Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại ngân hàng phát triển nông thôn chi nhánh Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

NGUYỄN MAI QUỲNH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
HÀ NỘI – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

NGUYỄN MAI QUỲNH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60340102
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS Đồng Xuân Ninh
HÀ NỘI – 2015
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp này là do tự bản thân thực hiện có
sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn và không sao chép các công trình nghiên
cứu của người khác. Các dữ liệu thông tin sử dụng trong Luận văn là có
nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!
Học viên
Nguyễn Mai Quỳnh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đồng Xuân Ninh,
người đã dành nhiều thời gian để hướng dẫn tôi hoàn thành bài luận
văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô trong Khoa Kinh tế - Quản
lý, trường Đại học Thăng Long đã cung cấp cho tôi kiến thức trong
suốt thời gian học tập tại trường và những ý kiến đóng góp cho luận
văn này.
Tôi xin cảm ơn các anh chị trong Phòng Sau đại học & Quản
lý Khoa học, trường Đại học Thăng Long đã giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Tôi xin cảm ơn Ban lãnh đạo và các cán bộ công nhân viên
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Đống
Đa đã cung cấp cho tôi số liệu và xin ý kiến về các vấn đề liên quan
đến nguồn nhân lực tại chi nhánh Đống Đa để tôi toàn thành bài
luận văn này.
Tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ,
tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành bài luận văn.
Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNo&PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NH: Ngân hàng
CBCNV: Cán bộ công nhân viên
NHTM: Ngân hàng thương mại
GD&ĐT: Giáo dục và đào tạo
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
TMCP: Thương mại cổ phần
NNL: Nguồn nhân lực
PGĐ: Phó giám đốc

APEC: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
DANH MỤC BẢNG BIỂU - SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức quản lý của NHNo&PTNT chi nhánh
Đống Đa Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố rất cần thiết, quyết định đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với một loại hình doanh
nghiệp đặc biệt như ngân hàng thương mại thì nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết.
Với nhận thức đó NHNo&PTNT chi nhánh Đống Đa đặc biệt chú trọng
tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhờ đó những thành công mà chi
nhánh đạt được là rất đáng kể.
Tuy nhiên, so với yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực của chi nhánh
vẫn được coi là thấp. Nếu như tình trạng này không sớm được cải thiện thì sự
phát triển bền vững của chi nhánh sẽ khó được đảm bảo.
Bởi vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi cấp bách
đối với chi nhánh.
Xuất phát từ ý nghĩa và vai trò quan trọng trên, tác giả lựa chọn đề tài :
“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại NHNo&PTNT chi nhánh Đống
Đa”làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu và các câu hỏi đặt ra
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và kiến nghị với cơ quan chức
năng có thẩm quyền nhằm hỗ trợ chi nhánh.
Để thực hiện mục tiêu đó, nhiệm vụ của luận văn là hệ thống hóa
những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng nguồn nhân lực, nêu được thực
trạng chất lượng nguồn nhân lực và phân tích thực trạng nguồn nhân lực tại
NHNo&PTNT chi nhánh Đống Đa. Từ đó hoàn thiện các giải pháp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của chi nhánh Đống Đa.

2.2 Câu hỏi nghiên cứu đặt ra
1
- Thế nào là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và được thể hiện ở
ngành ngân hàng như thế nào?
- Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào những yếu tố nào?
- Tại sao phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực?
- Nguồn nhân lực của NHNo&PTNT chi nhánh Đống Đa có những đặc
điểm gì?
- Nguồn nhân lực chất lượng cao được thể hiện ở các tiêu chí nào?
- Tác động của chính sách thu hút, đào tạo, phát triển và duy trì nguồn nhân
lực đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực?
- Những yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực?
- Các giải pháp trực tiếp và gián tiếp góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực là các giải pháp gì?
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là chất lượng nguồn nhân lực của NHNo&PTNT chi nhánh Đống Đa
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại
NHNo&PTNT chi nhánh Đống Đa từ tháng 01/2011 đến tháng 01/2014 và
kiến nghị đến những năm tới.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp so sánh và chuyên khảo
Phương pháp định tính và định lượng
Phương pháp điều tra, chọn mẫu và kế thừa có chọn lọc
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài luận văn
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản chất lượng nguồn nhân lực.
Đặc biệt, phân tích các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.

