Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

NGHIÊN cứu về hòa GIẢI TRONG tố TỤNG dân sự tại tòa án VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.7 KB, 59 trang )




TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Chính phủ Việt Nam - Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
Government of Viet Nam - United Nations Development Programme


“Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam”
“Strengthening Access to Justice and Protection of Rights in Viet Nam”

CHƢƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN
LIÊN HỢP QUỐC





BÁO CÁO

“NGHIÊN CỨU VỀ HÒA GIẢI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM”




Bản quyền của Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và vệ quyền tại Việt Nam.
Những quan điểm trong Báo cáo này là quan điểm của tác giả và không phải là
quan điểm của Dự án hay của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP).




Hà Nội - 2014


1
MỤC LỤC
I. BỐI CẢNH 3
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÒA GIẢI VỤ VIỆC
DÂN DỰ TẠI TÒA ÁN 6
2.1. Khái quát chung về hòa giải vụ việc dân sự tại Tòa án 6
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hòa giải vụ việc dân sự
tại Tòa án 13
III. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM 23
3.1. Kết quả thi hành pháp luật hòa giải các vụ việc dân sự tại Tòa án
3.2. Những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn thi hành pháp luật hòa giải các
vụ việc dân sự tại Tòa án 23
IV. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM 35
4.1. Thành lập bộ phận chuyên trách về hòa giải vụ việc dân sự 36
4.2. Hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ việc dân sự
4.3. Nâng cao trình độ, kỹ năng của người tiến hành hòa giải vụ việc dân sự 38
4.4. Đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phục vụ cho công tác hòa giải vụ việc dân sự
tại Tòa án 39
4.5. Một số khuyến nghị khác 39
V. KẾT LUẬN 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
Phụ lục 1. Sơ lược quy định của một số nước trên thế giới về hòa giải tranh chấp

dân sự tại Tòa án

2
BÁO CÁO
“NGHIÊN CỨU VỀ HÒA GIẢI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM”
Thuộc Dự án “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam”
(Dự án 58.492)
I. BỐI CẢNH
Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi tranh chấp xảy ra, các bên thường cố gắng
tự thương lượng, dàn xếp với nhau hoặc tìm đến người thứ ba để được hỗ trợ
trong việc tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm
dứt các tranh chấp, bất hòa. Trường hợp các bên tranh chấp không tự thương
lượng, hòa giải được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và yêu cầu Tòa án
giải quyết, thì tranh chấp sẽ được Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự.
Pháp luật tố tụng dân sự xác định hòa giải vừa là nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động tố tụng dân sự, vừa là thủ tục tố tụng mà Tòa án, các đương sự có trách
nhiệm tiến hành khi giải quyết vụ việc dân sự. Hòa giải tranh chấp tại Tòa án là
phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều
nước trên thế giới. Bởi theo nguyên tắc “việc dân sự cốt ở đôi bên”, thì pháp luật
luôn có xu hướng tạo điều kiện để các bên đương sự tự thương lượng, thỏa thuận
giải quyết tranh chấp của mình. Hòa giải tranh chấp tại Tòa án là một trong những
chế định nhằm thực hiện nguyên tắc này. Ở Việt Nam, trong suốt quá trình tố tụng
tại Tòa án, các bên vẫn có quyền quyết định và tự định đoạt việc giải quyết tranh
chấp không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Cụ thể là:
Theo tinh thần quy định của khoản 2 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây
viết tắt là BLTTDS) về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, thì trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các

yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp
luật và đạo đức xã hội.
Đồng thời, theo tinh thần quy định của Điều 10 BLTTDS về hòa giải trong tố
tụng dân sự, thì Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận
lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo
quy định của Bộ luật này.
Ngoài ra, tại điểm g khoản 2 Điều 58 BLTTDS quy định về quyền, nghĩa vụ
của đương sự, thì các đương sự có quyền và nghĩa vụ tự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành.
Tuy nhiên, thực tiễn công tác hòa giải tại Tòa án cho thấy vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế, bất cập liên quan đến chế định hòa giải như: quy định của pháp
luật về hòa giải còn chưa đầy đủ, một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn,
chưa khuyến khích các bên tham gia hòa giải; trình tự, thủ tục hòa giải còn chưa
đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan; chưa quy định thủ

3
tục hòa giải đối với những vụ án dân sự có tính chất đặc thù như: tranh chấp về
hôn nhân gia đình, tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế, tranh
chấp lao động, tranh chấp kinh doanh thương mại, Do đó, dẫn đến nhiều vụ án
không được Thẩm phán tổ chức tiến hành hòa giải theo đúng quy định của pháp
luật và đã bị Tòa án cấp trên sửa, hủy bản án/quyết định; tỷ lệ vụ án phải đưa ra
xét xử vẫn cao do tỷ lệ hòa giải thành thấp hoặc việc hòa giải được thực hiện
không hiệu quả. Vì vậy, thực tiễn đang đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật về chế
định hòa giải cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và
hiệu quả hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Hòa giải trong tố tụng dân sự là vấn đề hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu
khoa học pháp lý. Cho đến nay đã có nhiều công trình mang dấu ấn của việc
nghiên cứu về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự của các tác giả như: Bùi
Đăng Huy, “Hòa giải trong tố tụng dân sự - Thực tiễn và hướng hoàn thiện”,
Luận án thạc sĩ luật học, Hà Nội – 1996; Vũ Mạnh Thông, Nguyễn Ngọc Điệp, Lê

Thị Kim Nga, “Tìm hiểu ngành luật tố tụng dân sự”, Nxb Mũi Cà Mau, 1999; TS.
Trần Văn Quảng, “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam –
cơ sở lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sỹ luật học, Hà Nội – 2004; Ths. Đức Thị
Hòa, “Các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc
dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà
Nội”, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội – 2009. Đặc biệt ở Tòa án nhân dân tối
cao tính đến nay có hai công trình nghiên cứu liên quan gồm: Công trình nghiên
cứu khoa học cấp Bộ “Tòa án với việc giải quyết những vụ việc về hôn nhân và
gia đình – những tồn tại, vướng mắc và hướng hoàn thiện” do TS. Đặng Quang
Phương là Chủ nhiệm đề tài, Tòa án nhân dân tối cao – 2001; Công trình nghiên
cứu khoa học cấp cơ sở “Thực tiễn thi hành chế định hòa giải trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự - những tồn tại, vướng mắc và kiến nghị” do Cn. Nguyễn Thị
Tú là Chủ nhiệm đề tài, Tòa án nhân dân tối cao – 2002;…
Qua nghiên cứu những công trình này, có thể nhận thấy, ít nhiều các tác giả
đã có những nghiên cứu và phân tích về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
hoặc về thực tiễn hòa giải trong một số loại vụ án đặc thù như vụ án hôn nhân gia
đình. Tuy nhiên, đây đều là những công trình nghiên cứu trong bối cảnh của
những quy định pháp luật cũ. Đến nay, BLTTDS năm 2004 đã được sửa đổi bằng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 và các Nghị quyết
hướng dẫn BLTTDS năm 2004 đã được thay thế bằng các Nghị quyết mới ban
hành năm 2012.
Đồng thời, ngày 18-6-2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII thông qua Nghị quyết số 45/2013/QH13 về điều chỉnh Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2013 và
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 đã bổ sung Dự án Bộ luật tố
tụng dân sự (sửa đổi) vào Chương trình chính thức; ngày 09-7-2013 Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 616/NQ-UBTVQH13 về triển khai
thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2013 và Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2014, theo đó Tòa án nhân dân tối cao được giao là cơ quan


