Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mở đầu
Hiện nay, sự phát triển của hệ thống tài chính đóng vai trò nh một yếu
tố đầu vào đối với sự tăng trởng kinh tế. Một hệ thống tài chính hoạt động có
hiệu quả sẽ thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những
ngời có tiết kiệm tới những ngời có nhu cầu về vốn.
Trong hệ thống tài chính, các ngân hàng thơng mại là mạch máu quan
trọng. Không thể nói đến một nền kinh tế mạnh với một hệ thống ngân hàng
yếu kém và ngợc lại. Trong những thập kỷ qua, nhiều nớc công nghiệp,
chuyển đổi và đang phát triển đã từng gặp phải những vấn đề của hệ thống
ngân hàng. Các vấn đề này thờng gắn liền với những cuộc khủng hoảng kinh
tế vĩ mô. Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực
mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do hệ thống ngân hàng yếu kém
và mắc nhiều sai lầm. Việt Nam tuy không bị khủng hoảng nhng cũng bị ảnh
hởng mạnh, qua đó hệ thống ngân hàng đã bộc lộ những nhợc điểm vốn có.
Cải cách ngân hàng, do đó, đóng một vai trò lớn trong cải cách hệ
thống tài chính nói riêng cũng nh phục hồi nền kinh tế nói chung. Các chính
phủ, trong đó có chính phủ Việt Nam đã nhận thấy điều này và đang tập
trung tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng. Bài thảo luận này gồm 3 phần:
đó là những vấn đề cơ bản về cải cách ngân hàng, những cải cách Việt Nam
đã thực hiện đợc, và kinh nghiệm cải cách hệ thống ngân hàng của các nớc
gần gũi với Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, từ đó rút ra
những bài học cho Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hớng dẫn, chỉ bảo của thầy giáo:
thạc sỹ Đào Hùng đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu. Em cũng xin
chân thành cảm ơn th viện nhà trờng đã cung cấp t liệu cho bài viết.
Hà Nội 2/2001
Sinh viên
Nguyễn Diệu Hằng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng I: Những vấn đề cơ bản về cải cách
hệ thống ngân hàng
1. Vai trò của hệ thống ngân hàng
Trong hệ thống tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Ngân
hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền. Thuật ngữ các ngân
hàng (banks) bao gồm những hãng nh các ngân hàng thơng mại, các công ty
tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tơng trợ và các liên hiệp tín
dụng. Các ngân hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tiền tệ vì:
-Ngân hàng là một cầu nối giữa những ngời muốn tiết kiệm và những
ngời muốn đầu t.
-Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định số lợng tiền
trong nền kinh tế.
-Ngân hàng đã là một nguồn tạo ra đổi mới tài chính nhanh chóng th-
ờng xuyên mở rộng các cách cho chúng ta có thể đầu t tiền tiết kiệm của
mình.
Trung gian tài chính
Nếu bạn muốn cho một công ty vay tiền, bạn sẽ không đến gặp thẳng
các chủ tịch công ty đó để cho họ vay. Hầu hết chúng ta cho những công ty
nh vậy vay tiền qua những ngời đững giữa, đợc gọi là các trung gian tài
chính: các tổ chức nh ngân hàng thơng mại, công ty tiết kiệm và cho vay,
ngân hàng tiết kiệm tơng trợ, liên hiệp tín dụng, công ty bảo hiểm, quỹ tơng
trợ, quỹ trợ cấp và những công ty tài chính, những trung gian này vay vốn của
những ngời đã tiết kiệm đợc tiền, rồi ngợc lại, cho những ngời khác vay.
Ngân hàng là trung gian tài chính mà một ngời bình thờng thờng
xuyên giao dịch nhât. Khi một ngời cần vay một món tiền để mua nhà hay xe
hơi, hay phát triển sản xuất hộ gia đình, ngời này thờng vay từ một ngân hàng
địa phơng, đặc biệt là ngân hàng phát triển.
Trung gian tài chính là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế vì
rằng nó khơi nguồn vốn từ những ngời có thể vì lý do gì đó không dùng nó
một cách sinh lợi sang những ngời có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Theo cách
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
này, những trung gian tài chính có thể giúp thúc đẩy nền kinh tế năng động
và hiệu quả hơn. Lý do là ở chỗ: có những chi phí thông tin và chi phí giao
dịch lớn trong nền kinh tế. Khi có các trung gian tài chính tham gia vào nền
kinh tế, những chi phí này giảm xuống đáng kể.
