Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện quốc oai – thành phố hà nội thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.67 KB, 83 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





LÊ THỊ SÁU


HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội – 2014

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi được bảo vệ
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Lê Thị Sáu










MỤC LỤC



Trang

Lời cam đoan
1

2

Mục lục
2

Danh mục các chữ viết tắt
5

MỞ ĐẦU
6

Chƣơng 1: Khái quát về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo

13
1.1.
Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo …………………
13
1.1.1
Khái niệm khiếu nại, tố cáo ………………………………………
13
1.1.2
Khái niệm về quyền khiếu nại, quyền tố cáo………………………
19
1.1.3

Khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo ………………………………
20
1.1.4
Vai trò và ý nghĩa của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo………
20
1.2
Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo ………………………….
23
1.2.1
Khái niệm và đặc điểm của pháp luật Khiếu nại, tố cáo…………….
23
1.2.2
Những nội dung cơ bản của pháp luật Khiếu nại, tố cáo……………
26
1.2.3
Sự hình thành và phát triển của pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo
ở Việt Nam…………………………………………………………

28
1.2.4
Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2011 và những đổi mới cơ bản về
giải quyết khiếu nại, tố cáo………………………………………….

34

Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên
địa bàn huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội

42
2.1.

Khái quát về khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai
42
2.1.1
Tình hình khiếu nại, tố cáo
42
2.1.2
Nội dung cơ bản của các vụ khiếu nại, tố cáo
45
2.2
Kết quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân
trên địa bàn huyện Quốc Oai

46
2.2.1
Kết quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo
46
2.2.2
Công tác tiếp dân
50
2.3
Đánh giá về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân
trên địa bàn huyện Quốc Oai

52
2.3.1
Những kết quả đạt được
52
2.3.2
Những tồn tại, hạn chế
53


3
2.4
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai

57
2.4.1
Bất cập trong các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo
58
2.4.2
Bất cập trong cơ chế tổ chức thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo
63
2.4.3
Nhân sự phục vụ cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thiếu và
yếu
66
2.4.4
Nhận thức về chính sách, pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn
chế
67

Chƣơng 3: Các giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo

68
3.1.
Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo
68

3.1.1
Hoàn thiện luật Khiếu nại
68
3.1.2
Hoàn thiện luật Tố cáo
71
3.2
Đổi mới cơ chế tổ chức thực hiện hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo

75
3.2.1
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự
phối hợp của các cơ quan, tổ chức và nhân dân trong hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo


76
3.2.2
Triển khai có hiệu quả công tác cải cách hành chính trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo

80
3.2.3
Thực hiện tốt đối thoại giữa người khiếu nại, người bị khiếu nại và
người giải quyết khiếu nại

81
3.3
Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải

quyết khiếu nại, tố cáo

82
3.4
Tăng cƣờng công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về
khiếu nại, tố cáo

85

KẾT LUẬN
87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89



4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. UBND: Ủy ban nhân dân
2. HĐND: Hội đồng nhân dân
3. XHCN: Xã hội chủ nghĩa

5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Việc quan tâm đến lợi ích của nhân dân là trách nhiệm của Đảng và

Nhà nước.
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong hệ thống
quản lý nhà nước và điều hành xã hội. Do vậy thực hiện tốt công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân
vào đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước đề ra, thể hiện
mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Nhận thức được
điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách, văn bản pháp luật
ngày càng hoàn thiện để giải quyết khiếu nại, tố cáo nhanh, đúng pháp luật, bảo
vệ và khôi phục kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp cho nhân dân, đồng thời xử lý
nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, tạo niềm tin của nhân
dân vào con đường đi lên XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn.
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cụ thể là : Luật khiếu nại, tố cáo năm
1998, luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004,
2005. Pháp luật về khiếu nại, tố cáo ngày càng hoàn thiện với sự ra đời mới đây
của Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Điều đó đã giúp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đã đạt được nhiều kết quả tích
cực hơn trước.
Huyện Quốc Oai là một trong 30 quận, huyện của thành phố Hà Nội, nằm ở
phía Tây thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 20 km. Phía
Đông giáp huyện Đan phượng, huyện Hoài Đức, phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình;
phía Nam giáp huyện Chương Mỹ và phía Bắc giáp huyện Thạch Thất và huyện
Phúc Thọ. Huyện Quốc Oai trải rộng trên diện tích 147 km
2
với dân số 172