4
chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo, xây dựng và trình Quốc hội
Dự án Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi). Do đó, việc nghiên cứu về chế định hòa
giải một cách công phu, đặc biệt chú trọng đến công tác tổng kết từ thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật về hòa giải trong tố tụng dân sự nhằm đưa ra những
kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật tố tụng dân sự là yêu cầu bức thiết trong bối
cảnh mới, phù hợp với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần của
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Khuyến khích việc giải quyết một số
tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết
định công nhận việc giải quyết đó”. Đồng thời, việc nghiên cứu và ứng dụng kết
quả nghiên cứu về hòa giải trong tố tụng dân sự cũng phù hợp và đảm bảo thực
hiện tinh thần của Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23-11-2012 của Quốc hội
về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm
sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013, trong đó
khẳng định rằng: Tòa án nhân dân tối cao cần chỉ đạo các Tòa án “… Nâng cao tỷ
lệ hòa giải thành các vụ việc dân sự…”
Định hướng của Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết
số 37/2012/QH13 của Quốc hội như nêu trên hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của
Dự án “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” do Chính phủ
Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc phối hợp thực hiện. Đó là
tăng cường hơn nữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khi
tham gia tố tụng tại Tòa án; bảo đảm quyền được yêu cầu Tòa án giải quyết các
tranh chấp thông qua các phương thức nhanh chóng, hiệu quả.
Với vị trí là trung tâm của hoạt động tư pháp, Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối
cao luôn xác định tinh thần Tòa án có trách nhiệm quan trọng trong việc đẩy
mạnh và nâng cao hơn nữa công tác hòa giải tại Tòa án, nhằm: (i) Thực hiện tinh
thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có yêu cầu về đổi mới và hoàn

thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án; hoạt động tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao; (ii) Thực hiện
Chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2012-2016 của Ban
Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương (Chương trình số 05-CTr/CCTP ngày 28-
12-2011), Tòa án nhân dân tối cao đang thực hiện Đề án “Nghiên cứu xây dựng
cơ chế mở rộng phạm vi hòa giải trong hoạt động tư pháp nhằm giảm số lượng
các vụ án phải đưa ra xét xử tại Tòa án” theo Quyết định số 174/CTTr-BCS của
Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao ngày 11-10-2012 về chương trình thực
hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo sự phân công của Ban chỉ đạo cải cách tư
pháp trung ương từ nay đến năm 2016, dự kiến trình Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp
trung ương năm 2014. Khẳng định tinh thần luôn nghiên cứu và định hướng hoàn
thiện pháp luật tố tụng dân sự nói chung và quy định về hòa giải trong tố tụng dân
sự nói riêng, gần đây, tại Chỉ thị số 01/2014/CT-CA ngày 14-01-2014, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo: Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, giao
cho Viện khoa học xét xử tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao trong
việc rà soát các quy định của pháp luật hiện hành và khẩn trương xây dựng các dự

5
án Luật, Pháp lệnh mà Tòa án nhân dân tối cao được giao chủ trì soạn thảo, trong
đó có các dự án luật tố tụng, đảm bảo thể chế hóa đầy đủ các quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp. Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử;
thường xuyên rà soát để tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao và Hội
đồng Thẩm phán ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật trong công tác xét xử của Tòa án.
Được sự hỗ trợ của Dự án "Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại
Việt Nam ", tiểu hợp phần này đánh giá thực trạng hòa giải tranh chấp tại Tòa án;
đưa ra những đề xuất, khuyến nghị cụ thể để hoàn thiện những quy định về hòa
giải tại Tòa án, từ đó bảo vệ tốt hơn quyền của các chủ thể tại Tòa án Việt Nam.
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN
DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN

2.1. Khái quát chung về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án
2.1.1. Khái niệm hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án
Hòa giải theo Từ điển Tiếng Việt
1
là “Thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt
xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa”; theo Từ điển Luật học: “Hòa giải là
sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian
giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp
giữa họ. Việc giải quyết tranh chấp được thực hiện thông qua người trung gian
hòa giải”
2
.
Hòa giải, theo nghĩa chung nhất, là một phương thức giải quyết tranh chấp
giữa các bên thông qua sự tác động, giúp đỡ của chủ thể thứ ba đóng vai trò trung
gian hòa giải, các bên tranh chấp tự nguyện chấm dứt tranh chấp bằng thỏa thuận.
Nội dung thỏa thuận của các bên không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đề cập tới thủ tục hòa giải tại Tòa án là chỉ những hoạt động dưới sự chủ trì
của Thẩm phán Tòa án nhân dân để các bên đương sự giải quyết tranh chấp về
quyền lợi, nghĩa vụ dân sự. Hòa giải bắt nguồn từ sự giao lưu dân sự theo nguyên
tắc tự do, tự nguyện cam kết và tự thỏa thuận của các bên đương sự, hòa giải thể
hiện quyền tự định đoạt của các bên đương sự khi tham gia tố tụng dân sự. Theo
quy định của BLTTDS, hòa giải vừa là nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết vụ
án theo thủ tục tố tụng dân sự, vừa là chế định quan trọng của pháp luật tố tụng
dân sự, là phương thức giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng
của đương sự mà mang lại hiệu quả thi hành án cao và góp phần giảm kinh phí
giải quyết tranh chấp cho cả nhà nước và các đương sự nếu việc hòa giải thành
công. Tại Điều 10 của BLTTDS quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà
giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải
quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, trong việc giải
quyết vụ án dân sự, Tòa án đóng vai trò là trung gian hòa giải, giúp đỡ các bên



1
Từ điển Tiếng Việt, (NXB Đà Nẵng; năm 1996; Tr.430).
2
West Pus.Co (1983), Từ điển Luật học Black.

6
đương sự thỏa thuận giải quyết vụ án. Điều này có nghĩa, hòa giải là sự tự nguyện
thỏa thuận và thương lượng giữa các đương sự về việc giải quyết vụ án với sự
giúp đỡ của Tòa án nhân dân nhằm hướng sự thỏa thuận và thương lượng giữa các
đương sự đúng pháp luật và chính sách… Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự,
hòa giải là một thủ tục đặc trưng và mang tính bắt buộc đối với Tòa án trước khi
mở phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án mà pháp luật quy định phải hòa giải
3
.
Khi tiến hành hòa giải, Tòa án thực hiện theo một trình tự và thủ tục nhất định,
Tòa án giải thích pháp luật làm cho các bên hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình
trong quan hệ tranh chấp nhằm mục đích hướng các đương sự tự nguyện thỏa
thuận với nhau về giải quyết tranh chấp giữa họ.
Từ quy định của pháp luật và các định nghĩa nêu trên, hòa giải trong tố tụng
dân sự được hiểu là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các bên đương
sự hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, hướng dẫn, động viên các đương sự tự
nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc đang có tranh chấp và đi
đến kết quả giải quyết vụ án một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam có một số đặc thù sau đây:
Thứ nhất, hòa giải vụ việc dân sự là một hoạt động tố tụng được tiến hành
theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Việc hòa giải vụ việc dân sự là một thủ tục bắt buộc (trừ những trường hợp
pháp luật quy định không được hòa giải) trong quá trình tố tụng của một vụ việc

