Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Khả năng sản xuất của tổ hợp gà lai chọi x LV tại trung tâm nghiên cứu gia cầm thụy phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 101 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM












PHÙNG VĂN CẢNH



KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA TỔ HỢP GÀ LAI CHỌI × LV
TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU GIA CẦM
THỤY PHƯƠNG




LUẬN VĂN THẠC SĨ








HÀ NỘI, NĂM 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM








PHÙNG VĂN CẢNH




KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA TỔ HỢP GÀ LAI CHỌI × LV
TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU GIA CẦM
THỤY PHƯƠNG



Chuyên ngành : CHĂN NUÔI
Mã số : 60.62.01.05



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS PHÙNG ĐỨC TIẾN
PGS.TS BÙI HỮU ĐOÀN



HÀ NỘI, NĂM 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự giúp đỡ của tập thể
trong và ngoài cơ quan.
Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về những
số liệu trong bản luận văn này.
Học viên


Phùng Văn Cảnh



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để có được công trình nghiên cứu này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính
trọng tới TS Phùng Đức Tiến, PGS.TS Bùi Hữu Đoàn đã hướng dẫn, chỉ bảo tận

tình tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo bộ khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng
thủy sản - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam đã dạy cũng như động viên tinh thần
giúp tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ công nhân viên
Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương – Viện Chăn nuôi đã giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các nhà khoa học,
thầy cô và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi nâng cao kiến
thức, hoàn thành bản luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã khuyến khích, động
viên tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn



Phùng Văn Cảnh



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC


Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi

Danh mục các bảng vii
Danh mục đồ thị viii
Danh mục ảnh viii
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục tiêu của đề tài 2
3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 3
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài 3
1.1.1 Cơ sở khoa học về đặc điểm ngoại hình của gia cầm 3
1.1.2 Tính trạng sản xuất của gia cầm 5
1.1.3 Cơ sở lý khoa học của công tác lai tạo 18
1.2 Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 25
1.2.1 Tình hình nghiên cứu gia cầm trên thế giới 25
1.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước 28
1.3 Nguồn gốc, đặc điểm và tính năng sản xuất của đối tượng nghiên cứu 31
1.3.1 Nguồn gốc, đặc điểm và tính năng sản xuất của gà LV 31
1.3.2 Nguồn gốc, đặc điểm và tính năng sản xuất của gà Chọi 33
Chương 2 VẬT LIỆU, NỘI DUNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 34
2.1 Vật liệu và địa điểm nghiên cứu 34
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu 34
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu 34
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.1.3 Thời gian nghiên cứu 34
2.2 Nội dung nghiên cứu 34
2.2.1 Trên đàn gà sinh sản 34
2.2.2 Trên đàn gà nuôi thịt 34

2.3 Phương pháp nghiên cứu 35
2.3.1 Công thức thí nghiệm 35
2.3.2 Chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng 35
2.3.3 Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu 36
2.4 Phương pháp xử lý số liệu 43
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 44
3.1 Kết quả nghiên cứu trên đàn gà sinh sản 44
3.1.1 Tỷ lệ nuôi sống 47
3.1.2 Khối lượng cơ thể 49
3.1.3 Lượng thức ăn thu nhận 51
3.1.4 Tuổi thành thục sinh dục 53
3.1.5 Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm 55
3.1.6 Năng suất trứng gà thí nghiệm 57
3.1.7 Hiệu quả sử dụng thức ăn giai đoạn đẻ trứng 58
3.1.8 Khảo sát chất lượng trứng 60
3.1.9 Kết quả ấp nở 62
3.2 Kết quả nghiên cứu trên đàn gà nuôi thịt 63
3.2.1 Đặc điểm ngoại hình 63
3.2.2 Tỷ lệ nuôi sống 65
3.2.3 Khối lượng cơ thể 66
3.2.4 Sinh trưởng tuyệt đối 69
3.2.5 Sinh trưởng tương đối 70
3.2.6 Lượng thức ăn thu nhận 72
3.2.7 Hiệu quả sử dụng thức ăn 73
3.2.8 Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng cơ thể 75
3.2.9 Chỉ số sản xuất 76
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.2.10 Chỉ số kinh tế 77

3.2.11 Kết quả mổ khảo sát 78
3.2.12 Năng suất thịt gà/mái sinh sản/68 tuần tuổi 82
3.2.13 Ước tính hiệu quả kinh tế của đàn gà nuôi thịt 82
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 85
1 Kết luận 85
2 Đề nghị 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Cs Cộng sự
Đ Đồng
Kg Kilogam
KL Khối lượng
ME Năng lượng trao đổi
TĂ Thức ăn
TB Trung bình
TCVN Tiêu chuẩn viện chăn nuôi
TL Tỷ lệ






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng Trang

2.1 Chế độ dinh dưỡng cho gà sinh sản 36
2.2 Chế độ dinh dưỡng cho đàn gà nuôi thịt 36
3.1 Tỷ lệ nuôi sống của gà sinh sản giai đoạn 0 -20 tuần tuổi 48
3.2 Khối lượng gà mái giai đoạn 0-20 tuần tuổi 50
3.3 Lượng thức ăn thu nhận giai đoạn 0 - 20 tuần tuổi 52
3.4 Một số chỉ tiêu trong giai đoạn thành thục sinh dục 53
3.5 Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm 56
3.6 Năng suất trứng của gà thí nghiệm 58
3.7 Hiệu quả sử dụng thức ăn giai đoạn đẻ trứng 59
3.8 Một số chỉ tiêu chất lượng trứng của gà thí nghiệm ở 38 tuần tuổi 61
3.9 Tỷ lệ phôi và kết quả ấp nở 62
3.10 Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi 65
3.11 Khối lượng cơ thể gà thí nghiệm 67
3.12 Sinh trưởng tuyệt đối 69
3.13 Sinh trưởng tương đối 71
3.14 Lượng thức ăn thu nhận của các đàn gà thí nghiệm 72
3.15 Tiêu tốn thức ăn của gà thí nghiệm 74
3.16 Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng 75
3.17 Chỉ số sản xuất 77
3.18 Chỉ số kinh tế 78
3.19 Năng suất thịt của gà thí nghiệm ở 12 và 14 tuần tuổi 81
3.20 Năng suất thịt/mái sinh sản/68 tuần tuổi 82
3.21 Ước tính hiệu quả kinh tế của đàn gà nuôi thịt 83