Tiết kiệm do quy mô: một giải pháp cho vấn đề chi phí giao dịch cao
là góp những vốn muốn cho vay của nhiều nhà đầu t với nhau, do vậy, họ có
thể thu đợc lợi ích nhờ phơng pháp tiết kiệm do quy mô. Nhờ gộp các vốn
của những nhà đầu t lại với nhau, chi phí giao dịch cho mỗi cá nhân nhà đầu
t nhỏ hơn nhiều, tổng chi phí của việc thực hiện một giao dịch trong thị trờng
tài chính tăng lên chỉ một chút ít khi quy mô giao dịch tăng.
Mở rộng hiểu biết để giảm các phí giao dịch: Những trung gian tài
chính cũng xuất hiện bởi vị họ có khả năng tốt hơn để mở rộng hiều biết
nhằm hạ thấp chi phí giao dịch. Các ngân hàng trở thành những chuyên gia
lành nghề vì tiếp thu đợc những kiến thức pháp lý thích hợp, do đó họ có thể
không tốn kém gì mà vẫn viết đợc hợp đồng vay chặt chẽ.
Hoạt động ngân hàng và lợng tiền cung ứng
Các ngân hàng đóng một vai trò đáng kể trong việc tạo ra tiền, không
phải vì việc in những tờ tín phiếu, mà do việc cho vay: những khoản tiền cho
vay của ngân hàng tạo ra những khoản tiền gửi ở dạng tài khoản séc, một
thành phần của tiền tệ. Bằng hoạt động của mình, ngân hàng tạo ra số nhân
tiền và qua đó làm thay đổi lợng tiền cung ứng.
Đổi mới về tài chính
Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, ngày nay những khoản tiền
nhỏ cũng có đem gửi tiết kiệm với một lãi suất cao hơn trớc. Các tổ chức tài
chính liên tục sáng tạo ra các cách đa đợc lợi nhuận lên cao... Những thay đổi
nhanh chóng đó trong hệ thống ngân hàng làm cho những điều lệ áp dụng do
chính phủ đa ra trở thành lỗi thời, tác hại đến sự lành mạnh của hệ thống tài
chính. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ cũng tiềm ẩn trong lòng các ngân
hàng nguy cơ xảy ra các cuộc khủng hoảng.
2. Hệ thống ngân hàng bị trục trặc nh thế nào
Quá trình phát triển kinh tế trong những thập niên gần đây của các
quốc gia trên thế giới cho thấy rằng việc phát triển kinh tế nhanh hay chậm,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thậm chí bị suy thoái nền kinh tế đều phụ thuộc rất nhiều vào chính sách
cũng nh cơ cấu hệ thống tài chính ở mỗi nớc. Bài học thực tiễn từ cuộc khủng
hoảng kinh tế ở châu Mỹ Latinh năm 1994 và ở Đông Nam á mới đây, là hồi
chuông cảnh báo rằng hệ thống tài chính và chính sách tài chính ở các nớc
này hoạt động thiếu hiệu quả và kém linh hoạt trớc những biến động của thị
trờng. Xem xét nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng, có thể thấy hệ thống
ngân hàng gặp phải khó khăn do những nguyên nhân sau:
a) Sự bất cập trong chính sách quản lý vĩ mô của chính phủ.
Các chính phủ thờng đa ra một chính sách tỷ giá đợc điều hành một
cách chậm trễ và cứng nhắc. Các Ngân hàng Trung ơng giữ đồng nội tệ của
mình ổn định theo ngoại tệ mạnh của nhóm G7, đặc biệt Thái Lan đã neo giá
đồng bạt hàng chục năm theo USD. Do đó nguồn vốn nớc ngoài đổ xô vào
qua tất cả các kênh. Bên cạnh đó, chính sách lãi suất đợc duy trì cao tạo ra
chênh lệch lãi suất nội tệ với USD làm những ngời đi vay tăng cờng vay nóng
USD (với lãi suất thấp) và chuyển sang nội tệ (với lãi suất cao) để hởng lợi.