dân sự và được quy định tại các điều từ Điều 180 đến Điều 188 của BLTTDS.
Với ý nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, mọi vấn đề phát
sinh trong quá trình hòa giải vụ án dân sự được pháp luật tố tụng dân sự điều
chỉnh. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở để tiến hành hòa giải
các vụ án dân sự và bắt buộc Tòa án, những người khác tham gia hòa giải phải
tuân thủ.
Thứ hai, Tòa án (Thẩm phán) là chủ thể trung gian tiến hành hòa giải
Khác với các loại hòa giải khác (như hòa giải tại cơ sở do Hòa giải viên cơ
sở tiến hành, hòa giải tiền tố tụng tại Ủy ban nhân dân do Ủy ban nhân dân tiến
hành), hòa giải vụ án dân sự do Tòa án là cơ quan duy nhất tiến hành. Tòa án tiến
hành hòa giải với vai trò chủ thể trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp trong suốt
quá trình giải quyết vụ việc dân sự để các bên đạt được sự thỏa thuận, đồng thời
đảm bảo tính pháp lý của hòa giải.
Thứ ba, kết quả của hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải
quyết các vấn đề của vụ việc dân sự
Các đương sự trong vụ việc dân sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
tranh chấp trên tinh thần tự nguyện, trung thực, không bị bất kỳ một sự cưỡng ép
hay can thiệp nào khác. Chỉ đương sự mới có quyền quyết định về việc giải quyết
quyền và lợi ích của họ trong quá trình hòa giải. Khi các đương sự thỏa thuận


3
Bùi Đăng Huy (1996), Hòa giải trong tố tụng dân sự - Thực tiễn và hướng hoàn thiện, Luận án thạc sĩ luật học,
Hà Nội.

7
được với nhau về vấn đề giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa
giải thành, hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các
bên không thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì Tòa án ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự.

Có thể nói đây là một trong những điểm đặc thù nhất của hòa giải vụ việc
dân sự tại Tòa án. Nếu không đảm bảo nguyên tắc các bên tự thỏa thuận và quyết
định về việc hòa giải vụ việc của mình, mà có bên bị nhầm lẫn, đe dọa, cưỡng ép
thỏa thuận, tức là quá trình hòa giải đã bị vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, là
căn cứ để bị Viện kiểm sát kháng nghị đề nghị hủy quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự.
Thứ tư, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là quyết định
có hiệu lực thi hành ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm. Đồng thời, theo quy định của Điều 106 Hiến pháp năm
2013, thì “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị
nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2.1.2. Ý nghĩa của hòa giải vụ việc dân sự tại Tòa án
a) Bảo đảm tối đa quyền tự định đoạt của đương sự trong việc giải quyết vụ
việc dân sự
Trong giao lưu dân sự, các bên được tự do giao kết và thực hiện quyền,
nghĩa vụ mà họ đặt ra không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Khi có tranh
chấp trong quá trình giao kết và thực hiện giao kết đó, các bên cũng được tự do
lựa chọn phương thức để giải quyết tranh chấp của mình, đó có thể là Trọng tài,
Tòa án, hòa giải bằng cá nhân hoặc tổ chức ngoài Tòa án… Do đó, có thể hiểu
hòa giải được bắt nguồn từ sự giao lưu dân sự theo nguyên tắc tự do, tự nguyện
cam kết và tự thỏa thuận của các bên đương sự, hòa giải thể hiện quyền tự định
đoạt của các bên đương sự khi tham gia tố tụng dân sự.
Việc BLTTDS quy định hòa giải các vụ việc dân sự là một trong những
nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự và quy định Tòa án có trách nhiệm tiến hành
hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ việc dân sự là nhằm bảo đảm tối đa quyền tự định đoạt của đương

sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án với vai trò là trung gian hòa
giải, không can thiệp vào nội dung giải quyết vụ án của các đương sự. Các đương
sự tự quyết định việc giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án.
b) Hòa giải thành giúp giải quyết nhanh chóng, hiệu quả vụ việc dân sự, tiết
kiệm được tiền của, công sức, thời gian của Nhà nước và nhân dân trong trường
hợp hòa giải thành

8
Giải quyết vụ việc dân sự là một quá trình kéo dài qua các thủ tục tố tụng
theo quy định của BLTTDS. Mỗi thủ tục tố tụng được quy định thời hạn riêng
nhất định và phải trải qua một thời gian người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng mới hoàn thành. Hòa giải là thủ tục tố tụng nằm trong giai đoạn đầu của quá
trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Nếu hòa giải thành, sẽ giúp việc giải quyết vụ việc
nhanh chóng kết thúc ngay ở giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ việc. Nếu
các đương sự không thể thỏa thuận được về việc giải quyết vụ việc, việc hòa giải
không thành, vụ việc sẽ phải đưa ra xét xử sơ thẩm. Sau khi được xét xử sơ thẩm,
bản án/quyết định của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm. Theo quy định của khoản 6 Điều 279 BLTTDS, thì “Bản án phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án”. Tuy nhiên, việc giải quyết vụ
việc vẫn có thể bị kéo dài hơn nữa, bởi theo quy định của BLTTDS, bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm. Thậm chí, việc giải quyết vụ việc còn có thể phải trải qua thủ tục
đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
(Quyết định Giám đốc thẩm, Quyết định Tái thẩm) khi có căn cứ xác định quyết
định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đương sự
không biết được khi ra quyết định đó (Điều 310a BLTTDS). Trường hợp bản án,
quyết định của Tòa án bị tuyên hủy để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại, thì việc
giải quyết vụ án lại phải quay vòng thêm một quy trình tố tụng nữa theo quy định

của BLTTDS mà chưa biết bao giờ mới kết thúc.
Khi các đương sự thỏa thuận được về việc giải quyết tất cả các vấn đề của vụ
việc, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, nếu hết
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự
nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó. Quyết định của Tòa án công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự thường được thi hành nhanh chóng do xuất phát từ những
cam kết tự nguyện của các đương sự nên họ tự giác thi hành. Việc khiếu nại,
kháng nghị quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thường ít xảy
ra. Trong khi đó, như trình bày ở trên, thực tiễn xét xử nhiều vụ án dân sự thường
có xu hướng bị các bên đương sự kháng cáo hoặc bị Viện kiểm sát kháng nghị
dẫn đến việc giải quyết những vụ án này kéo dài, phức tạp và tốn kém tiền của,
công sức, thời gian của nhà nước và đương sự. Hòa giải trong tố tụng dân sự nằm
ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, do đó, nếu các bên có thể đi đến thống nhất,
hòa giải thành, thì việc giải quyết vụ án đã được rút ngắn rất nhiều thời gian so
với một vụ án thông thường, từ đó giúp giảm nhiều loại chi phí tố tụng, thời gian,
công sức cho cả Nhà nước và các đương sự.
c) Khôi phục và củng cố đoàn kết trong nội bộ nhân dân
Trong lĩnh vực dân sự, trước khi khởi kiện, phần lớn các bên đương sự là
những người có quan hệ với nhau (quan hệ huyết thống, quan hệ bè bạn, quan hệ
kinh doanh,…) nhưng vì một lý do nào đó đã nảy sinh tranh chấp với nhau. Nếu
được sự hướng dẫn, giúp đỡ, giải thích của Tòa án, có thể các đương sự sẽ tìm ra
cách thỏa thuận chung để giải quyết tranh chấp. Việc quy định hòa giải là một thủ

9
tục trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, một phần cũng xuất phát từ truyền
thống dân tộc Việt Nam, đó là truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái và tình
cảm con người được đặt lên hàng đầu mỗi khi xem xét một vấn đề nào đó liên
quan đến tranh chấp. Hòa giải giúp cho các đương sự hiểu biết và thông cảm với
nhau, giảm bớt mâu thuẫn, tranh chấp, ngăn ngừa tội phạm có nguồn gốc từ tranh
chấp dân sự.