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC ĐỒ THỊ

Tên đồ thị Trang
3.1 Đồ thị tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm 57
3.2 Sinh trưởng tích lũy gà thí nghiệm 68
3.3 Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của gà thí nghiệm 70
3.4 Đồ thị sinh trưởng tương đối của gà thí nghiệm 71


DANH MỤC ẢNH

Tên ảnh Trang
3.1 Gà Chọi 1 ngày tuổi
44
3.2 Gà Chọi trưởng thành
44
3.3 Gà trống Chọi trưởng thành
45
3.4 Gà LV 1 ngày tuổi
45
3.5 Gà LV trưởng thành
46
3.6 Gà mái LV trưởng thành

46
3.7 Đàn gà trống Chọi x mái LV
47
3.8 Gà lai F1 (Chọi x LV) 1 ngày tuổi
63
3.9 Gà lai F1 (Chọi x LV) 2 tuần tuổi
64
3.10 Gà lai F1 (Chọi x LV) 14 tuần tuổi
64




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi gà là nghề truyền thống lâu đời ở Việt Nam, chúng cung cấp cho
xã hội một số lượng thịt tương đối lớn chiếm 17 – 18% tổng sản lượng thịt các loại
và chỉ đứng thứ 2 sau chăn nuôi lợn. Những năm trước đây, chăn nuôi gà ở nước ta
vẫn trong tình trạng nhỏ lẻ, phân tán, lạc hậu và năng suất thấp. Tuy nhiên, những
năm gần đây, chăn nuôi gà đã và đang phát triển mạnh cả về số lượng và chất
lượng, song song với chăn nuôi truyền thống thì chăn nuôi trang trại tập trung quy
mô lớn cũng phát triển nhanh. Điều này đã đòi hỏi nước ta luôn phải đẩy mạnh công
tác giống như nhập nội các giống gà năng suất cao, lai giữa các giống gà nhập nội
với gà địa phương để đáp ứng nhu cầu của người dân. Trong đó, lai giữa các giống
gà nội với các giống gà thả vườn nhập nội đã và đang được áp dụng, nhiều công
trình nghiên cứu đã cho thấy rằng con lai có thể khắc phục được nhược điểm cả hai

giống cũng như phát huy được các điểm mạnh của cả hai giống.
Tại Việt Nam, các giống gà nội được chăn nuôi phổ biến hiện nay như gà Ri,
gà Mía, gà Chọi , những giống gà này được người tiêu dùng ưa thích do chất
lượng thịt đặc biệt thơm ngon, tuy nhiên chúng lại có những nhược điểm là năng
suất thịt và trứng thấp dẫn đến không đáp ứng được đủ nhu cầu của người dân cũng
như xu hướng tập trung quy mô lớn. Trong khi đó các giống nhập nội như gà Tam
Hoàng, Sasso, Kabir, Lương Phượng có năng suất cao nhưng chất lượng thịt còn
hạn chế.
Gà Chọi có chân cao, mình dài, mào xuýt màu đỏ tía, màu lông đa dạng, con
trống có màu lông mận chín pha lông đen ở cánh, đuôi và đầu; con mái có màu xám
hoặc màu vàng nhờ điểm đen. Gà trống 1 năm tuổi đạt 2,5 – 3,0 kg, gà mái đạt 1,8 –
1,9 kg. Gà có sức khỏe tốt, sản lượng trứng đạt 50 – 70 quả/mái/năm, vỏ trứng màu
hồng. Gà thường được dùng để chọi nhau trong các lễ hội.
Gà LV có màu lông vàng đốm đen, da vàng, chân vàng, mào cờ; khả năng
chống chịu bệnh tật cao; năng suất trứng/mái/68 tuần tuổi đạt 165 – 172 quả, tỷ lệ
phôi 96% - 97%; gà LV nuôi thịt 70 ngày tuổi đạt 1,8 – 1,9kg.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

Từ những nguyên liệu có sẵn, để khắc phục những nhược điểm và phát huy
các ưu điểm của gà Chọi và gà LV, tạo ra tổ hợp lai có năng suất chất lượng cao,
phù hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau, đem lại hiệu quả kinh tế cho người
chăn nuôi, chúng tôi tiến hành đề tài “Khả năng sản xuất của tổ hợp gà lai Chọi ×
LV tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương”
2. Mục tiêu của đề tài
Tạo được gà lai có đặc điểm ngoại hình và năng suất, chất lượng thịt phù
hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở lý luận ưu thế lai đề tài triển khai một số tổ hợp lai giữa các giống
gà lông màu tạo con lai có năng suất chất lượng cao.

Luận văn là tài liệu tham khảo về công tác lai tạo giống gia cầm dùng cho
nghiên cứu và sản xuất.
Cung cấp thêm thông tin quan trọng về tổ hợp lai từ đó giúp hoàn thiện quy
trình chăm sóc nuôi dưỡng loại gà này.












Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học về đặc điểm ngoại hình của gia cầm
Ngoại hình là hình dạng bên ngoài có liên quan đến thể chất, sức khỏe, hoạt
động của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể, cũng như khả năng sản xuất của vật nuôi
và là đặc trưng của một phẩm giống. Các giống gia cầm khác nhau có ngoại hình khác
nhau, trong cùng 1 giống thì gà trống và gà mái cũng có ngoại hình khác nhau.
- Hình dáng, kích thước cơ thể: hướng sản xuất khác nhau của mỗi giống gà
quyết định sự khác nhau về ngoại hình và kích thước cơ thể, sự khác nhau đó biểu

hiện rõ rệt trên các cơ quan, bộ phận của cơ thể, dựa vào khả năng sản xuất mà gà
được chia thành 3 loại hình: loại hình hướng trứng, loại hình hướng thịt và loại hình
hướng kiêm dụng. Gà hướng trứng có thân hình thon nhỏ, nhẹ cân, dáng đi nhanh
nhẹn, cổ dài trong khi đó gà hướng thịt có thân hình to thô, ngực nở, dáng đi nặng
nề, khối lượng cao, cổ dài trung bình. Gà kiêm dụng có ngoại hình trung gian của
hai gà hướng trứng và hướng thịt.
- Đầu: Cấu tạo xương đầu được coi như có độ tin cậy cao nhất trong việc
đánh giá đầu gia cầm. Da mặt và các phần phụ của đầu cho phép rút ra kết luận về
sự phát triển của mô đỡ và mô liên kết. Theo hình dáng của mào, mào dưới và mào tai
có thể biết được trạng thái sức khoẻ và điều kiện sống của chúng. Gà trống có ngoại
hình đầu giống gà mái sẽ có tính sinh dục kém, gà mái có ngoại hình của gà trống sẽ
không cho năng suất cao, trứng thường không phôi (Nguyễn Chí Bảo, 1978).
- Mào: Mào (mòng, tích) của gia cầm là do gấp nếp của da tạo thành, tại đó
tập trung rất nhiều dây thần kinh, mạch quản và các hốc máu, làm cho chúng luôn
có màu đỏ tươi. Mào gà đa dạng về hình dạng, kích thước và màu sắc đặc trưng cho
từng giống gà, gà có 4 loại mào: mào đơn (mào cờ) thường có ở gà Ri, gà Mía; mào
hoa hồng (mào giống như hoa mào gà) ở gà Hồ, Đông Tảo; mào quả dâu và mào
hình hạt đậu (không có mào điển hình) ở gà Chọi. Theo Phan Cự Nhân (1971), khi
có mặt gen Ab gà sẽ có mào dạng hoa hồng, gen aB sẽ có dạng mào nụ và gen ab có
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

dạng mào cờ. Mào và mào dưới thuộc về các đặc điểm sinh dục phụ, khi buồng
trứng hoạt động bình thường thì mào lớn chứa nhiều máu. Khi thay lông hoặc bị
bệnh thuộc tuyến sinh dục sẽ tạm thời ngừng trệ sự cung cấp máu dẫn đến màu sắc
của mào bị kém đi.
- Mỏ: Những gà có mỏ dài và mảnh không có khả năng sản xuất cao. Những
giống gà da vàng thì mỏ cũng vàng, ở gà mái màu sắc này có thể bị nhạt đi vào cuối
thời kỳ đẻ trứng. Mỏ gà cần chắc chắn và ngắn
- Da: Da của gia cầm bao phủ toàn thân và có vai trò đặc biệt quan trọng

trong việc trao đổi nhiệt giữa cơ thể với môi trường, nhất là ở gia cầm non. Da gồm
2 phần chính, lớp biểu bì với lớp tế bào hình trụ cùng với lớp mô liên kết mỏng và
sợi collagen tạo thành lớp da ngoài bền chắc, nghèo mạch máu và hầu như không có
tuyến ngoại tiết. Dưới lớp biểu bì là lớp mô liên kết mỏng gần giống như mô mỡ, có
chứa nhiều mạch máu và dây thần kinh. Đặc điểm lớn nhất của da gia cầm là mỏng,
nghèo các tuyến dưới da, không có tuyến mồ hôi.
- Bộ lông: Gà có dạng điển hình của lớp chim (aves), một động vật có xương
sống bậc cao đã thích ứng với điều kiện sống bay nhảy. Toàn thân được bao phủ
bằng lông và yếm. Lông cườm và lông trên lưng có sự khác biệt giữa đực và cái. Ở
con đực lông cườm và lông lưng dài, mềm mại hơn ở con cái. Ở gia cầm màu sắc
lông rất đa dạng. Màu lông phụ thuộc vào sự biểu hiện dưới dạng hạt hay phân bố
đều của sắc tố mêlanin và dạng dịch của sắc tố lipocrôm. Sắc tố mêlanin quy định từ
màu càfê vàng đến màu đen; còn lipôcrôm quy định màu vàng, đỏ, xanh hoặc xanh
sẫm. Ở gia cầm màu sắc lông khác nhau có thể chia làm 2 nhóm lớn là lông màu và
lông trắng.
- Chân: chân của gia cầm được bao phủ bằng lớp vảy sừng và có sự khác
nhau về màu sắc. Chân vàng là do sự có mặt của lipôcrôm đồng thời thiếu vắng
mêlanin. Màu đen của chân là do sự xuất hiện của mêlanin. Khi màu đen có mặt ở
thể trội và màu vàng có mặt ở thể lặn thì chân sẽ xuất hiện màu lục (xanh lá cây).
Khi đồng thời cả 2 màu đều không xuất hiện thì chân có màu trắng. Về cường độ
(độ đậm nhạt) của màu vàng tuỳ thuộc vào hàm lượng xantôphin trong khẩu phần.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

1.1.2. Tính trạng sản xuất của gia cầm
1.1.2.1. Bản chất di truyền của tính trạng sản xuất
Nghiên cứu về tính trạng di truyền ở gà đó là nghiên cứu về tính trạng di
truyền số lượng và tính trạng di truyền chất lượng. Hầu hết các tính trạng về năng
suất của gia cầm như sinh trưởng, sinh sản, tăng trưởng, đẻ trứng đều là các tính
trạng số lượng. Cơ sở di truyền của các tính trạng số lượng là do các gen qui định.