6
nghìn người, có 20 xã và 01 thị trấn. Trong những năm qua, tình hình tăng
trưởng kinh tế của huyện đạt ở mức cao. Giá trị sản xuất chung tăng bình quân

hàng năm khoảng trên 10%.
Những năm qua, các cấp ủy đảng và chính quyền huyện Quốc Oai rất quan
tâm, coi trọng đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Tuy nhiên
trên địa bàn huyện Quốc Oai những năm gần đây các đơn thư khiếu nại, tố cáo
ngày càng có xu hướng gia tăng và phức tạp, đặc biệt là các đơn thư vượt cấp,
kéo dài. Khi Luật khiếu nại, Luật tố cáo 2011 có hiệu lực, công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo đã có những chuyển biến đáng kể. Mặc dù các cấp chính quyền
huyện đã có nhiều cố gắng trong công tác này, song vì công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo là vấn đề nhạy cảm và liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội và hoạt động quản lý nhà nước nên việc giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn
chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là do
pháp luật về khiếu nại, tố cáo còn một số hạn chế, nhiều quy định còn thiếu tính
cụ thể. Việc giải quyết phải tuân theo các quy định của pháp luật, tôn trọng sự
thật khách quan, bảo đảm tính công khai, công bằng, đề cao trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại,
tố cáo. Nhưng trên thực tế vẫn còn phổ biến tình trạng đùn đẩy, không thực hiện
đầy đủ các quy định của pháp luật làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà
nước và chính quyền địa phương, gây mất an ninh chính trị và làm thiệt hại
không nhỏ đến lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức người khiếu nại, tố cáo cũng
như của địa phương.
Từ thực trạng khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay tại
huyện Quốc Oai cùng những vấn đề của pháp luật khiếu nại, tố cáo trước yêu
cầu của cải cách hành chính, của hội nhập quốc tế và bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân đã và đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý
nhu cầu phải giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với pháp luật khiếu
nại, tố cáo và việc thực thi pháp luật khiếu nại, tố cáo phù hợp với những yêu

7

cầu của đổi mới. Bản thân tác giả là người trực tiếp tham gia công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc UBND huyện Quốc Oai - Thành phố Hà Nội. Do vậy, tác
giả quyết định chọn vấn đề: “Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn
huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận
văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những vấn đề về pháp luật khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện Luật khiếu
nại, tố cáo đã được nhiều nhà nghiên cứu về khoa học pháp lý và các nhà hoạt
động thực tiễn quan tâm.
Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Văn Lễ: “ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực quản lý hành chính”, 2004; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu
Hằng: “Giải quyết khiếu nại về đất đai tại khu công nghiệp của các cơ quan
hành chính nhà nước ở tỉnh Bắc Giang”; Luận văn thạc sĩ của Đặng Anh Tuấn:
“Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai – Qua thực tiễn tỉnh Thái
Nguyên”….
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thế Thuấn: “Tăng cường hiệu lực của
pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Việt Nam hiện
nay‟‟; luận án tiến sĩ luật học của Trần Văn Sơn: “ Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ chế hành chính nhà
nước hiện nay”.
Chuyên đề: “ Xây dựng quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu nại hành
chính”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Thanh tra nhà nước, 2004…
Một số tài liệu chuyên khảo, giáo trình phục vụ nghiên cứu và giảng dạy có
đề cập đến khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Cuốn: “ Tìm
hiểu pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân” của PGS.TS Lê Bình Vọng, Nxb
Pháp lý Hà Nội, 1991; “ Tìm hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo” PGS.TS Phạm
Hồng Thái (chủ biên), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu đề cập đến những vấn đề liên quan
đến khiếu nại, tố cáo nhưng kể từ khi Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011 có


8
hiệu lực cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu thực sự cập nhật những vấn đề liên
quan đến khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đặc biệt là thông qua
thực tế một địa phương. Do vậy, việc chọn đề tài “ Hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội – Thực trạng và
giải pháp” là một hướng nghiên cứu mới và có tính thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của pháp luật khiếu nại,
tố cáo; đánh giá thực trạng pháp luật, thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo qua
thực tiễn huyện Quốc Oai. Từ đó đưa ra các đề xuất:
- Nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, góp phần vào việc đảm bảo quyền công
dân, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, ổn định trật tự an toàn xã hội và phát triển
kinh tế của địa phương.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Từ ý nghĩa và mục đích đề tài đã đặt ra nhiệm vụ của đề tài được xác định
là phải thực hiện được mục đích kể trên làm bật lên được ý nghĩa của đề tài. Đề
tài phải được nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống, khoa học và có chiều
sâu. Đề tài phải làm bật lên được tính thời sự và cần thiết của nó, thực sự là một
đề tài có tính ứng dụng vào thực tiễn, có thể trở thành công cụ cho học tập,
nghiên cứu về sau …Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo và pháp luật
khiếu nại, tố cáo, những yêu cầu đặt ra của việc nâng cao chất lượng hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo.