d) Nâng cao ý thức pháp luật của công dân
Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án, các đương sự nắm được quy
định của pháp luật liên quan đến quan hệ tranh chấp, hiểu được quyền và nghĩa vụ
hợp pháp của mình. Trên cơ sở đó, họ tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
e) Giúp Tòa án xác định rõ tình tiết, sự kiện, yêu cầu của các bên tranh
chấp, từ đó xác định đúng quan hệ tranh chấp và giải quyết đúng đắn vụ việc
Trong trường hợp hòa giải không thành, thì việc tiến hành hòa giải vụ việc dân
sự cũng giúp Tòa án có điều kiện tìm hiểu sâu hơn nội dung tranh chấp, hiểu biết rõ
hơn tâm tư, nguyện vọng cũng như các vướng mắc của các đương sự để từ đó có
thể xác định phương hướng giải quyết vụ án đúng đắn hơn khi đưa vụ án ra xét xử.
Qua đó, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được ban hành và thi hành nhanh
chóng, có hiệu quả.
2.1.3. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
Là một bộ phận quan trọng của pháp luật tố tụng dân sự, chế định hòa giải
được hình thành trên cơ sở kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử và chịu tác
động sâu sắc của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội đương thời. Quá
trình hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự mang tính
liên tục, kế thừa và phát triển nhằm đáp ứng với yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
Chế định hòa giải đã xuất hiện trong hệ thống cổ luật Việt Nam từ thời Lý, Trần,
Lê… Tuy nhiên, trong phạm vi báo cáo này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu
chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam giai đoạn từ những
năm 1945 đến nay.
a) Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989:
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam nói
riêng đã bước sang trang mới, nền tư pháp của chế độ dân chủ nhân dân được
hình thành và từng bước kiện toàn.
Trong những ngày đầu tiên của chính quyền Cách mạng non trẻ, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký ban hành những Sắc lệnh xóa bỏ bộ máy nhà nước của chế độ cũ,

trong đó có Sắc lệnh số 18 ngày 08-9-1945 bãi bỏ ngành học quan, Sắc lệnh số 32
ngày 13-9-1945 bãi bỏ ngạch quan hành chính và quan tư pháp. Đồng thời, nhà
nước đã khẩn trương bắt tay xây dựng bộ máy Nhà nước dân chủ nhân dân, trong
đó hệ thống các cơ quan tư pháp đã nhanh chóng được thiết lập. Ngày 13-9-1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33 thành lập các Tòa án quân sự, hệ thống

10
các cơ quan xét xử từng bước được kiện toàn. Tuy nhiên, không thể một sớm, một
chiều hệ thống pháp luật của chế độ dân chủ nhân dân được hình thành. Do đó, Sắc
lệnh ngày 10-10-1945 quy định “Cho đến khi ban hành được các bộ luật cho toàn
cõi Việt Nam, các luật lệ tiến hành ở Bắc, Trung, Nam vẫn được giữ nguyên như cũ
với điều kiện là những quy định pháp luật chỉ được thi hành nếu không trái với
những nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa”.
Với tinh thần của Sắc lệnh này, các quy định pháp luật về dân sự và tố tụng
dân sự, trong đó có các quy định về hòa giải nếu không trái với những nguyên tắc
độc lập của nước Việt Nam là chính thể cộng hòa thì tiếp tục được áp dụng. Cùng
với việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, hệ thống pháp luật nói
chung, pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự nói riêng từng bước được hình thành
và hoàn thiện. Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự đã được nhà nước
ta hết sức chú trọng. Sắc lệnh số 13 ngày 24-01-1946 về tổ chức Tòa án và các
ngạch Thẩm phán quy định: Ban Tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả các việc dân
sự và thương sự. Nếu hòa giải được, Ban Tư pháp xã có thể lập biên bản hòa giải
có các ủy viên, đương sự ký.
Điều 4 Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự
phân công giữa các nhân viên trong Tòa án quy định: Ban Tư pháp xã hòa giải tất
cả các việc hộ và thương mại do người đương sự muốn mang ra trước ban Tư
pháp ấy. Biên bản hòa giải ấy chỉ có hiệu lực như chứng thư. Điều 9 Sắc lệnh này
quy định: Khi nhận được đơn khởi kiện về dân sự hay thương sự, ông Thẩm phán
sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử hòa giải. Biên bản hòa giải có hiệu lực như
chứng thư. Điều 12 Sắc lệnh này cũng quy định: Những việc kiện dân sự và

thương sự thuộc về thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp đều phải giao trước về cho
ông Thẩm phán sơ cấp thử hòa giải.
Điều 9 Sắc lệnh số 85-SL ngày 22-5-1950 về cải cách bộ máy tư pháp và
Luật tố tụng quy định: Tòa án nhân dân hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và
thương sự, kể cả việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự
không có quyền điều chỉnh. Theo Điều 10 Sắc lệnh này, thì biên bản hòa giải
thành do Thẩm phán lập có giá trị là một công chính chứng thư có thể đem chấp
hành ngay. Tuy nhiên, cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp hành xong, nếu
biện lý xét biên bản phạm đến trật tự chung thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều mà hai bên thỏa thuận. Phòng biện lý
được quyền kháng cáo 15 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản hòa giải thành.
Thông tư số 556/TTg ngày 24-12-1958 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường sự lãnh đạo đối với việc bắt giữ, truy tố, xét xử đã nhấn mạnh: “Đối với xích
mích, xung đột, thưa kiện giữa nhân dân với nhau thì phải kiên trì dàn xếp ổn thỏa”.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn, đất nước
tạm thời chia cắt 2 miền, tình hình đất nước có nhiều thay đổi, để đáp ứng với
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm
1946 là một tất yếu khách quan. Tại kỳ họp thứ 11 (ngày 31-12-1959) Quốc hội
Khóa I đã chính thức thông qua Hiến pháp sửa đổi, ngày 01-01-1960 Chủ tịch Hồ
Chí Minh kí sắc lệnh công bố Hiến pháp. Hiến pháp năm 1959 bao gồm lời nói

11
đầu, 10 chương với 112 điều, là sự kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946,
trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Nó là cơ sở, nền tảng để xây dựng
toàn bộ hệ thống pháp luật ở miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau khi Hiến pháp năm 1959 ra đời, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960
và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 được ban hành. Điều 16 Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân quy định: “Tòa án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ hòa giải
những tranh chấp về dân sự …và hướng dẫn công tác hòa giải ở xã và khu phố”.