Nguyễn Ân và cs (1983) cho rằng, các tính trạng sản xuất là các tính trạng số lượng
thường là các tính trạng đo lường như khối lượng, kích thước các chiều đo, sản
lượng trứng, khối lượng trứng, Các tính trạng số lượng bị chi phối bởi nhiều gen.
Các gen này hoạt động theo ba phương thức:
- Cộng gộp (A) hiệu ứng tích luỹ của từng gen.
- Trội (D) hiệu ứng tương tác giữa các gen cùng một lô cút.
- Át gen (I) hiệu ứng do tương tác, của các gen không cùng một lô cút.
Hiệu ứng cộng gộp A là các giá trị giống thông thường (General breeding
value) có thể tính toán được, có ý nghĩa trong chọn lọc nhân thuần. Hiệu ứng trội
(D) và át gen (I) là những hiệu ứng không cộng tính, có ý nghĩa đặc biệt trong các tổ
hợp lai. Ở các tính trạng số lượng giá trị kiểu hình cũng do giá trị kiểu gen và sai
lệch môi trường qui định, những giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng do nhiều
gen có hiệu ứng nhỏ cấu tạo thành. Đó là các gen mà hiệu ứng riêng biệt của từng
gen thì rất nhỏ, nhưng tập hợp lại sẽ ảnh hưởng rất rõ rệt tới tính trạng nghiên cứu
.

Khác với tính trạng chất lượng, tính trạng số lượng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi
các yếu tố ngoại cảnh. Tuy các điều kiện bên ngoài không thể làm thay đổi cấu trúc
di truyền, nhưng nó tác động làm phát huy hoặc kìm hãm việc biểu hiện các hoạt
động của các gen. Các tính trạng số lượng được qui định bởi kiểu gen và chịu ảnh
hưởng nhiều của điều kiện ngoại cảnh, mối tương quan đó được biểu thị như sau:
P = G + E
Trong đó: P là giá trị kiểu hình, G là giá trị kiểu gen, E là sai lệch môi trường.
Giá trị kiểu gen (G) hoạt động theo ba phương thức: cộng gộp, trội và át gen.
Từ đó, G cũng có thể biểu thị theo:
G = A + D + I
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

Trong đó: G là giá trị kiểu gen, A là giá trị cộng gộp, D là giá trị sai lệch trội,

I là giá trị sai lệch tương tác.
Ngoài ra, các tính trạng số lượng còn chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường.
Có hai loại môi trường chính:
- Môi trường chung (Eg): là sai lệch do các yếu tố môi trường tác động lên
toàn bộ các cá thể trong nhóm vật nuôi. Loại yếu tố này có tính chất thường xuyên
như: thức ăn, khí hậu, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng
- Môi trường riêng (Es): là sai lệch do các yếu tố môi trường tác động riêng rẽ
lên từng cá thể trong nhóm vật nuôi, hoặc ở một giai đoạn nhất định trong cuộc đời
con vật. Loại này có tính chất không thường xuyên. Nếu bỏ qua mối tương tác giữa
di truyền và ngoại cảnh, quan hệ của kiểu hình (P), kiểu gen (G) và môi trường (E)
của một cá thể biểu thị cụ thể:
P = A + D + I + Eg + Es
Trên cơ sở đó cho thấy các giống gia cầm cũng như các sinh vật khác, con cái
đều nhận được từ bố mẹ một số gen quy định tính trạng số lượng nào đó. Tính trạng
đó được xem như nhận từ bố mẹ một khả năng di truyền, nhưng khả năng đó phát
huy được hay không còn phụ thuộc vào môi trường sống như: chế độ chăm sóc,
nuôi dưỡng, quản lý,
Người ta có thể xác định các tính trạng số lượng qua mức độ tập trung (Χg),
mức độ biến dị (CV%), hệ số di truyền của các tính trạng (h
2
), hệ số lặp lại của các
tính trạng (R), hệ số tương quan (r) giữa các tính trạng
1.1.2.2. Sức sống và khả năng kháng bệnh của gia cầm
Tỷ lệ nuôi sống của gia cầm con sau khi nở là chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá sức
sống của gia cầm. Hill và cs (1954), đã tính được hệ số di truyền về sức sống là 6%.
Sức sống được tính theo các giai đoạn nuôi dưỡng khác nhau. Gavora (1990), hệ số
di truyền của sức kháng bệnh là 25%. Tỷ lệ nuôi sống phụ thuộc rất lớn vào yếu tố
dinh dưỡng, chăm sóc nuôi dưỡng, khí hậu thời tiết, mùa vụ,…
Khả năng thích nghi, khi điều kiện sống bị thay đổi như thức ăn, thời tiết, khí
hậu, quy trình chăn nuôi, môi trường sinh vật xung quanh thì chúng có khả năng thích

ứng rộng rãi hơn đối với môi trường (Phan Cự Nhân và Trần Đình Miên, 1998).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

1.1.2.3. Khả năng sinh sản của gia cầm
Khả năng sinh sản của gia cầm được thể hiện qua các chỉ tiêu về sản lượng, khối
lượng, hình dạng, chất lượng trứng, thụ tinh và tỷ lệ ấp nở. Đối với các giống gia
cầm khác nhau, khả năng sinh sản là khác nhau.
a, Năng suất trứng: Năng suất trứng là số lượng trứng một gia cầm mái sản sinh ra
trên một đơn vị thời gian, là chỉ tiêu năng suất quan trọng nhất đối với gia cầm
chuyên trứng. Năng suất trứng phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh, giống, hướng
sản xuất, mùa vụ, chăm sóc, dinh dưỡng và đặc điểm của cá thể.
Sản lượng trứng được tính theo năm sinh học 365 ngày, kể từ ngày đẻ quả
trứng đầu tiên. Trong thời gian gần đây, sản lượng trứng được tính theo tuần tuổi.
Nhiều hãng gia cầm nổi tiếng như Shaver (Canađa), Lohmann (Đức), sản lượng
trứng được tính đến 70 - 80 tuần tuổi.
Năng suất trứng là tính trạng có mối tương quan nghịch chặt chẽ với tốc độ
sinh trưởng sớm. Do vậy, trong chăn nuôi gà sinh sản, cần chú ý cho gà ăn hạn chế
trong giai đoạn gà dò, gà hậu bị để đảm bảo năng suất trứng trong giai đoạn sinh
sản. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào thức ăn: mức năng lượng, hàm lượng
protein và các thành phần khác trong thức ăn (Bùi Thị Oanh, 1996). Năng suất
trứng có hệ số di truyền không cao, dao động lớn. Theo Nguyễn Văn Thiện (1995),
hệ số di truyền năng suất trứng của gà là 12 - 30%.
Trong mấy tuần đầu của chu kỳ đẻ, gà có tỷ lệ đẻ thấp, sau đó tăng dần và đạt tỷ
lệ cao ở những tuần tiếp theo rồi giảm dần và đạt tỷ lệ đẻ thấp ở cuối thời kỳ sinh
sản. Sản lượng trứng trong 1 năm của một quần thể gà mái cao sản được thể hiện
theo qui luật cường độ đẻ trứng cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm dần
đến hết năm đẻ. Để tiến hành chọn giống về sức đẻ trứng, Hutt (1978) đã áp dụng ổ
đẻ có cửa sập tự động để kiểm tra số lượng trứng của từng gà mái. Các tác giả cho
rằng sản lượng trứng 3 tháng đẻ đầu và sản lượng trứng cả năm có tương quan di

