệt với nó như thế nào?) và triết học của Ludwig Feuerbach (ảnh hưởng lớn
thứ hai sau Heghen).
F.Enghen viết: “Trong bài tựa quyển Góp phần phê phán chính trị kinh tế học xuất bản ở Béc-linh
năm 1859, Mác kể lại việc năm 1845 ở Bơ-ru-xen, hai chúng tôi quyết định như thế nào để “cùng nhau xây
dựng quan điểm của hai chúng tôi” (tức là quan niệm duy vật lịch sử, chủ yếu do Mác nêu lên) “đối lập với
quan điểm tư tưởng của triết học Đức; thực ra làm như thế là để thanh toán nhận thức triết học của chúng
tôi trước kia. Ý định đó đã được thực hiện dưới hình thức phê phán nền triết học sau Hêghen. Bản thảo
gồm hai quyển dày theo khổ giấy gấp làm 8, đã nằm trong tay nhà xuất bản ở Ve-spha-li từ lâu, nhưng lúc
đó người ta lại báo cho chúng tôi biết rằng tình hình đã thay đổi nên không thể in được. Chúng tôi càng sẵn
sàng để bản thảo đó cho chuột phê phán bằng cách gậm nhấm, nhất là vì chúng tôi đã đạt được mục đích
chủ yếu tức là đã giải thích được rõ vấn đề cho bản thân mình”
Từ đó đến nay, đã hơn bốn mươi năm hiện nay Mác đã qua đời, Mác cũng như tôi, không lần nào
có dịp trở lại vấn đề đó nữa. Về thái độ của chúng tôi đối với Hêghen, chúng tôi đã phát biểu nhiều lần,
nhưng không chỗ nào chúng tôi làm được một cách đầy đủ cả. Còn về Phơ Bách, người mà tuy về mặt nào
đó, là cái khâu trung gian giữa triết học Hêghen với lý luận của chúng tôi, thì chúng tôi chưa hề bao giờ trở
lại nói đến cả.

Trong thời gian đó, thế giới quan của Mác đã có nhiều người tán thành ở xa ngoài biên giới nước
Đức và châu Âu, và bằng tất cả các ngôn ngữ văn học trên thế giới. Mặt khác ở nước ngoài, đặc biệt là ở
Anh và ở các nước Scan-đi-na-vơ, nền triết học cổ điển Đức hiện nay đang sống lại bằng một cách nào đó.
Và hình như ngay cả ở Đức, người ta đã bắt đầu chán món xúp chiết trung nghèo nàn mà người ta vẫn đem
cung cấp trong các trường đại học dưới nhãn hiệu triết học.
Do hoàn cảnh đó, tôi càng thấy là đã đến lúc cần phải trình bày vắn tắt và có hệ thống thái độ của
chúng tôi đối với triết học của Hêghen, tức là trình bày việc chúng tôi đã xuất phát từ triết học của Hêghen
như thế nào và chúng tôi đã đoạn tuyệt với nó ra làm sao. Và chúng tôi cũng cần phải thừa nhận đầy đủ
rằng trong thời kỳ đầy bão tố của chúng tôi, Phơ-bách đã ảnh hưởng đến chúng tôi nhiều hơn bất cứ một
nhà triết học nào khác sau Hêghen; đó là món nợ danh dự mà chúng tôi vẫn chưa trả được. Bởi thế, tôi vui
lòng nhận lời của ban biên tập tạp chí “Neue Zeit” (Thời Mới) viết bài phê bình cuốn sách của Stác-cơ nói
về Phơ-bách. Bài của tôi viết, đăng trong các số 4 và 5 của tờ tạp chí nói trên, ra năm 1886, nay xuất bản
thành sách sau khi đã được tôi xem lại.”
24
Theo F.Enghen thì tác phẩm in tháng 2 năm 1888 là bản đính chính bổ sung bản thảo đã đăng báo
năm 1886. Đây là sự kế thừa và phát triển bản thảo 1845 - 1846 và bút ký của C.Mác về 11 luận cương của
Ludwig Feuerbach (Xem phần phụ lục của tác phẩm trang 81 đến 85 hoặc trong Tuyển tập C.Mac và
F.Enghen - Tập I - Trang 252-258)
2- Phần I.
Trong phần này F.Enghen đã đánh giá những cống hiến của Heghen về sự phát triển triết học đồng
thời chỉ ra những mâu thuẫn trong triết học Heghen và vai trò của chủ nghĩa duy vật của Ludwig
Feuerbach.
- Tính cách mạng của triết học Heghen là: Nó giáng một đòn chí mạng vào quan niệm về đích cuối
cùng tuyệt đối của tư tưởng và hoạt động của con người. Theo Heghen, chân lý mà triết học có nhiệm vụ
phải nhận thức giờ đây không còn là tập hợp những nguyên lý giáo điều có sẵn để con người học thuộc
lòng khi tìm ra được. Từ Heghen, chân lý là chân lý nằm trong quá trình nhận thức, trong sự phát triển lịch
24
Ăng-ghen - Lut vích Phơ bách sự cáo chung của triết học cổ điển Đức -Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1969 -
Trang 5,6,7.
25

×