Để triển khai nhiệm vụ này, Tòa án nhân dân tối cao đã ra Thông tư số 1080-
TATC ngày 25-9-1961 quy định: “Trong khi thực hiện thẩm quyền mới các Tòa
án nhân dân … Cần đề phòng khuynh hướng đưa ra xét xử nhiều việc và thiếu
kiên trì hòa giải, giáo dục các đương sự và nhân dân”.
Thông tư số 2421-TATC ngày 29-12-1961 cũng nêu rõ: “Về nguyên tắc việc
hòa giải của Tòa án không có Hội thẩm nhân dân tham gia”.
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 quy định: “khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ quan có thẩm
quyền sẽ điều tra và hòa giải, hòa giải không được, Tòa án sẽ xét xử”.
Báo cáo tổng kết công tác năm 1966 của ngành Tòa án đã nhấn mạnh việc
tiếp tục tăng cường công tác hòa giải của Tòa án nhân dân các cấp trong quá trình
xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
Để khắc phục những bất cập của chế định hòa giải trong hệ thống pháp luật,
đáp ứng với yêu cầu giải quyết các vụ án dân sự, ngày 30-11-1974, Tòa án nhân
dân tối cao đã ban hành Thông tư 25-TATC hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng
dân sự. Thông tư này đã quy định thẩm quyền, trình tự và phương pháp hòa giải
các vụ án dân sự.
Có thể nói, Thông tư số 25-TATC ngày 30-11-1974 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng dân sự đã đánh dấu một bước phát triển
quan trọng của chế định hòa giải. Các quy định trong Thông tư này có những
điểm khác biệt so với các quy định trước đó, thủ tục và phương pháp tiến hành
hòa giải đã được quy định một cách chi tiết, rõ ràng, cụ thể.
Thông tư số 81-TATC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn các Tòa án nhân dân địa phương giải quyết tranh chấp về thừa kế quy định:
“Cần kiên trì hòa giải nhằm góp phần củng cố và phát triển tình đoàn kết thương
yêu trong nội bộ gia đình, đảm bảo sản xuất và công tác,… và phải quán triệt
phương châm hòa giải, khuyến khích sự tương trợ lẫn nhau giữa các đương sự
đảm bảo cho việc xét xử có lý, có tình và tạo thuận lợi cho việc thi hành án”.
b) Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004:
Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự, góp phần tích cực vào

công cuộc đổi mới của đất nước, ngày 29-12-1989 Nhà nước đã ban hành Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Pháp lệnh này quy định cụ thể thủ tục
giải quyết vụ án dân sự, trong đó hòa giải được ghi nhận là một nguyên tắc, một

12
thủ tục mà Tòa án phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án. Đây là một
bước phát triển mới của Pháp luật tố tụng dân sự nói chung và của chế định hòa
giải nói riêng.
Sau khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có hiệu lực thi hành,
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, trong đó đã hướng dẫn về
thủ tục, phạm vi của hòa giải. Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao cũng ban hành
nhiều Công văn nhằm hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trong đó có pháp
luật về hòa giải trong tố tụng dân sự, như:
- Công văn số 130/NCPL ngày 16-12-1991 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn giải quyết các vụ án ly hôn với một bên đương sự ở nước ngoài;
- Công văn số 43/KHXX ngày 21-4-1998 của Tòa án nhân dân tối cao trả lời
về hiệu lực của Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên
tòa sơ thẩm và hướng dẫn áp dụng khoản 1 Điều 52 của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự;
- Công văn số 81/TATC ngày 10-6-2002 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn về công tác xét xử, trong đó có hướng dẫn về thủ tục hòa giải trước khi mở
phiên tòa phúc thẩm và hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm…
Ngoài ra Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 88) cũng quy định “Sau
khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự”, tức là Tòa án phải tiến hành hòa giải các trường hợp
ly hôn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm; Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 11 về
nguyên tắc hòa giải, Điều 171 về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện) cũng có những
quy định liên quan đến hòa giải.

Các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn có liên quan nêu trên
đã quy định cụ thể về hòa giải như: Nguyên tắc hòa giải; thẩm quyền hòa giải của
Tòa án nhân dân các cấp; thủ tục hòa giải; …
c) Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2011:
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XI đã thông qua BLTTDS năm 2004. Sau khi
BLTTDS được ban hành, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan đã ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này như:
- Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15-6-2004 của Quốc hội về việc thi
hành BLTTDS;
- Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24-12-2004 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự quy định
tại Điều 33 của BLTTDS cho Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh;
- Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất: “Những quy định chung” của BLTTDS;

13
- Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS
về “chứng minh và chứng cứ”;
- Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS;
- Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy trong Phần thứ ba
“thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS.
BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự và
thủ tục khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động; trình tự và thủ tục giải quyết các vụ việc

dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng… đảm bảo cho
việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và
đúng pháp luật. Ngoài việc kế thừa những điểm hợp lý của các quy định trong các
văn bản trước đây về hòa giải, BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ
luật này còn bổ sung nhiều quy định mới như quy định về thành phần hòa giải,
việc thông báo hòa giải, trình tự thủ tục hòa giải… Các quy định của BLTTDS và
các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật này về hòa giải vụ việc dân sự là một bộ
phận chủ yếu của chế định hòa giải trong pháp luật dân sự hiện hành. Việc ban
hành BLTTDS đánh dấu bước phát triển quan trọng của hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng.
d) Giai đoạn từ năm 2011 đến nay:
Để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh việc giải quyết các tranh chấp dân sự trong
tình hình mới, khắc phục những tồn tại trong hệ thống pháp luật, ngày 26-3-2011,
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-
01-2012. Tại Điều 5 của BLTTDS quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc
thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
Điều này có nghĩa là các đương sự hoàn toàn có quyền tự mình quyết định việc có
tham gia tố tụng hay không. Khi tham gia tố tụng các đương sự có quyền tự mình
thỏa thuận với nhau về các vấn đề tranh chấp, miễn sao sự thỏa thuận đó không
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, BLTTDS cũng quy định trách nhiệm
của Tòa án đối với việc hòa giải. Tại Điều 10 quy định: “Tòa án có trách nhiệm
tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Vì tính chất
quan trọng của hòa giải cho nên BLTTDS đã dành Chương XIII quy định về hòa
giải và chuẩn bị xét xử, trong đó các điều từ Điều 180 đến Điều 188 quy định

14

nguyên tắc, thành phần, nội dung, trình tự, biên bản hòa giải cũng như quyết định
công nhận, không công nhận sự thỏa thuận của các bên.
Như vậy, các quy định về hòa giải của BLTTDS đã được hoàn thiện trên cơ
sở kế thừa, pháp điển hóa các quy định về hòa giải các vụ án dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh tế, lao động. Các quy định này là chuẩn mực chung cho hòa giải các vụ
án dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động; đồng thời tạo cơ sở để đa dạng hóa các
hình thức hòa giải tranh chấp dân sự nói chung nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt
của các đương sự và thể hiện trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, đồng thời quy định về hòa giải của
BLTTDS đã khắc phục được sự tản mạn, phân tán của các quy định về hòa giải
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật trước đây. BLTTDS cũng đã cá thể hóa
trách nhiệm của Thẩm phán trong việc hòa giải. Trước đây pháp luật chỉ quy định
chung chung trách nhiệm hòa giải của Tòa án dẫn đến quan niệm cho rằng bất cứ
cán bộ nào của Tòa án cũng có thể tiến hành hòa giải được.
Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đã xác định trách
nhiệm của Tòa án trong quá trình hòa giải vụ việc dân sự là giúp các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc; đồng thời tạo cơ chế đảm bảo cho
việc thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong quá trình hòa giải. Để đảm bảo
cho việc hòa giải được tiến hành nhanh chóng, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi,
bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự. Theo
đó, các điều 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21 của BLTTDS hướng dẫn về những vụ án
dân sự không được hòa giải, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được,
thành phần phiên hòa giải, trình tự hòa giải, biên bản hòa giải, quyết định công
nhân sự thỏa thuận của các đương sự.
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hòa giải vụ án

dân sự tại Tòa án
BLTTDS dành nhiều quy định để điều chỉnh chế định hòa giải trong tố tụng
dân sự, bắt đầu từ việc đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc cơ bản như
tại Điều 5 về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, Điều 10 về hòa giải
trong tố tụng dân sự; đồng thời đưa ra những quy định chi tiết cụ thể hơn nhằm
bảo đảm thực hiện những nguyên tắc đó, cụ thể là những quy định về nguyên tắc
tiến hành hòa giải (Điều 180), quy định về nội dung, phạm vi, trình tự, thủ tục tiến
hành hòa giải (Điều 181, Điều 182, Điều 183, Điều 184, Điều 185, Điều 186), quy
định về hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành (Điều 187, Điều 188).
2.2.1. Nguyên tắc hòa giải