Do đó, giá trị tài sản và cổ phiếu tăng lên, tạo ra một nền kinh tế ảo. Khi
xảy ra một sự biến đổi về giá trị đồng USD dù nhỏ cũng có thể gây hỗn loạn
cho đồng nội tệ do sự cứng nhắc này. Sức cạnh tranh hàng xuất khẩu giảm,
tăng thâm hụt tài khoản vãng lai, giá trị tài sản thế chấp hạ xuống. Các nhà
đầu t bắt đầu rút vốn. Nền kinh tế bị đẩy đến sự hoảng loạn.
Sự can thiệp sâu vào nền kinh tế của chính phủ thông qua các chính
sách có định hớng và bảo hộ kéo dài khiến thị trờng bị ảnh hởng bởi những
yếu tố cứng nhắc và bị bóp méo, làm giảm hiệu quả chung. Các ngân hàng
thờng đợc chỉ đạo phải cung cấp tín dụng trợ cấp cho những khu vực hoặc
lĩnh vực đợc u đãi. Những công ty ở lĩnh vực u tiên lại thờng không có khả
năng sinh lời, thờng chiếm một tỷ lệ lớn vốn khê đọng. Thủ tục luật pháp
không đủ gây áp lực để buộc con nợ phải thanh toán số nợ của mình. Chính
phủ lại dành quá ít sự quan tâm đến sự tập trung rủi ro, chất lợng của các
luồng thông tin, sự đầy đủ của hệ thống luật pháp và bản chất của môi trờng
pháp lý.
b) Sai lầm của các nhà đầu t trong nớc.
Do chỉ đơn thuần tính đến những nhân tố kinh doanh trong quá khứ
(sức mua thị trờng, tỷ giá ổn định... ), các doanh nghiệp sẵn sàng vay những
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoản tín dụng ngắn hạn khổng lồ để đầu t vào các dự án hiệu quả kinh tế
thấp. Số nợ của các doanh nghiệp vợt quá tổng số vốn của bản thân doanh
nghiệp tới 200- 400%. Các doanh nghiệp lại đa ra các quyết định đầu t sai,
đầu t quá nhiều vào bất động sản, nhiều công trình phô trơng, kém hiệu quả,
có tính đầu cơ, bị chôn vốn... dẫn đến mất khả năng thanh toán, gây ra khủng
hoảng thanh toán lan truyền toàn bộ nền kinh tế xã hội.
c) Năng lực quản lý và điều hành trong mỗi ngân hàng còn yếu
kém.
-Quản lý chuyên môn kém: Các chính sách cho vay tồi là dạng quản lý
chuyên môn yếu kém chung nhất và thờng là hậu quả cuả việc kiểm soát nội
bộ không hiệu quả, của những phân tích tín dụng không thích đáng hoặc của
những sức ép chính trị. Chính sách cho vay tồi thờng dẫn đến tập trung rủi ro
quá mức- kết quả của việc tập trung với tỷ lệ cao các khoản vay cho một
khách hàng hay một khu vực hoặc ngành kinh doanh cụ thể nào đó. Các ngân
hàng đôi khi cho những công ty có quan hệ hay cho chính những nhà quản lý
của mình vay quá mức. Sự không tơng xứng giữa tài sản có và tài sản nợ về
loại tiền, lãi suất, hay thời hạn trả nợ là một dạng thông thờng khác của sự
yếu kém trong quản lý chuyên môn.
-Che giấu việc quản lý tồi: Khi một ngân hàng bị thua lỗ, các nhà
ngân hàng có thể cố gắng che giấu những thua lỗ trớc kia cũng nh hiện nay.
Có nhiều cách để thực hiện việc này. Để tránh báo động cho các cổ đông về
những khó khăn, các nhà ngân hàng thờng giữ cho lãi cổ phần không đổi mặc
dù thu nhập giảm đi. Và để giữ cho lãi cổ phần tăng lên, các chủ ngân hàng
có thể chỉ dành cho các quỹ dự phòng thất thoát một phần trích từ thu nhập
nhỏ hơn, làm mất đi sự tơng xứng của mức vốn. Nếu mức lãi cổ phần đợc yêu
cầu vợt quá lợi nhuận, các chủ nhà băng có thể dùng các biện pháp kế toán
để làm tăng lợi nhuận ròng trên giấy. Bằng việc lập lại kế hoạch trả nợ các
khoản vay, các nhà ngân hàng có thể phân loại những khoản nợ khó đòi
thành những món nợ chất lợng tốt và nh vậy tránh đợc việc phải trích lập quỹ
dự phòng. Việc nhập các khoản lãi cha trả vào gốc làm nâng lợi nhuận lên
thông qua việc tăng thêm số thu nhập trên giấy tờ. Việc báo cáo thu nhập có
thể đợc thực hiện trớc và việc ghi chép chi phí hoãn lại sau.