truyền chặt chẽ (0,7 - 0,9).
+ Tuổi đẻ quả trứng đầu là một chỉ tiêu đánh giá sự thành thục sinh dục, cũng
được coi là 1 yếu tố cấu thành năng suất trứng (Khavecman, 1972). Tuổi đẻ quả
trứng đầu được xác định bằng số ngày tuổi của gà mái kể từ khi nở ra đến khi đẻ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

quả trứng đầu.
Tuổi đẻ quả trứng đầu phụ thuộc vào bản chất di truyền, chế độ nuôi dưỡng,
các yếu tố môi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng, thời gian chiếu sáng dài sẽ
thúc đẩy gia cầm đẻ sớm (Khavecman, 1972).
Dickerson (1952) và Ayob và Merat (1975) dẫn theo Trần Long (1994) đã tính
toán hệ số tương quan di truyền giữa khối lượng gà chưa trưởng thành với sản
lượng trứng có giá trị âm (từ - 0,21 đến - 0,16).
Việc sản xuất trứng của gia cầm có thể do 5 yếu tố di truyền mang lại:
+ Tuổi thành thục về tính dục, ít nhất có 2 cặp gen chính tham gia vào yếu tố
này, cặp thứ nhất là gen E (liên kết với giới tính) và e, cặp thứ 2 là E’ và e’. Gen trội
E chịu trách nhiệm tính thành thục về sinh dục.
+ Cường độ đẻ: yếu tố này do hai cặp gen R và r, R’ và r phối hợp lại để điều
hành.
+ Bản năng đòi ấp do 2 gen A và C điều khiển, phối hợp với nhau.
+ Thời gian nghỉ đẻ (đặc biệt là đẻ vào mùa đông) do các gen M và m điều
khiển. Gia cầm có gen mm thì về mùa đông vẫn tiếp tục đẻ đều.
Thời gian kéo dài của chu kỳ đẻ do cặp gen P và p điều hành.
Yếu tố thứ 5 và yếu tố thứ nhất là 2 yếu tố kếp hợp với nhau, cũng có nghĩa là các
cặp gen Pp và Ee có phối hợp với nhau. Tất nhiên ngoài các gen chính tham gia vào
việc điều khiển các yếu tố trên, có thể còn có nhiều gen khác tham gia phụ lực vào.
b, Những yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng
Dẫn theo Nguyễn Trọng Thiện (2008), sức sản xuất trứng chịu sự chi phối
của các tập hợp gen khác nhau; các gen quy định tính trạng này nằm trên nhiễm sắc

thể thường và bị hạn chế bởi giới tính. Số lượng trứng được truyền lại cho đời sau
từ bố mẹ. Hayes và cs (1994) cho rằng sức đẻ trứng của gà mái chịu sự ảnh hưởng
của 5 yếu tố di truyền cá thể là: thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học, cường
độ đẻ, tính nghỉ đẻ mùa đông, tính ấp bóng, tuổi thành thục sinh dục.
+ Tuổi thành thục sinh dục: Thường tuổi thành thục sinh dục của gà dao
động trong khoảng 19 – 24 tuần tuổi. Tuổi thành thục sinh dục càng sớm thì thời
gian đẻ trứng càng dài, năng suất trứng càng cao. Tuy nhiên, nếu tuổi thành thục về
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

sinh dục sớm thì sức bền đẻ trứng không cao vì cơ thể gà mái chưa thành thục về
thể vóc do vẫn đang sinh trưởng phát dục để hoàn thiện cấu trúc, chức năng cơ thể
vì vậy chất dinh dưỡng không thể tập trung cho hoàn thiện cấu trúc cơ thể được mà
phải cung cấp cho quá trình tạo trứng nên ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng về sau.
Sản lượng trứng ở 3 - 4 tháng đầu tiên có mối tương quan dương với sản
lượng trứng cả năm. Vì vậy, để xác định chỉ tiêu về sức đẻ trứng người ta thường
tính sản lượng trứng 3 - 4 tháng đầu để có phán đoán sớm và kịp thời trong công tác
giống. Brandsch và Bülchel (Nguyễn Chí Bảo dịch, 1978) cho biết hệ số di truyền
của tính trạng tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là 0,14 - 0,15%.
+ Cường độ đẻ: cường độ đẻ trong 3 - 4 tháng đầu có tương quan rất chặt
chẽ với sản lượng trứng của gia cầm. Nếu cường độ đẻ trứng càng cao thì sản lượng
trứng cao và ngược lại.
+ Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học: chu kỳ đẻ trứng sinh học được
tính từ khi gia cầm đẻ quả trứng đầu tiên đến khi gia cầm nghỉ đẻ để thay lông, đó là
chu kỳ thứ nhất và lại tiếp tục chu kỳ thứ hai. Sản lượng trứng phụ thuộc vào thời
gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học, thời gian này càng dài càng tốt. Chỉ tiêu này
có tương quan dương với tuổi thành thục sinh dục, sức bền đẻ trứng, chu kỳ đẻ
trứng khác nhau tuỳ từng cá thể. Những gia cầm đẻ tốt có chu kỳ đẻ trứng dài, nhịp
độ đẻ trứng đều và thời gian nghỉ đẻ ngắn, còn những gia cầm đẻ kém có dấu hiệu
ngược lại. Nói chung, thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học có tính di truyền

và phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau, nhất là chế độ chăm sóc, dinh dưỡng, mùa vụ.
+ Tính nghỉ đẻ mùa đông: vào mùa đông, nhiệt độ thấp nên cơ thể phải huy
động năng lượng để chống rét. Tuy nhiên, với những giống gà tốt thì thời gian nghỉ
đẻ rất ngắn thậm chí là không có. Tính nghỉ đẻ có mối tương quan nghịch với năng
suất trứng, tính nghỉ đẻ mùa đông càng dài thì năng suất trứng càng thấp.
+ Tính ấp bóng: ấp bóng là gà mái ấp không có trứng theo tập tính, tính ấp
bóng càng dài thì năng suất trứng càng thấp. Hiện nay, quá trình chọn lọc nghiêm
ngặt nên đã loại trừ bản năng ấp trứng của gà mái.
Ngoài 5 yếu tố di truyền cá thể, sức đẻ trứng còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
khác nhau như giống, dòng gia cầm, tuổi gia cầm, dinh dưỡng, chế độ chăm sóc,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

tiểu khí hậu chuồng nuôi…
Giống, dòng ảnh hưởng lớn đến sức sản xuất trứng của gia cầm. Giống gia
cầm khác nhau sức sản xuất trứng khác nhau. Trong cùng một giống các dòng khác
nhau cho năng suất trứng khác nhau, những dòng được chọn lọc kỹ thường cho sản
lượng trứng cao hơn những dòng chưa được chọn lọc kỹ khoảng 15 - 20%.
Tuổi gia cầm có liên quan đến năng suất trứng. Ở gà, sản lượng trứng giảm
dần theo tuổi, trung bình năm thứ hai giảm 15 - 20% so với năm thứ nhất.
Mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của gia cầm. Ở nước ta, mùa hè
sức đẻ trứng giảm xuống nhiều so với mùa xuân, mùa thu sức đẻ trứng lại tăng lên.
Nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng đến sản lượng trứng. Nhiệt độ thích
hợp đối với gia cầm đẻ trứng là 14 - 22
0
C. Khi nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ giới hạn
thấp, gia cầm phải huy động năng lượng để chống rét; nếu nhiệt độ cao hơn nhiệt độ
giới hạn trên, gia cầm thải nhiệt nhiều làm giảm sản lượng trứng.
Ánh sáng ảnh hưởng đến sản lượng trứng qua thời gian chiếu sáng và cường
độ chiếu sáng. Yêu cầu thời gian chiếu sáng với gà đẻ là 12 - 16 giờ với cường độ

chiếu sáng là 3,0-3,5 W/m
2
. Ở nước ta, cường độ đẻ cao nhất vào khoảng 8-12 giờ,
chiếm hơn 60-70% (Nguyễn Mạnh Hùng và cs, 1994).
Thay lông cũng biểu thị sự ảnh hưởng đến sản lượng trứng vì sau mỗi chu kỳ
đẻ trứng sinh học gia cầm nghỉ đẻ và thay lông. Trong điều kiện bình thường, lúc
thay lông lần đầu tiên là thời điểm quan trọng để đánh giá gia cầm đẻ tốt hay xấu.
Những đàn gà thay lông sớm, thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 6 - 7 và quá trình
thay lông diễn ra chậm kéo dài 3 - 4 tháng là những đàn gà đẻ kém. Ngược lại, có
những đàn gà thay lông muộn thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 10 - 11, quá trình
thay lông lại diễn ra nhanh là những đàn gà đẻ tốt. Đặc biệt ở một số đàn cao sản,
thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 - 5 tuần và đẻ lại ngay khi chưa hình thành xong bộ lông mới,
có những con đẻ ngay trong thời gian thay lông. Như vậy, thay lông liên quan mật thiết
đến sản lượng trứng của gia cầm.
c, Khối lượng trứng
Roberts (dẫn theo Phan Cự Nhân, 1998), cho rằng giá trị trung bình về khối
lượng trứng đẻ ra trong một chu kỳ là một tính trạng do nhiều gen có tác động cộng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

gộp qui định, nhưng hiện còn chưa xác định rõ số lượng gen qui định tính trạng này.
Sau sản lượng trứng, khối lượng trứng là chỉ tiêu quan trọng cấu thành năng suất
của đàn gà bố mẹ. Khi cho lai hai dòng gia cầm có khối lượng trứng lớn và bé,
trứng của con lai thường có khối lượng trung gian (Khavecman, 1972).
Tính trạng khối lượng trứng có hệ số di truyền cao, do đó có thể đạt được nhanh
chóng thông qua con đường chọn lọc (Kushner, 1974). Ngoài các yếu tố về di truyền,
khối lượng trứng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoại cảnh như chăm sóc, nuôi
dưỡng, mùa vụ, tuổi gia cầm. Trứng của gia cầm mới bắt đầu đẻ nhỏ hơn trứng gia
cầm trưởng thành 20-30%. Khối lượng trứng mang tính đặc trưng của từng loài và
mang tính di truyền cao. Hệ số di truyền của khối lượng trứng là 48 - 80% (Brandsch

và Bülchel) Nguyễn Chí Bảo dịch, (1978). Trong cùng giống, cùng đàn, nhóm có
khối lượng trứng lớn nhất hoặc bé nhất đều cho tỷ lệ nở thấp. Trứng gia cầm non cho
tỷ lệ nở thấp, khối lượng trứng lớn thì sẽ kéo dài thời gian ấp nở.
d, Khả năng thụ tinh và ấp nở
Kết quả thụ tinh là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá về khả năng sinh sản
của con trống và con mái. Tỷ lệ thụ tinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi, tỷ lệ
trống mái, mùa vụ, dinh dưỡng, chọn đôi giao phối,
Tỷ lệ nở là một chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của phôi, sức sống của gia cầm
non. Đối với những trứng có chỉ số hình thái chuẩn, khối lượng trứng trung bình của
giống sẽ cho tỷ lệ ấp nở cao nhất.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở như: chất lượng trứng, thời gian
và chế độ bảo quản trứng, chế độ độ ấp (nhiệt độ, ẩm độ, thông thoáng, đảo
trứng, ). Hệ số di truyền về tỷ lệ trứng thụ tinh là 11% - 13%, hệ số di truyền của
tỷ lệ ấp nở 10% - 14% (Nguyễn Văn Thiện, 1995).
1.1.2.4. Khả năng sinh trưởng của gia cầm
a, Khả năng sinh trưởng