15
a) Hòa giải là một thủ tục tố tụng dân sự
Tại Điều 10 BLTTDS quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải
và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết
vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Việc hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự là một thủ tục tố
tụng dân sự do Tòa án tiến hành. Thủ tục này có tính chất bắt buộc đối với Tòa
án, trừ trường hợp không hòa giải được hoặc không được hòa giải theo quy định
của pháp luật. Nếu Tòa án không thực hiện thủ tục hòa giải trước khi mở phiên
tòa xét xử sơ thẩm mà đưa vụ án ra xét xử là vi phạm thủ tục tố tụng.
b) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp
với ý chí của mình
Đây là nguyên tắc được quy định tại khoản 1 Điều 180 của BLTTDS. Sự tự
nguyện của các đương sự là nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự nói chung
và hòa giải các vụ án dân sự nói riêng. Nguyên tắc này xuất phát từ quyền tự định
đoạt của các đương sự. Sự tự nguyện này được thể hiện ở hai nội dung: Tự
nguyện tham gia hòa giải và tự nguyện thỏa thuận nội dung giải quyết vụ án.
- Tự nguyện tham gia hòa giải: Đương sự có quyền lựa chọn có tham gia hòa

giải hay không. Nếu bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
không có lý do chính đáng thì có nghĩa là bị đơn từ chối hòa giải. Trong trường
hợp này, Tòa án không được ép buộc bị đơn tham gia hòa giải, Tòa án sẽ lập biên
bản về việc không tiến hành hòa giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
- Tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải: Trong quá trình hòa giải, các bên
tranh chấp được bàn bạc, thảo luận và đi đến thống nhất phương án giải quyết
tranh chấp. Nếu đương sự chấp nhận thỏa thuận và việc thỏa thuận này là do hành
vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực tác động đến ý chí chủ quan của đương sự
làm cho họ phải lựa chọn cách thức thỏa thuận để bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự nhân phẩm và tài sản của mình thì cũng không được coi là tự nguyện
thỏa thuận.
Trong quá trình hòa giải, Tòa án với vai trò trung gian giúp các đương sự
hiểu về quyền và nghĩa vụ liên quan tới các tranh chấp, tự nguyện thỏa thuận với
nhau về giải quyết vụ án. Tòa án không được can thiệp vào thỏa thuận của các
đương sự nếu nội dung thỏa thuận đó không trái pháp luật. Các đương sự là chủ
thể của các tranh chấp nên chính họ mới là người có quyền định đoạt về việc giải
quyết quyền lợi của họ trong tranh chấp đó. Giá trị pháp lý của việc hòa giải chỉ
được công nhận và ý nghĩa, tác dụng của nó chỉ trở thành hiện thực khi thỏa thuận
của các đương sự xuất phát từ chính nguyện vọng của họ.
c) Nội dung thỏa thuận không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội
Quy định này được nêu tại khoản 2 Điều 180 của BLTTDS. Sự tuân thủ
pháp luật là yêu cầu bắt buộc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó,

16
trong quá trình hòa giải, các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau, nhưng các
thỏa thuận đó không phù hợp với quy định của pháp luật và trái đạo đức xã hội thì
thỏa thuận đó cũng không được công nhận. Mặt khác, là một hoạt động tố tụng,
hòa giải chỉ được tiến hành trên cơ sở của pháp luật và mọi sự thỏa thuận về giải
quyết vụ án phải phù hợp với quy định của pháp luật.

2.2.2. Phạm vi hòa giải
Theo Điều 180 BLTTDS quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa
giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này”. Theo đó, hòa giải
được tiến hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án và được thực hiện
đối với việc giải quyết hầu hết các vụ án dân sự, trừ những trường hợp sau đây:
a) Những vụ án không được hòa giải theo quy định tại Điều 181 BLTTDS
Những vụ án không được hòa giải theo quy định tại Điều 181 bao gồm:
(1) Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của nhà nước
Đối với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của nhà nước, Tòa án
không được hòa giải vì tài sản của nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Mọi hành vi
gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước đều là trái pháp luật và phải bồi thường,
người gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước không có quyền điều đình và thỏa
thuận với Nhà nước về trách nhiệm và mức bồi thường. Quy định này nhằm đảm
bảo nguyên tắc bất khả xâm phạm đối với tài sản của Nhà nước, phòng ngừa
những trường hợp thỏa thuận gây hại đến tài sản Nhà nước.
Theo hướng dẫn tại Điều 18 của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP
4
, thì:
“Tài sản của Nhà nước” được hiểu là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà
nước quy định tại Điều 200 của Bộ luật dân sự năm 2005 và được điều chỉnh theo
các quy định tại mục 1 Chương XIII của Bộ luật dân sự năm 2005.
“Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước” là trường hợp
tài sản của Nhà nước bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật, do hợp đồng vô hiệu,
do vi phạm nghĩa vụ dân sự, gây ra và người được giao chủ sở hữu đối với tài
sản Nhà nước đó có yêu cầu đòi bồi thường.
Khi thi hành quy định tại khoản 1 Điều 181 của BLTTDS cần phân biệt:
(i) Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị
vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước

thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu cầu đòi
bồi thường thiệt hại đến loại tài sản này, Toà án không được hoà giải để các bên
đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
(ii) Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh


4
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố
tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.

17
nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của
các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà
doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và
chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Toà án
tiến hành hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ
án theo thủ tục chung.
(2) Những vụ án phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội
Toà án không được hoà giải vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp
luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật) hoặc trái đạo đức xã hội, nếu
việc hoà giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó.
Trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch
vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Toà án vẫn phải tiến hành
hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của
giao dịch vô hiệu đó
5
.
Giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội đã vô hiệu ngay từ khi giao

kết. Các bên tham gia giao dịch không thể thỏa thuận để giải quyết hành vi trái
pháp luật của mình. Ví dụ, trường hợp kiện đòi tài sản vay là Đôla Mỹ, kiện đòi
tiền nợ do sinh con thuê…Tuy nhiên, thực tiễn, nhiều giao dịch dân sự trái pháp
luật do những nguyên nhân khách quan, nên khi giải quyết vụ án, Tòa án phải
xem xét thận trọng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Khi giải
quyết loại vụ án này, Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật.
b) Những vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 182
BLTTDS
Những vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 182
BLTTDS, bao gồm:
(1) Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình
vắng mặt
Trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vẫn cố tình vắng mặt, thì Toà án lập biên bản về việc không tiến hành hoà giải
được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Trong trường hợp tại phiên toà, bị đơn có yêu cầu Toà án hoãn phiên toà để tiến
hành hoà giải, thì Toà án không chấp nhận, nhưng cần tạo điều kiện cho các bên
thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án
6
.
Việc pháp luật quy định Tòa án phải tiến hành hòa giải trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự là nhằm tạo điều kiện cho các đương sự có cơ hội gặp gỡ, tìm
hiểu để từ đó tự thương lượng thỏa thuận với nhau về mọi vấn đề cần giải quyết
trong vụ án. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị kiện, bị nguyên đơn cho rằng


5
Hướng dẫn tại khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP.
6

Hướng dẫn tại Điều 16 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP.