-Quản lý một cách liều lĩnh: Khi thua lỗ quá lớn, không thể che đậy
bằng những biện pháp kế toán, các ngân hàng có thể áp dụng các chiến lợc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
liều lĩnh hơn: cho những dự án rủi ro vay với lãi suất cao hơn, đầu cơ trên thị
trờng chứng khoán và thị trờng bất động sản. Khi luồng tiền mặt trở nên khó
khăn, ngân hàng có thể đa ra lãi suất tiền gửi cao nhằm thu hút thêm ngời gửi
tiền mới, nhng chi phí vốn cao có thể làm vấn đề tồi tệ thêm.
-Gian lận: Nh là phơng sách cuối cùng, các ngân hàng buộc phải tự
cho bản thân mình vay những khoản vay mà họ không có khả năng hoàn trả.
Một cách khác là chuyển đổi quyền sở hữu của những công ty một phần do
ngân hàng hoặc nhà ngân hàng sở hữu: nếu một công ty có khả năng sinh lời,
chủ nhà băng sẽ thu xếp để mua nó từ ngân hàng với giá thấp, ngợc lại, nhà
ngân hàng sẽ bán nó cho ngân hàng với giá cao.
Ta đã có thể thấy một hệ thống ngân hàng có thể gặp những vấn đề gì,
từ đó cho thấy rằng cần phải cải cách hệ thống ngân hàng để hoạt động của
nó có hiệu quả hơn.
3. Những vấn đề cơ bản về cải cách hệ thống ngân hàng
Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt
động ngân hàng, đó là khôi phục lại khả năng trả nợ và khả năng thu lợi
nhuận, nâng cao khả năng trung gian tài chính giữa ngời tiết kiệm và ngời đi
vay của hệ thống ngân hàng, và khôi phục niềm tin của công chúng.
Nói một cách đơn giản là, cơ cấu lại tài chính là cố gắng khôi phục
khả năng trả nợ (giá trị ròng) bằng việc cải thiện các bảng cân đối tài sản của
ngân hàng. Giá trị ròng- chênh lệch giữa tài sản Có và tổng các khoản phải
trả, càng lớn thì khả năng trả nợ của ngân hàng càng cao. Một ngân hàng có
thể cải thiện bảng cân đối tài sản của mình bằng cách:
-Tăng thêm vốn bổ sung (Ví dụ: nhận tiền mặt từ những ngời sở hữu
cũ và mới hoặc từ chính phủ).
-Giảm tài sản nợ.
-Tăng giá trị tài sản nợ (Ví dụ: tăng giá trị thu hồi của các khoản vay
có vấn đề và các tài sản thế chấp)
-Cơ cấu lại các hoạt động có khả năng thu lợi nhuận, bao gồm: xem
xét lại các chiến lợc kinh doanh; cải tiến phơng pháp quản lý và hệ thống kế
toán; đánh giá tín dụng tốt hơn, và nâng cao trình độ thẩm định dự án.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
-Các chi phí hoạt động có thể cắt giảm bằng cách cắt giảm chi nhánh
và nhân viên.
Để tăng khả năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng, việc cơ
cấu lại thờng có nghĩa là hoàn thiện cơ chế giám sát và phòng ngừa rủi ro.
Đôi khi các phơng pháp nh cung cấp bảo hiểm tiền gửi và Ngân hàng Trung -
ơng thực hiện chức năng ngời cho vay cuối cùng cũng cần thiết.
Khả năng trả đợc nợ chỉ là bớc đầu tiên. Cải tổ thành công đòi hỏi phải
chế ngự đợc xu hớng tự thoả mãn khi khả năng trả nợ đợc khôi phục; cho
phép các ngân hàng có vấn đề lại tiếp tục cho vay. Kinh nghiệm chỉ ra rằng
các ngân hàng đó chẳng bao lâu sẽ lại rơi vào tình trạng rắc rối nếu họ không
tìm cách cải thiện các điều kiện để khôi phục khả năng thu lợi nhuận. Điều
đó có nghĩa là phải có những thay đổi cần thiết trong quản lý và cắt giảm chi
phí hoạt động. Nó cũng đòi hỏi phải tăng cờng hệ thống kế toán, luật pháp và
điều hành, hậu thuẫn cho cải cách bằng sự giám sát chặt chẽ và đồng bộ.