Sinh trưởng là quá trình tích luỹ hữu cơ do đồng hoá và dị hoá là sự tăng
chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể con
vật trên cơ sở tính chất di truyền của đời trước.
Sinh trưởng thông qua ba quá trình: phân chia tế bào để tăng số lượng, tăng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

thể tích của tế bào và tăng thể tích giữa các tế bào. Tất cả các đặc tính của gia súc
gia cầm như ngoại hình, thể chất, sức sản xuất đều không phải đã sẵn có trong tế
bào. Trong phôi cũng không phải đã có đầy đủ khi hình thành và hoàn chỉnh suốt
quá trình sinh trưởng của cơ thể con vật. Các đặc tính của các bộ phận hình thành
quá trình sinh trưởng tuy khối lượng là một sự tiếp tục thừa hưởng các đặc tính di
truyền của bố mẹ nhưng hoạt động mạnh hay yếu còn do tác động của môi trường.

Khi nói tới sinh trưởng người ta cần nói tới phát dục. Thực chất phát dục là
quá trình thay đổi về chất có nghĩa là tăng thêm và hoàn chỉnh các tính chất, chức
năng của các bộ phận của cơ thể. Phát dục của cơ thể con vật hình thành từ khi
trứng thụ tinh, trải qua nhiều giai đoạn phức tạp cho đến khi trưởng thành.
Sinh trưởng và phát dục là hai quá trình diễn ra trên cùng một cơ thể gia súc
gia cầm. Sinh trưởng được coi là quá trình thay đổi cấu tạo chức năng, hình thái,
kích thước các bộ phận. Phát dục diễn ra từ khi trứng thụ tinh, qua các giai đoạn
khác nhau đến khi trưởng thành.
Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp, khá dài, từ lúc thụ tinh đến khi
trưởng thành. Do vậy, việc xác định chính xác toàn bộ quá trình sinh trưởng không
phải dễ dàng. Tuy nhiên các nhà chọn giống gia cầm có khuynh hướng sử dụng
cách đo đơn giản và thực tế, Chambers (1990).
b, Một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của gà. Theo Thammabood và
cs (1983) thì sự phát triển được kiểm soát bởi gen là 78% và môi trường (ví dụ: khí
hậu, thức ăn, nước và chất lượng của người chăn nuôi) là 22%.
Ảnh hưởng của giống đến sinh trưởng: giống có ảnh hưởng lớn tới quá trình
sinh trưởng của gia súc, gia cầm. Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định sự
sinh trưởng của từng cá thể giữa các giống có sự khác nhau, gà thịt có tốc độ sinh
trưởng nhanh hơn gà kiêm dụng và gà hướng trứng, giữa các dòng của một số giống
cũng có sự khác nhau về sinh trưởng.
Letner và Asmundson (1938) đã so sánh tốc độ sinh trưởng của các giống gà
Leghorn trắng và Plymouth Rock tới 24 tuần tuổi và cho rằng gà Plymouth Rock
sinh trưởng nhanh hơn gà Leghorn ở 2 - 6 tuần tuổi và sau đó không có sự khác
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

nhau. Nguyễn Mạnh Hùng và cs (1994) cho biết sự khác nhau về khối lượng giữa
các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hướng trứng khoảng
500 - 700g (13 - 30%). Khi nghiên cứu tốc độ sinh trưởng trên 3 dòng thuần (V1,

V3, V5) của giống gà Hybro HV8, Trần Long (1994) cho rằng tốc độ sinh trưởng ở
3 dòng hoàn toàn khác nhau ở 42 ngày tuổi.
Theo Godfrey và Joap (1952), sự di truyền các tính trạng về khối lượng cơ thể
do 15 cặp gen tham gia trong đó ít nhất có một gen về sinh trưởng liên kết giới tính
(nằm trên nhiễm sắc thể X). Vì vậy, có sự sai khác về khối lượng cơ thể giữa con
trống và con mái trong cùng một giống (gà trống nặng hơn gà mái 24 - 32%).
Nguyễn Ân và cs (1983) cho biết hệ số di truyền về khối lượng cơ thể ở 3
tháng tuổi ở gà là 26 - 50%.
Ảnh hưởng của tính biệt: Các loại gia cầm khác nhau về giới tính thì có tốc độ
sinh trưởng khác nhau, con trống lớn nhanh hơn con mái, ngoại trừ chim cút (con
trống nhỏ hơn con mái). Theo Jull (1923) (dẫn theo Phùng Đức Tiến, 1996), gà
trống có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn gà mái 24 - 32%. Tác giả cũng cho biết, sự
sai khác này do gen liên kết giới tính, những gen này ở gà trống (2 nhiễm sắc thể
giới tính) hoạt động mạnh hơn gà mái (1 nhiễm sắc thể). North và Bell (1990) cho
biết khối lượng gà con 1 ngày tuổi tương quan dương với khối lượng trứng, song
không ảnh hưởng đến khối lượng cơ thể gà lúc thành thục và cường độ sinh trưởng
ở 4 tuần tuổi. Lúc mới nở gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự khác
nhau càng lớn, ở 2 tuần tuổi hơn 5%; 3 tuần tuổi hơn 11%; 8 tuần tuổi hơn 27%.
Ảnh hưởng của tốc độ mọc lông: tốc độ mọc lông của gà có ảnh hưởng tới
sinh trưởng. Những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã xác định trong
cùng một giống, cùng tính biệt ở gà có tốc độ mọc lông nhanh có tốc độ sinh
trưởng, phát triển tốt hơn. Theo Brandsch và Bülchel (Nguyễn Chí Bảo dịch, 1978)
tốc độ mọc lông là tính trạng di truyền có liên quan đến đặc điểm trao đổi chất, sinh
trưởng và phát triển của gia cầm.
Gia cầm có tốc độ mọc lông nhanh thì sự thành thục về khối lượng sớm hơn,
chất lượng thịt tốt hơn gia cầm mọc lông chậm. Song, dù có tốc độ mọc lông chậm
thì 8 - 12 tuần tuổi cũng mọc lông đủ (Trần Long, 1994).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14


Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng: Dinh dưỡng có mối liên quan chặt chẽ
với sự duy trì sự sống, khả năng sản xuất của gia súc, gia cầm. Dinh dưỡng là một
quá trình sinh học nhằm duy trì cơ thể và không ngừng đổi mới những vật chất tạo
nên cơ thể. Cơ thể đòi hỏi được cung cấp các chất dinh dưỡng để duy trì sự sống và
phát triển. Do đó, trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng việc xác định nhu cầu các
chất dinh dưỡng hay chế độ dinh dưỡng hợp lý cho vật nuôi là rất cần thiết và có
ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng. Sinh trưởng là tổng sự phát triển các phần
của cơ thể như thịt, xương, da. Tỷ lệ sinh trưởng các phần này khác nhau ở độ tuổi
và phụ thuộc vào mức dinh dưỡng.
Kết quả nghiên cứu của của Bùi Đức Lũng và Trần Long (1994) chỉ ra rằng
để phát huy được tốc độ sinh trưởng tối đa cần cung cấp thức ăn tối ưu với đầy đủ
chất dinh dưỡng dược cân bằng nghiêm ngặt giữa protein và các axit amin với năng
lượng. Ngoài ra, trong thức ăn hỗn hợp còn được bổ sung hàng loạt các chế phẩm
hoá sinh học không mang ý nghĩa dinh dưỡng nhưng nó kích thích sinh trưởng làm
tăng năng suất và chất lượng thịt.
Mùa vụ: Ở nước ta, điều kiện khí hậu ở hai vụ Đông - Xuân và Hè - Thu cũng
gây ảnh hưởng tới tốc độ sinh trưởng, sinh sản của gia cầm. Đặc biệt khí hậu nóng
ẩm nhiệt đới gió mùa của nước ta tác động khá rõ rệt tới gia cầm.
Vụ Hè thu, nhiệt độ, độ ẩm cao gây streess tới gia cầm làm cho khả năng thu
nhận thức ăn giảm dẫn đến việc tăng khối lượng cơ thể kém nhưng thời gian chiếu
sáng dài và cường độ sáng mạnh lại có tác động tích cực lên khả năng sinh sản của
gia cầm.
Ở chiều ngược lại về vụ Đông – Xuân, nhiệt độ thấp, khô hanh, thời gian chiếu
sáng ngắn có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát dục và phát triển của gia cầm.
Ngoài ra, mùa vụ cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của vi sinh vật gây
bệnh ảnh hưởng tới khả năng kháng bệnh và sức sống gia cầm.
Do đó cần có sự điều chỉnh về thời gian nuôi, biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng
khác nhau cho đàn gia cầm sinh sản và nuôi thịt cho phù hợp theo từng mùa vụ.
Các yếu tố môi trường khác: Các yếu tố môi trường khác như nhiệt độ, ẩm
độ, ánh sáng, độ thông thoáng và mật độ nuôi có ảnh hưởng không nhỏ tới sự sinh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

trưởng của gia cầm nói chung và gà nói riêng.
Ngoài ra, ẩm độ môi trường cũng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của
gia cầm. ẩm độ quá thấp sẽ làm tăng lượng bụi trong chuồng nuôi nên gia cầm dễ
mắc một số bệnh hô hấp, bệnh về mắt Mặt khác, độ ẩm thấp còn làm da khô, gầy
yếu và khó chịu nên làm tăng hội chứng mổ cắn nhau. Song nếu ẩm độ cao dễ làm
gà mắc bệnh đường ruột, làm giảm khả năng sinh trưởng nhất là trong điều kiện
nóng ẩm nước ta.
c, Cách đánh giá khả năng sinh trưởng
Khối lượng cơ thể ở từng thời kỳ là một chỉ số sử dụng quen thuộc nhất về
sinh trưởng (tính theo tuổi) song chỉ tiêu này không nói lên được mức độ khác nhau
về tốc độ sinh trưởng trong một thời gian. Đồ thị khối lượng còn gọi là đồ thị sinh
trưởng tích luỹ. Khối lượng thường được theo dõi theo tuần tuổi và đơn vị tính là
gam/con hoặc kg/con.
Đối với gà broiler, đây là tính trạng năng suất quan trọng được tính bằng
kg/con hoặc g/con và cũng là căn cứ để so sánh được khối lượng của các tổ hợp lai,
từ đó lựa chọn tổ hợp lai tốt nhất.
Để đánh giá khả năng sinh trưởng chúng ta còn sử dụng sinh trưởng tuyệt đối
và sinh trưởng tương đối.
+ Sinh trưởng tuyệt đối: là sự tăng lên về khối lượng cơ thể trong khoảng thời
gian giữa hai lần khảo sát (TCVN 2.39, 1977). Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối có dạng
parabol, sinh trưởng tuyệt đối thường tính bằng g/con/ngày hoặc g/con/tuần.
+ Sinh trưởng tương đối: là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối lượng cơ thể từ
lúc kết thúc khảo sát so với lúc bắt đầu khảo sát (TCVN 2.40, 1977). Đồ thị sinh
trưởng tương đối có dạng hyperbol. Sinh trưởng tương đối giảm dần qua các tuần
tuổi.
+ Đường cong sinh trưởng: Đường cong sinh trưởng biểu thị tốc độ sinh
trưởng của vật nuôi. Theo Chambers (1990), đường cong sinh trưởng của gà có 4

điểm chính gồm 4 pha sau:
- Pha sinh trưởng tích luỹ tăng tốc độ nhanh sau khi nở.
- Điểm uốn của đường cong tại điểm có tốc độ sinh trưởng cao nhất.

×