2
Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của
NHNo&PTNT chi nhánh Đống Đa.
Phân tích những nguyên nhân cơ bản liên quan đến chất lượng nguồn
nhân lực của chi nhánh để đáp ứng với yêu cầu đặt ra.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
của NHNo&PTNT chi nhánh Đống Đa.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và các phần khác. Luận
văn được kết cấu 3 chương
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NHTM
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NHNo&PTNT CHI
NHÁNH ĐỐNG ĐA
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC TẠI NHNo&PTNT CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NHTM
1.1 Sự cần thiết của nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và một
số khái niệm cơ bản
3
1.1.1 Sự cần thiết của nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, nguồn nhân lực
là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển của đất nước và sự sống
còn của các doanh nghiệp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam ngày càng sâu rộng, thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của
toàn xã hội trong đó có doanh nghiệp là tất yếu khách quan. Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực là một trong những nội dung trong chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một đột phá chiến lược, yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển vào ứng dụng
khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và
cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực,
ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng
lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu
cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao
đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi
dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”
[11;214-215].
Trong từng giai đoạn mà nhận thức của Đảng ta về nguồn nhân lực có
những khác biệt sao cho phù hợp với sự phát triển chung của xã hội, kế thừa ở
các Đại hội trước đó là con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tại
4
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng cũng có nhận định về nguồn lực
con người như sau: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi
con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phải
bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người
được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ
mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực
phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng

và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân,
thực hiện công bằng xã hội” [11;218-219]. Nhận định đó đã khẳng định con
người là chủ thể của sự phát triển và tạo mọi điều kiện cho con người phát
triển.
Vấn đề đặt ra là phát triển nguồn nhân lực phải đi đôi với sự phát triển
của ứng dụng khoa học công nghệ vào lao động, sản xuất. Đây là nội dung
đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu
chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập và phát triển.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc đi tìm kiếm
nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đáp ứng nhu cầu công việc cao
bởi xuất phát từ chỗ nguồn nhân lực không có trình độ, không được đào tạo bài
bản hoặc được đào tạo nhưng chưa cao, do đó lao động sau khi ra trường kiến
thức chuyên môn kém, khả năng thực hành chưa thành thạo, thiếu năng lực sáng
tạo, không đáp ứng được nhu cầu làm việc của các doanh nghiệp.
Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng, nguồn nhân lực dồi dào
nhưng thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, do đó ít có cơ hội và
điều kiện phát triển.
5
Theo các chuyên gia kinh tế và các nhà xã hội học, sự thiếu hụt lao
động có chất xám ở nước ta do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân đầu
tiên là do tình hình kinh tế - xã hội nước ta phát triển nhanh, nhất là từ sau đổi
mới, trong khi đó hệ thống GD&ĐT lại đổi mới quá chậm. Nền kinh tế đất
nước đã vận hành theo quy luật cung - cầu, cạnh tranh trong một sân chơi
chung với những luật chơi bắt buộc. Thế nhưng, hệ thống GD&ĐT vẫn còn
theo lối chủ quan, duy ý chí, lạc hậu, không theo sát, theo kịp với thực tiễn.
Chính sách đãi ngộ, sử dụng của Nhà nước chưa thỏa đáng ví dụ như:
Một sinh viên tốt nghiệp đại học ra trường, vào làm việc trong một cơ quan
nhà nước, với mức lương khởi điểm chỉ khoảng 2 triệu đồng thì thật là khó
chấp nhận. Do đó, hiện tượng chảy máu chất xám ngày càng tăng. Nhân lực