Một khía cạnh tinh tế của các chiến lợc cải tổ thành công, gồm cả việc
xác định đúng vai trò của Ngân hàng Trung ơng là hỗ trợ chứ không tham dự
vào hoạt động.Khi Ngân hàng Trung ơng là cơ quan chỉ đạo, nó thờng dễ sa
đà vào việc tài trợ cho các phơng pháp cải tổ ngân hàng, vợt quá nguồn lực
của nó và thực hiện những biện pháp trái với trách nhiệm chính của cơ quan
quản lý tiền tệ. Một phơng pháp tiếp cận tốt hơn là thành lập một cơ quan chỉ
đạo riêng để phối hợp và thực hiện việc cải tổ. Để có hiệu quả, tổ chức này
phải tập trung giám sát các chính sách cải tổ, cũng nh hoạt động cơ cấu lại
của các ngân hàng riêng lẻ nếu cần thiết. Giám sát là quan trọng vì cải tổ
ngân hàng mất nhiều thời gian và chi phí lớn.
Nguyên tắc chia sẻ thiệt hại giữa Chính phủ, các ngân hàng và công
chúng là một phần không thể tách rời. Một phơng pháp chia sẻ thiệt hại trong
chiến lợc tổng thể là thông qua cơ quan bảo hiểm tiền gửi đợc tài trợ bằng sự
đóng góp của các ngân hàng, nhờ đó có thể hạn chế cho ngời gửi tiền và các
chủ nợ khác, không gây những hoang mang hoặc khiến mọi ngời đổ xô đến
ngân hàng rút tiền.
Cuối cùng, các kinh nghiệm không chỉ ra đợc mối quan hệ trực tiếp
giữa những nỗ lực cải tổ hệ thống ngân hàng và các điều kiện kinh tế. Nó
thống nhất với nguyên tắc chính phủ cần phải lập tức thực hiện biện pháp khó
Website: Email : Tel : 0918.775.368
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khăn và phức tạp mà không chờ đợi đến khi nền kinh tế khôi phục lại.Một
nguyên nhân có thể là vì các quốc gia đã nhận thấy rằng việc họ đề cao con
đờng thoát khỏi những vấn đề của hệ thống ngân hàng là không hợp lý. Một
nguyên nhân khác là những tổn thất về tài sản có liên quan đến khủng hoảng
ngân hàng thờng làm giảm nhu cầu trong nớc nhanh chóng. Tóm lại, mặc dù
các chơng trình cải tổ ngân hàng thờng đợc khởi xớng vào thời điểm nền kinh
tế bị đình trệ và suy thoái nghiêm trọng, mức tăng trởng kinh tế dơng sẽ giúp
cho các ngân hàng khôi phục lại cho vay và có khả năng thu lợi.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng II: Hệ thống ngân hàng Việt Nam,
hiện trạng và những cải cách đã thực hiện.
1. Thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam
Từ trớc năm 1988, trong nền kinh tế quốc dân chỉ có một Ngân hàng
nhà nớc duy nhất, với hệ thống tổ chức ba cấp trên địa bàn hành chính: cấp
Trung ơng, cấp tỉnh và cấp huyện, thực hiện đồng thời hai chức năng quản lý
và kinh doanh. Thực chất đó là hệ thống ngân hàng một cấp thực hiện nhiệm
vụ của một Ngân hàng Trung ơng vừa thực hiện chức năng của các tổ chức
trung gian tài chính trong nền kinh tế quốc dân.
Ngày 26-3-1988, Chính phủ ban hành Nghị định 53-HĐBT về tổ chức
bộ máy ngân hàng, đa ngân hàng vào thời kỳ đổi mới có tính cách mạng.