18
đã xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ và bị buộc phải tham gia tố tụng. Tòa
án triệu tập bị đơn đến tham gia phiên hòa giải là muốn hai bên đương sự tự
nguyện thỏa thuận với nhau. Việc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia
phiên hòa giải mà vắng mặt, thì chứng tỏ họ đã từ bỏ việc tham gia hòa giải. Tòa
án không có quyền ép buộc bị đơn phải tham gia hòa giải, song nếu bị đơn vắng
mặt thì nguyên đơn không còn đối tác để thỏa thuận việc giải quyết vụ án nên Tòa
án sẽ không tiến hành hòa giải được.
(2) Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng
Trường hợp này được áp dụng đối với cả hai bên đương sự. Khi các đương
sự có lý do chính đáng để từ chối tham gia phiên hòa giải thì Tòa án cũng không
thể tiến hành hòa giải được. Chẳng hạn, đến ngày tham gia phiên hòa giải mà
đương sự bị bệnh nặng phải nằm viện điều trị hoặc trên đường đương sự đến Tòa
án tham gia phiên hòa giải mà không may bị thương tích nặng do tại nạn giao
thông và phải vào viện cấp cứu thì Tòa án phải hoãn phiên hòa giải, đương nhiên
trường hợp này phải có giấy tờ hợp lệ của bệnh viện.
(3) Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực
hành vi dân sự
Theo quy định tại Điều 22 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì người bị coi là
mất năng lực hành vi dân sự khi người đó rơi vào tình trạng không thể nhận thức
và làm chủ được hành vi của mình do bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác.
Trong vụ án ly hôn, vợ và chồng là chủ thể chính, nếu một trong hai bên đã rơi
vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì Tòa án không thể hòa giải được.
Nếu Tòa án tiến hành hòa giải trong trường hợp này, thì kết quả hòa giải đó cũng
không được pháp luật thừa nhận. Bởi vì khi một người đã không thể nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình thì sự thỏa thuận của họ không phải là ý chí thực
của họ.
Đối với những vụ án mà Tòa án không tiến hành hòa giải được trong quá

trình giải quyết vụ án thì không thể có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Tuy nhiên, trong những trường hợp các đương sự tự hòa giải và rút đơn
khởi kiện mà qua việc kiểm tra thấy hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với những quy
định của pháp luật, thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đối
với những trường hợp không thể hòa giải được, thì Tòa án phải lập biên bản
không hòa giải được, nêu rõ lý do để lưu vào hồ sơ vụ án làm căn cứ tiếp tục giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
2.2.3. Thành phần phiên hòa giải
Theo quy định tại Điều 184 BLTTDS thì thành phần phiên hòa giải bao gồm:
(1) Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải;
(2) Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải;
(3) Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;

19
Trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương
sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hoà giải và việc hoà giải đó không ảnh hưởng đến
quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải giữa
các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hoà giải để có mặt tất
cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải. Thẩm phán
thông báo việc hoãn phiên hoà giải và việc mở lại phiên hoà giải cho đương sự
biết.
(4) Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan tham gia phiên hoà giải;
(5) Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.
Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, thì:
“1. Toà án phải triệu tập tất cả những người có liên quan đến việc giải quyết vụ
án quy định tại khoản 3 Điều 64 và Điều 184 của BLTTDS tham dự phiên hoà giải.
2. Nếu việc hoà giải vụ án có liên quan đến tất cả các đương sự trong vụ án
mà có đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải để mở lại
phiên hoà giải khác có mặt tất cả các đương sự. Thẩm phán thông báo hoãn

phiên hòa giải theo Mẫu số 06b ban hành kèm theo Nghị quyết này.
3. Nếu trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật mà quan hệ pháp luật này
liên quan đến đương sự này, quan hệ pháp luật kia liên quan đến đương sự khác
và việc giải quyết quan hệ pháp luật đó chỉ liên quan đến các đương sự có mặt,
không liên quan đến các đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán tiến hành hoà giải
những vấn đề có liên quan đến các đương sự có mặt.
Trường hợp nêu trên mà các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án, thì thoả thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt
và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền,
nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thoả thuận của họ có ảnh hưởng
đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt, thì thoả thuận này chỉ có giá trị nếu
đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải đồng ý bằng văn bản.
Trường hợp trước khi tiến hành hòa giải đương sự vắng mặt đã có ý kiến
bằng văn bản nhưng sau khi kết thúc phiên hòa giải, nội dung thỏa thuận của các
đương sự có mặt khác với nội dung văn bản thể hiện ý chí của đương sự vắng mặt,
thì Tòa án phải lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt về thỏa thuận của
các đương sự tại phiên hòa giải. Thủ tục và thời hạn lấy ý kiến bằng văn bản của
đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp
đương sự đồng ý với kết quả hoà giải thì ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của
đương sự vắng mặt được xác định là ngày các đương sự thỏa thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án.”
Rõ ràng, pháp luật tố tụng dân sự quy định trách nhiệm hòa giải của Tòa án
nhưng thực chất đó là trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
việc, Thẩm phán được phân công luôn là người chủ động, bố trí thời gian và nội
dung của các buổi làm việc. Thẩm phán cũng là người trực tiếp chịu trách nhiệm

20
trước cấp trên và nhà nước về kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, trong
phiên hòa giải chính thức, bắt buộc Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc
phải giữ vai trò là người chủ trì. Hơn nữa, chỉ có Thẩm phán giải quyết vụ việc

mới là người nắm rõ nhất về toàn bộ những vấn đề cần giải quyết và những vấn
đề liên quan trong vụ việc. Do đó, với vai trò là người thứ ba trung gian hòa giải,
Thẩm phán phải có mặt mới có thể đưa ra được những đề nghị hợp lý để các bên
đương sự có thể hòa giải được với nhau.
Sự có mặt của Thư ký trong phiên hòa giải là để ghi biên bản hòa giải. Thư
ký có trách nhiệm ghi lại toàn bộ nội dung phiên hòa giải, phản ánh trung thực
toàn bộ nội dung phiên hòa giải vào biên bản hòa giải. Đồng thời, sự có mặt của
Thư ký trong phiên hòa giải cũng là để đảm bảo tính khách quan, trung thực của
phiên hòa giải. Nếu để cho Thẩm phán vừa hòa giải, vừa ghi biên bản thì rất có
thể Thẩm phán sẽ ghi theo ý chí chủ quan của họ. Vì vậy, sự có mặt của Thư ký
trong phiên hòa giải cũng là bắt buộc.
Các đương sự là chủ thể chính của phiên hòa giải, sự có mặt của các đương
sự khi hòa giải là yêu cầu bắt buộc. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự
định đoạt của đương sự, chỉ có đương sự mới có quyền thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án. Một trong những quyền, nghĩa vụ của đương sự được quy
định tại điểm e khoản 2 Điều 58 của BLTTDS là: “Tự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án, tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành”.
Đương sự theo quy định tại Điều 56 của BLTTDS bao gồm: nguyên đơn, bị
đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người tham gia thủ tục tố tụng khởi kiện
vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi ích
của nhà nước thuộc lĩnh vực phụ trách hoặc được người khác khởi kiện vụ án dân
sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nguyên đơn tham gia
tố tụng mang tính chủ động hơn các đương sự khác. Hoạt động tố tụng của
nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng.
Bị đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện do
bị nguyên đơn hoặc người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc tham
gia tố tụng của bị đơn mang tính bị động chứ không phải là chủ động. Tuy nhiên,
trong hoạt động tố tụng dân sự, hoạt động của bị đơn cũng có thể làm thay đổi quá
trình giải quyết vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia
tố tụng và vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia tố tụng của người có quyền, nghĩa vụ
liên quan có thể do họ chủ động hoặc bị yêu cầu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bao gồm hai loại: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố
tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không
độc lập. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập có đủ
điều kiện pháp lý để khởi kiện vụ án dân sự nhưng do vụ án dân sự đã xuất hiện
giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ, nếu không việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ

21
gặp khó khăn hơn. Yêu cầu của họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan không độc lập có quyền và lợi ích phụ thuộc
vào nguyên đơn hoặc bị đơn nên việc tham gia tố tụng của họ phụ thuộc vào
nguyên đơn hoặc bị đơn. Tuy nhiên, khi tham gia tố tụng họ vẫn có quyền quyết
định trong phạm vi quyền hạn của họ.
Ngoài Thẩm phán, Thư ký và các đương sự, pháp luật cũng quy định thành
phần tham gia phiên hòa giải còn bao gồm cả người phiên dịch nếu đương sự
không biết tiếng Việt, cá nhân, tổ chức khác có liên quan vụ việc dân sự.
2.2.4. Nội dung hòa giải
Nội dung hòa giải được quy định theo Điều 185 của BLTTDS:“Khi tiến
hành hoà giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp
luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ
của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”.
Theo hướng dẫn tại Điều 18 của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, hướng
dẫn về nội dung hòa giải như sau:
“1. Toà án xem xét các yêu cầu cụ thể của đương sự trong vụ án phải giải
quyết để tiến hành hoà giải từng yêu cầu theo thứ tự hợp lý.

Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, có cả tranh chấp về nuôi con, chia tài sản thì Toà
án cần hoà giải về quan hệ hôn nhân trước, nếu hoà giải đoàn tụ không thành thì
tiếp tục tiến hành hoà giải việc nuôi con và sau đó hoà giải việc chia tài sản.
2. Khi tiến hành hoà giải, ngoài việc tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều
184 của BLTTDS, tùy theo các quan hệ pháp luật, Thẩm phán phổ biến cho các
đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án
để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình mà tự nguyện thoả thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án; phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành
cho các đương sự biết (như mối quan hệ giữa các đương sự, việc chịu án phí,…).
Thẩm phán không được nói trước với các đương sự ai sai, ai đúng ở chỗ nào
hoặc nếu các đương sự không thoả thuận được, thì hướng xét xử của Toà án như
thế nào,…”.
Như vậy, nội dung hòa giải của Thẩm phán là phổ biến cho các đương sự các
quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án, bao gồm phổ biến
quyền, nghĩa vụ của các đương sự, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải
thành cho các đương sự, việc chịu án phí, Tùy theo quan hệ pháp luật, yêu cầu
của đương sự trong vụ án cụ thể mà có nội dung hòa giải tương ứng.
2.2.5. Trình tự thủ tục hòa giải
a) Chuẩn bị phiên hòa giải
Điều 183 của BLTTDS quy định: “Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Tòa án
phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về
thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải, nội dung các vấn đề cần hoà giải".

22
Việc gửi Thông báo về phiên hòa giải cho các đương sự phải được thực hiện
theo các quy định từ các điều từ 46 đến 156 của BLTTDS. Theo đó, tùy trường
hợp mà Tòa án có thể tống đạt trực tiếp cho đương sự, gửi qua bưu chính, niêm
yết công khai hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác định rõ những vấn đề quan
trọng cần hòa giải và thông báo nội dung các vấn đề cần hòa giải cho đương sự.

b) Tiến hành phiên hòa giải
Theo quy định tại Điều 185a của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 19 Nghị
quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tiến
hành việc hòa giải theo trình tự như sau:
(1) Thẩm phán khai mạc phiên hòa giải và kiểm tra căn cước của những
người tham gia phiên hòa giải
- Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải khai mạc phiên hòa giải như sau: “Hôm
nay, ngày, tháng, năm, Toà án nhân dân… tiến hành tổ chức hòa giải vụ án về…,
tôi tuyên bố khai mạc phiên hòa giải”.
- Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải giới thiệu họ, tên những người tiến hành
tố tụng, người giám định, người phiên dịch, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác tham
gia phiên hòa giải (nếu có).
- Thư ký Toà án báo cáo với Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải về sự có mặt,
vắng mặt của những người tham gia phiên hòa giải theo giấy triệu tập, giấy báo
của Toà án và lý do vắng mặt. Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải kiểm tra lại sự có
mặt và kiểm tra căn cước của những người tham gia phiên hòa giải theo giấy triệu
tập, giấy báo của Toà án (quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 184 của
BLTTDS).
- Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải phải phổ biến đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác quy định tại điều luật
tương ứng của BLTTDS.
Ví dụ: Đối với nguyên đơn phải giải thích đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ
quy định tại Điều 58 và Điều 59 của BLTTDS,… Đối với người phiên dịch, Thẩm
phán chủ trì phiên hòa giải yêu cầu họ phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ; đối với
người làm chứng là người thành niên, thì yêu cầu họ cam đoan khai báo trung
thực.
(2) Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải theo nội dung hoà giải quy định tại
Điều 185 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 18 của Nghị quyết này.
(3) Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự trình bày ý kiến
của mình về những nội dung tranh chấp và đề xuất những vấn đề cần hòa giải.

(4) Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề
chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung những nội dung
chưa rõ, chưa thống nhất.
(5) Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã hòa giải thành

23
và vấn đề chưa thống nhất.
Phiên hòa giải phải được ghi biên bản theo quy định tại Điều 186 của
BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 20 của Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP, trước khi
kết thúc phiên hòa giải, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải xem xét (lập biên bản
hòa giải thành hoặc không thành…) về việc giải quyết vụ án tại phiên hòa giải. Cụ
thể như sau :
- Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 1
Điều 186, có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người quy định tại khoản 2
Điều 186 của BLTTDS và theo Mẫu số 07 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
- Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong
vụ án, thì Thẩm phán hoặc Thư ký Toà án lập biên bản hoà giải thành. Biên bản
hoà giải thành phải ghi cụ thể nội dung thoả thuận của các đương sự theo Mẫu số
08a ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ký tên và đóng dấu của Toà án vào biên
bản. Các đương sự tham gia phiên hoà giải phải ký tên hoặc điểm chỉ vào biên
bản hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải được gửi ngay cho các đương sự
tham gia hoà giải.
Đối với các đương sự vắng mặt mà việc hoà giải thuộc trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 184 của BLTTDS, thì Toà án phải gửi ngay biên bản hoà giải
thành cho các đương sự vắng mặt.
- Trong biên bản hoà giải thành cần ghi: “Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày lập biên bản hoà giải, nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thoả thuận,
thì phải làm thành văn bản gửi cho Toà án”. Trong trường hợp đương sự trực tiếp
đến Toà án thay đổi thoả thuận, thì Thẩm phán phải lập biên bản ghi ý kiến thay

đổi thoả thuận của họ. Biên bản phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự và
lưu vào hồ sơ vụ án. Việc thay đổi ý kiến về sự thoả thuận này phải được Tòa án
thông báo cho các đương sự khác có liên quan đến thoả thuận đó.
c) Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự quy định tại
Điều 187 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 21 của Nghị quyết số 05/2012/NQ-
HĐTP, cụ thể như sau:
Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có
đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó, thì về nguyên tắc chung Thẩm
phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự. Nếu vì trở ngại khách quan mà Thẩm phán không ra quyết định được, thì
Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán khác ra quyết định công nhận sự thoả
thuận của các đương sự.
Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, nếu
các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (các quan
hệ pháp luật, các yêu cầu của các đương sự trong vụ án) và có thể cả về án phí.
Việc thỏa thuẩn về án phí phải tuân theo quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí

×