được đào tạo bài bản trong nước thường tìm việc ở những công ty nước ngoài.
Nhiều du học sinh Việt Nam sau khi tốt nghiệp cũng thường tìm cách ở lại
nước ngoài làm việc. Hiện nay, trong cuộc cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực
có trình độ cao, lợi thế đã nghiêng về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, do
chính sách lương bổng và những phúc lợi ở khu vực này thường cao hơn khu
vực trong nước. Mặt khác, lao động chất xám làm việc trong các công ty nước
ngoài thường được giao công việc với trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng, được
quyết định trong phạm vi tương đối rộng, qua đó có thể phát huy được tính
năng động, sáng tạo trong công việc.
Hội nhập và phát triển là xu hướng tất yếu của các quốc gia và doanh
nghiệp trong giai đoạn hiện nay, đây là cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp
phát triển nhưng quan trọng nhất là nguồn nhân lực phải có trình độ chuyên môn
kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu, năng lực thực hiện công việc ứng dụng vào khoa học
kỹ thuật hiện đại. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp cần chủ động hội nhập nền kinh
tế quốc tế, qua đó phải đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong doanh nghiệp.
6
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay đang có sự
chuyển dịch từ chỗ khai thác nguồn lực tự nhiên với lao động cơ bắp là chủ
yếu sang lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có trí tuệ.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm tìm ra đội ngũ lao động có sức
khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt,
đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đất nước.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho các ngành như sau: “Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước…Xây dựng

và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh
vực mũi nhọn”[11;220-221]. Nhằm kế thừa, phát triển các nội dung từ các kỳ
Đại hội Đảng trước và khẳng định rõ hơn, nhân lực là vấn đề đặc biệt quan
trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 6 về Phát triển nguồn nhân
lực khai mạc sáng 6/9/2014 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
khẳng định rất rõ về tầm quan trọng của nguồn nhân lực: “Với vai trò và vị trí
qua trọng của mình, APEC cần tăng cường hơn nữa các hoạt động liên kết,
hợp tác trên cơ sở chia sẻ kinh nghiệm nhất là trong phát triển nguồn nhân
lực, khuyến khích sự năng động, sáng tạo và tăng cường kết nối con người.
Coi đó là những biện pháp quan trọng để tái cơ cấu, phục hồi, tăng trưởng
kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và phát triển con
người”[6;112-113].
1.1.2 Một số khái niệm cơ bản
7
1.1.2.1 Khái niệm nhân lực
Nhân lực được hiểu là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm
cho con người hoạt động trong cuộc sống. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng
với sự phát triển của cơ thể con người và đạt đến một mức độ nào đó thì con
người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động”. Khi đặt con người là nhân tố trung
tâm của sự phát triển Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[12;313].
Nhân lực có nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Nghĩa rộng: Nhân lực là dân số sống trong một quốc gia, khu vực, địa
phương, được đăng ký thường trú trên một địa phương nhất định.
Nghĩa hẹp: Nhân lực là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động do pháp
luật quy định độ tuổi tham gia vào quá trình lao động, sản xuất.
Từ các quan điểm và nhận định trên, tác giả đi đến một nhận định chung về

nhân lực như sau: Nhân lực là tổng hợp tất cả các cá nhân, có kiến thức, kỹ năng
chuyên môn, hành vi ứng xử và giá trị đạo đức để hình thành, duy trì và đóng góp
vào sự phát triển chung của tổ chức, doanh nghiệp, xã hội.
1.1.2.2 Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy doanh ngh
iệ
p cần phải quan
tâm đến vấn đề nguồn nhân lực.
Thuật ngữ nguồn nhân lực (Hurman resourses) xuất hiện lần đầu vào đầu
những năm 80 thế kỷ XX khi có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý hiện
đại, lấy con người tức nhân viên làm trung tâm. Nếu như trước đây, phương thức
quản trị nhân viên (personnel management) với các đặc trưng coi nhân viên là lực
lượng phụ thuộc, cần phải khai thác tối đa sức lao động của họ và mức thù lao tối
8
thiểu, thì những năm 80 trở lại đây, các nhà quản lý đã sử dụng phương thức mới
với tính chất linh hoạt và mềm dẻo từ đó tạo điều kiện cho người lao động được
phát huy cao nhất khả năng làm việc của cá nhân.
Với sự xuất hiện của thuật ngữ “nguồn nhân lực” đã thể hiện cho sự
thắng lợi của phương thức quản lý mới so với phương thức quản lý cũ trong
việc sử dụng lao động hợp lý, lấy con người làm trung tâm.
Dưới cách nhìn nhận của chuyên ngành Kinh tế chính trị thì nguồn
nhân lực là tổng hòa của thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao
động xã hội của mỗi quốc gia, đó là sự kết tinh của những truyền thống và
kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử phát triển, từ đó
sản xuất ra của cải, vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và
tương lai của xã hội.
Theo Giáo trình kinh tế Nguồn nhân lực của Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân do PGS.TS Trần Xuân Cầu và PGS.TS Mai Quốc Chánh chủ biên,
in năm 2008 thì: “Nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng

tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện ra là số lượng
và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định”[19]
Theo tác giả luận văn, có thể hiểu, nguồn nhân lực là tổng hòa các tiêu
chí bao gồm thể lực, trí lực và tâm lực từ đó tạo nên năng lực bản thân mỗi
con người và được xã hội tiếp nhận vào quá trình lao động, tạo ra của cải vật
chất cho sự phát triển chung của xã hội.
Tóm lại nguồn nhân lực là một yếu tố đầu vào không thể thiếu được
của b
ất
kỳ doanh nghiệp, tổ chức nào - nếu thiếu yếu tố đầu vào này thì sẽ
không tồn tại
t
ổ chức hay doanh nghiệp. Bởi vậy cho nên chất lượng nguồn
nhân lực trong một doanh nghiệp sẽ phản ánh sự phát triển, vị trí của doanh
nghiệp trên thương trường ở hiện tại cũng như trong tương
lai
.
1.1.2.3 Khái niệm chất lượng nguồn nhân lực
9
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiến bộ của khoa học
công nghệ do đó chất lượng nguồn nhân lực không ngừng tăng lên. Sự tăng lên
của chất lượng nguồn nhân lực cho phép nâng cao năng suất lao động, khối lượng
sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, các hoạt động cung cấp dịch vụ ngày càng
thuận lợi. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng thấp sẽ dẫn đến năng suất lao
động thấp, do đó hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của xã
hội ngày càng cao.
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận
như trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, thẩm mỹ.v.v…
của người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố
quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.

Chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức là tập hợp các yếu tố về trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm trong công việc, trình độ
chính trị, giá trị đạo đức và lối sống của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Chất lượng nguồn nhân lực được biểu hiện ở thể lực, trí lực và tâm
lực, trong đó: Thể lực, trí lực nói lên trình độ văn hóa, chuyên môn làm việc
và tâm lực thể hiện ở tinh thần, thái độ, ý thức trong công việc… Ba yếu tố
cấu thành nên chất lượng nguồn nhân lực đó thì thể lực là nền tảng và cơ sở
để phát triển được sức lao động, tâm lực là yếu tố chi phối hoạt động chuyển
hóa trí lực vào thực tiễn, trí lực đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc
cấu thành chất lượng nguồn nhân lực bởi chỉ có con người mới nghiên cứu
sáng tạo ra những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình hoạt động sản xuất.
1.1.2.4 Khái niệm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nội dung quan trọng của phát
triển nguồn nhân lực, đó là hoạt động nâng cao về thể lực, trí lực và tâm lực của
người lao động. Qua đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao giá trị,
trình độ và kỹ năng của nguồn nhân lực.
10
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, về cơ bản là tăng giá trị của con
người về phẩm chất đạo đức, thể chất, năng lực, thẩm mỹ để có thể hoàn thành tốt
mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức, doanh nghiệp và của chính bản thân họ.
1.2 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và hoạt động của ngân hàng thương mại
1.2.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Hiện nay, tuy khái niệm về NHTM ở mỗi nước có đặc điểm khác nhau
nhưng đều thống nhất coi NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và cung
ứng những dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, là một trong những tổ chức tài
chính trung gian có chức năng dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn.
Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp, Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện
tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy

định nhằm mục tiêu lợi nhuận. Trong đó “Hoạt động ngân hàng” là việc kinh
doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: nhận
tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên.
Các loại hình NHTM được chia theo hình thức sở hữu:
- NHTM Nhà nước là NHTM trong đó Nhà nước 100% vốn điều lệ
- NHTM cổ phần là NHTM được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần
- NHTM 100% vốn nước ngoài là NHTM được thành lập với 100%
vốn điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài; trong đó phải có một ngân hàng nước
ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (ngân hàng mẹ). NHTM 100% vốn nước
ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên hoặc từ hai thành viên trở lên.
- NHTM liên doanh là NHTM được thành lập bằng vốn góp của Bên
trong nước (gồm một hoặc nhiều ngân hàng trong nước) và Bên nước ngoài
11
(gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
NHTM liên quan được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
từ hai thành viên trở lên.
1.2.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế, trong đó NHTM là trung gian về vốn trong nền kinh
tế, NHTM huy động để cho vay. Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi
tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là
những người cần bổ sung vốn, còn các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi
tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa,
dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ
chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ

nhóm thặng dư chi tiêu sang nhóm thâm hụt chi tiêu nếu cả hai cùng có lợi.
Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai
nhóm trên.
NHTM là trung gian về rủi ro, họ sẵn sàng chấp nhận các khoản vay
nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các giấy tờ có giá trị rủi ro cho người gửi
tiền, NHTM nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức kinh tế với mức rủi ro thấp
cho người gửi tiền và cho vay lại với rủi ro cao hơn, NHTM tạo ra lợi nhuận
từ việc chấp nhận rủi ro. Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa người thặng dư vốn
và người thiếu vốn bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời
gian, không gian…điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện
nảy sinh trung gian tài chính. Trung gian tài chính làm tăng thu nhập cho
người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, giảm phí tổn tín dụng cho
người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó và khuyến khích đầu tư.
12
NHTM là trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh
toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân
hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán
nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách
hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và
cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh
toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua trung
tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi
quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh
toán hiện đại của ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng
rộng rãi.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện
Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận
tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khác, họ phải tiến hành
các công việc đó trong một khung pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu để

bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và toàn xã hội. Chất lượng danh mục cho
vay và đầu tư cũng như sự hợp lý về vốn chủ sở hữu của ngân hàng đều chịu
sự quản lý, giám sát và kiểm tra của những thanh tra ngân hàng nhà nước.
Ở Việt Nam, một ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) muốn thành
lập và hoạt động phải đảm bảo 5 tiêu chí: vốn điều lệ, số lượng cổ đông, tỷ lệ
sở hữu số vốn điều lệ, cách thức tổ chức và các vấn đề liên quan đến hoạt
động ngân hàng. Theo thông tư 09/2010/TT-NHNN ngày 26/3/2010 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc cấp Giấy phép thành lập và hoạt
động ngân hàng TMCP. Thành lập mới ngân hàng cần ít nhất 100 cổ đông,
các tổ chức, cá nhân không được dùng vốn ủy thác, vốn vay của các tổ chức,
cá nhân khác để góp vốn thành lập ngân hàng và phải hoàn toàn chịu trách
13
nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn góp. Một trong những điều kiện để
được cấp giấy phép thành lập ngân hàng TMCP là phải có tối thiểu 100 cổ
đông tham gia góp vốn thành lập; trong đó có tối thiểu 3 cổ đông sáng lập là
tổ chức có tư cách pháp nhân có thời gian hoạt động tối thiểu là 5 năm, có vốn
chủ sở hữu tối thiểu 500 tỷ đồng trong 5 năm liền kề năm nộp đơn đề nghị
thành lập ngân hàng (nếu cổ đông là doanh nghiệp) hoặc có tổng tài sản tối
thiểu 50.000 tỷ đồng, kinh doanh có lãi trong 05 năm liền kề và tỷ lệ nợ xấu
nhỏ hơn 2% tổng dư nợ tại thời điểm nộp đơn đề nghị góp vốn thành lập ngân
hàng (nếu cổ đông là NHTM)
Những điều kiện và sự quản lý chặt chẽ của chính phủ và ngân hàng
nhà nước đối với các NHTM góp phần hạn chế, tạo hàng rào ngăn cản sự ra
nhập ồ ạt của các doanh nghiệp vào lĩnh vực ngân hàng.
Sản phẩm của NHTM là các dịch vụ tài chính
Sản phẩm chính của các NHTM là cung cấp các dịch vụ tài chính như:
Mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, quản lý tài sản, cung cấp các tài
khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, bảo lãnh…
Các sản phẩm tài chính của ngân hàng với đặc tính là không có tính dị
biệt, khi một ngân hàng cho ra một sản phẩm tiền gửi, hay chương trình