Ngân hàng nhà nớc đợc cải tổ thành hệ thống ngân hàng gồm 2 cấp: Ngân
hàng nhà nớc và ngân hàng chuyên doanh trực thuộc là Ngân hàng ngoại th-
ơng Việt Nam chuyên về tài trợ ngoại thơng và quản lý ngoại hối, và Ngân
hàng Đầu t và phát triển Việt Nam chuyên về tài trợ dài hạn cho các dự án hạ
tầng cơ sở và công trình công cộng. Có thêm hai ngân hàng thơng mại quốc
dân đợc thành lập: Ngân hàng công thơng Việt Nam từ Vụ Tín dụng Công và
Thơng của Ngân hàng Nhà nớc và Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam từ Vụ
Tín dụng Nông nghiệp. Với sự ra đời cơ sở pháp lý từ sau năm 1990, dịch vụ
ngân hàng đợc mở rộng bao gồm các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nớc ngoài và các hợp tác xã tín dụng và một số
ngân hàng nhà ở. Cuối năm 1994, ngoài 4 ngân hàng thơng mại quốc doanh,
có 46 ngân hàng cổ phần đang hoạt động, 69 hợp tác xã tín dụng, 3 ngân
hàng liên doanh và 9 ngân hàng nớc ngoài.
Mời năm qua, hệ thống ngân hàng không ngừng đợc củng cố và phát
triển, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của công cuộc đổi mới,
nổi bật là đẩy lùi nạn lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh
tế vĩ mô, là nòng cốt trong huy động... Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng Việt
Nam còn nhiều điều bất cập và thiếu sót.
Một là, cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nớc cha đáp ứng đợc yêu
cầu hoạt động có hiệu lực của một hệ thống quản lý tập trung thống nhất. Cơ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chế điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính giản đơn. Các công cụ
gián tiếp trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ còn rất sơ khai. Các
công cụ quản lý hành chính trực tiếp không còn phù hợp và ít hiệu lực vẫn
còn sử dụng khá phổ biến. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái vẫn còn cần nâng
cao tính linh hoạt và khả năng ứng phó với cơ chế thị trờng đầy biến động.
Hai là năng lực điều hành kinh doanh ngân hàng thơng mại còn nhiều
bất cập, năng lực tài chính của nhiều ngân hàng thơng mại rất yếu, vốn tự có
nhỏ, chất lợng tín dụng thấp (tỷ lệ nợ quá hạn cao) làm cho hoạt động tín
dụng thiếu lành mạnh, có nhiều rủi ro, đe doạ nền tảng của các ngân hàng th-
ơng mại. Hơn nữa, các ngân hàng thơng mại quốc doanh có tổng lợng tài sản
chính chiếm tới 80% tổng tài sản của toàn hệ thống, nhng hoạt động cho vay
theo chỉ thị vẫn còn lẫn lộn với các hoạt động cho vay theo tiêu chuẩn thơng
mại dẫn đến tình trạng nợ đọng dây da và không có khả năng thanh toán
(hiện tổng số nợ xấu, không sinh lời theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam
khoảng 1 tỷ USD, còn tính theo tiêu chuẩn quốc tế khoảng 3- 4 tỷ USD).
Hiện nay có 60 ngân hàng thơng mại đang hoạt động ở Việt Nam, nhng Việt
Nam vẫn là nớc có dịch vụ ngân hàng thấp. Về cơ bản, hệ thống tài chính bao
gồm hệ thống ngân hàng do ngân hàng thơng mại quốc doanh chi phối. Hệ
thống này phát triển cha đủ nhanh để theo kịp những yêu cầu của khu vực sản
xuất kinh doanh. Việc huy động tiết kiệm ngân hàng vẫn cha thoả đáng và
còn thấp nhiều so với tiềm năng, chi phí trung gian còn cao, hiệu quả giao
dịch và cấp vốn của hệ thống ngân hàng còn thấp. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp nhà nớc kém hiệu quả đợc u đãi tiếp cận với nguồn tín dụng bằng
cách này hay cách khác cũng gây ra sự thiếu lành mạnh của hệ thống ngân
hàng (tỷ trọng nợ quá hạn của doanh nghiệp Việt Nam trong tổng số nợ quá
hạn đã lên tới mức báo động). Đây là những nguyên nhân chính phải thực
hiện cơ cấu lại các ngân hàng.
Ba là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng
không đợc coi trọng đúng mức, chất lợng hiệu quả kém, thiếu nghiêm khắc
trong xử lý sai phạm, tạo điều kiện cho những sai phạm nghiêm trọng làm
ảnh hởng xấu đến nền tảng tài chính.
Bốn là, tình trạng thiếu kinh nghiệm quản lý của cán bộ ngân hàng về
quản lý tài chính ngân hàng, quản lý tín dụng, tổ chức còn rất phổ biến có
khoảng 40- 50% nhân viên ngân hàng không đủ khả năng tiếp cận công nghệ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
10