khuyến mại mới thu hút khách hàng, ngân hàng khác sẽ nhanh chóng cho ra
một sản phẩm hay chương trình khuyến mại tương tự để cạnh tranh, thậm chí
tính năng còn ưu việt hơn do khắc phục được nhược điểm. Do đó, các ngân
hàng không thể cạnh tranh qua sự khác biệt của các sản phẩm dịch vụ tài
chính mà phải thông qua chất lượng dịch vụ, các kênh phân phối, giá cả sản
phẩm, sự phục vụ đa năng kết hợp các dịch vụ tài chính.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ vì mục tiêu lợi nhuận
14
NHTM giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động vì mục
đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền
tệ, hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu được thực hiện chủ yếu bằng cách
thu hút vốn tiền tệ trong xã hội để cho vay.
Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh: Nguồn vốn phần lớn là tiền
gửi của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của NHTM là
không sử dụng nguồn vốn sở hữu vào trong các hoạt động kinh doanh của
mình như cho vay, mua bán chứng khoán. Hơn nữa nguồn vốn sở hữu của
NHTM chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM. Trong
khi đó các loại hình kinh tế khác lại sử dụng chủ yếu nguồn vốn sở hữu vào
các hoạt động kinh doanh. Sự khác biệt của NHTM với các định chế tài chính
khác là NHTM có quyền huy động tiền gửi trong nền kinh tế mỗi khi cần vốn
để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Công ty tài chính thì hoạt
động chủ yếu bằng nguồn vốn sở hữu của mình, nếu thiếu các công ty tài
chính có thể vay trên thị trường các công ty cổ phần, muốn tăng nguồn vốn
huy động của mình thì có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Không có
một định chế tài chính nào ngoài NHTM có thể nhận tiền gửi từ các tổ chức
cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế.
1.2.1.3 Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, vốn là nguyên liệu đầu

vào cho hoạt động của ngân hàng, trong khi vốn chủ sở hữu của NHTM thì
chiếm tỷ trọng nhỏ, vì vậy ngân hàng phải huy động vốn từ các nguồn trong
nền kinh tế, một trong những nguồn quan trọng đó là các khoản tiền gửi
(thanh toán và tiết kiệm của khách hàng), nó luôn chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng. Các ngân hàng phải trả lãi cho tiền gửi như
phần thưởng cho khách hàng về việc khách hàng hi sinh nhu cầu chi tiêu
15
trước mắt để ngân hàng tạm thời sử dụng vốn trong một thời gian nhất định
cho việc kinh doanh. Ngoài nhận các khoản tiền gửi là nguồn vốn chính thì
ngân hàng còn huy động vốn bằng cách đi vay các tổ chức tín dụng khác, các
tổ chức tài chính và vay ngân hàng Trung ương.
Hoạt động sử dụng vốn
- Cho vay
Là hoạt động cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho nhu cầu sản
xuất kinh doanh, tiêu dùng trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện vay vốn của
ngân hàng. Đây cũng là một trong những hoạt động sinh lời chủ yếu cho ngân
hàng, phần lớn vốn của ngân hàng tập trung cho hoạt động này. Khi thực hiện
nghiệp vụ cho vay, ngân hàng có thể kiểm soát trực tiếp và thường xuyên mục
đích sử dụng tiền vay. Cho vay bao gồm các hình thức cho vay chủ yếu sau:
+ Cho vay thương mại
+ Cho vay tiêu dùng
+ Tài trợ dự án
- Bảo lãnh
Ngân hàng có thể bảo lãnh cho các khách hàng bằng uy tín của mình,
với sự bảo lãnh này khách hàng có thể dễ dàng tiến hành các hoạt động kinh
doanh của mình. Uy tín của ngân hàng có được do ngân hàng nắm giữ tiền
gửi của khách hàng và do khả năng thanh toán của ngân hàng là rất lớn. Trong
những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển
mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa, xây dựng, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ

chức tín dụng khác…
- Hoạt động cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê thay vì bán. Cuối hợp đồng, khách
hàng có thể mua lại. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh
quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê
16
mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho
thuê phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản
cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho
vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
- Hoạt động đầu tư
Ngân hàng có thể đem vốn để đầu tư vào chứng khoán Chính phủ hoặc
chứng khoán công ty, ngoài ra ngân hàng còn có thể đầu tư góp vốn liên doanh
liên kết với các tổ chức kinh tế khác nhằm mang lợi nhuận cho ngân hàng.
Cung cấp các dịch vụ tài chính khác
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản
Tài khoản tiền gửi giao dịch cho phép người gửi tiền viết séc thanh
toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản này được
xem là một trong những bước đi quan trọng trong công nghiệp ngân hàng vì
nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán – mở đầu cho thanh
toán không dùng tiền mặt, tạo sự nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí,
rút ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân
hàng mở rộng phạm vi thanh toán, tiện ích tạo ra cho khách hàng ngày càng
khuyến khích khách hàng gửi tiền ngày càng nhiều nhờ thanh toán hộ. Cùng
với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát
triển như ủy nhiệm chi, nhờ thu, LC, thanh toán bằng thẻ…
- Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi
(mua bán) ngoại tệ-một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một

loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, hoạt
động mua bán ngoại tê có độ rủi ro rất cao, vì vậy đòi hỏi ngân hàng thực hiện
phải có trình độ chuyên môn cao, quản trị rủi ro tốt.
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
17
Một số ngân hàng thành lập các công ty bảo hiểm, bán bảo hiểm cho
khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng gặp
rủi ro và mất khả năng thanh toán.
- Nghiệp vụ quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách
hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu
ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,
trong đó ngân hàng chấp nhận quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh
doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để
thanh toán.
- Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Chính phủ là nơi cấp phép cho hoạt động và kiểm soát các ngân hàng.
Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết
thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho
Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất
định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được hoặc phải cho vay
với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
1.3 Nội dung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngân hàng
thương mại
1.3.1Nâng cao trí lực (Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng)
Trí lực là năng lực của trí tuệ, quyết định rất nhiều đến khả năng lao
động sáng tạo của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu
của nguồn lực con người bởi tất cả những hành động đó phải thông qua đầu

óc của họ, có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt
trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Trong đó trí lực bao
gồm trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật.
18
Trình độ văn hóa là khả năng về tri thức, nhận thức của người lao động về
kiến thức chuyên môn, xã hội, trình độ văn hóa được người lao động tiếp thu qua
hệ thống giáo dục. Trình độ văn hóa được đánh giá qua các tiêu chí như:
Tốt nghiệp phổ thông cơ sở
Tốt nghiệp phổ thông trung học
Tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp
Tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng
Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu, vận dụng nhanh chóng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công việc, trên cơ sở của nền tảng cho sự
phát triển khoa học kỹ thuật.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là những kiến thức, kỹ năng cần thiết
đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề
nghiệp. Để đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật qua bằng cấp chuyên môn
người lao động đạt được qua học tập và thi cử: Công nhân kỹ thuật, trung cấp,
cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ… Trình độ chuyên môn kỹ thuật thể hiện
khả năng ứng dụng lý thuyết vào thực hành tạo ra sản phẩm, dịch vụ cho
doanh nghiệp.
1.3.2 Nâng cao thể lực (Thể chất, thẩm mỹ)
Thể lực là trạng thái sức khỏe của con người, sự phát triển của con
người về thể chất cũng như tinh thần, được biểu hiện ở sự phát triển của mỗi
người thông qua sức khỏe để học tập và làm việc. Thể lực là điều kiện đảm
bảo cho con người phát triển, trưởng thành một cách bình thường, hoặc có thể
đáp ứng những tiêu thụ calo trong quá trình lao động, sản xuất của con người.
Theo định nghĩa về sức khoẻ của Tổ Chức Y tế Thế Giới (WHO-
World Health Organization):
"Sức khoẻ là một trạng thái hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tâm thần

và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh tật hay tàn phế".
19

×