9

- Đánh giá thực trạng pháp luật khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước tại huyện Quốc Oai hiện
nay.
- Đưa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo
và các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo
tại huyện Quốc Oai.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng về pháp luật khiếu
nại, tố cáo; thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
hành chính tại huyện Quốc Oai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn “Hoạt dộng giải quyết
khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội – Thực trạng
và giải pháp” có phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực trạng về
pháp luật khiếu nại, tố cáo, thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Quốc Oai trong thời gian từ
năm 2009 đến năm 2013.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin là biện chứng duy vật và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tác giả
luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương
pháp phân tích được áp dụng khi xem xét quy định của các văn bản pháp luật về
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Về phương pháp thống kê, điều
tra xã hội học tác giả đã sử dụng khi tìm hiểu một số nguyên nhân phát sinh đơn
thư khiếu nại, tố cáo, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp

10

nghiên cứu cụ thể như: phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgic và phương pháp bình luận….
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn có những điểm mới sau:
Thứ nhất: đã tổng hợp, hệ thống các quy đinh của pháp luật về khiếu nại, tố cáo,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phân tích tìm ra những hạn chế, bất cập của Luật
khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011.
Thứ hai: phân tích thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo để tìm ra
những hạn chế, bất cập trong thực tiễn giải quyết các khiếu nại, tố cáo trên địa bàn
huyện Quốc Oai đồng thời tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế bất cập đó.
Thứ ba: trên cơ sở những đánh giá về hạn chế, bất cập trong những quy định
của Luật khiếu nại, Luật tố cáo 2011 và thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, tác giả đưa ra những đề xuất chung nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật khiếu nại, tố cáo đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương I: Khái quát về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về giải quyết khiếu
nại, tố cáo
Chương II: Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn
huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
Chương III: Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo.







11









CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1.1. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.1.1.Khái niệm khiếu nại, tố cáo
1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại
Khiếu nại là một hiện tượng xã hội được quan niệm và hiểu theo nhiều góc
độ khác nhau. Khiếu nại là hoạt động diễn ra khá thường xuyên và phổ biến, do
đó cụm từ khiếu nại được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, khiếu nại là thắc mắc, đề nghị xem xét lại
những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm.
Theo nghĩa rộng: Khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi khi có căn
cứ cho rằng quyết định, hành vi ấy xâm hại đến quyền, lợi ích của mình. Các
quyết định, hành vi là đối tượng của khiếu nại là quyết định, hành vi trái pháp
luật hoặc không đúng quy định của tổ chức, cộng đồng.
Theo nghĩa hẹp: Khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi trái pháp luật khi
có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi ấy xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp

pháp của mình. Lúc này, khiếu nại chỉ hướng vào phạm vi hoạt động của bộ máy

12
nhà nước và được thực hiện trên cơ sở nhận định, đánh giá về tính trái pháp luật
của các quyết định, các hành vi.
Theo quy định tại Điều 2, Luật khiếu nại năm 2011:
“Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo
thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính
nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc
quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Căn cứ vào tính chất của quyết định, hành vi và các quan hệ pháp luật phát
sinh khiếu nại được phân thành hai dạng cơ bản sau:
- Khiếu nại hành chính: khiếu nại về định hành chính hoặc hành vi hành
chính trái pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền trong hoạt
động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước. Đó là việc cá nhân, cơ quan,
tổ chức yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính trái pháp luật khi có căn cứ cho rằng nó xâm hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Khiếu nại tư pháp: khiếu nại về quyết định trái pháp luật hoặc hành vi trái
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Khiếu nại tư pháp là khiếu nại về quyết định
hoặc hành vi trái pháp luật của cơ quan hoặc của người tiến hành tố tụng như: cơ
quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án hoặc điều tra viên, kiểm sát viên,
thẩm phán, hội thẩm, chấp hành viên. Khiếu nại tư pháp trong lĩnh vực hình sự,
dân sự, kinh tế, lao động, hành chính được pháp luật tố tụng tương ứng quy
định.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ đề cập đến khiếu nại
trong phạm vi hành chính của các cơ quan nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm tố cáo

Tố cáo là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng thì tố cáo là: “ vạch rõ tội lỗi của kẻ khác
trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận”

13
Cách hiểu khác: tố cáo là việc công dân báo với cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền về bất kỳ hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà họ cho rằng hành vi ấy vi
phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định của tổ chức, cộng đồng đã gây ra thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, tổ chức, cộng đồng hoặc quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân.
Theo quy định tại Điều 2, Luật tố cáo năm 2011:
“Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Tố cáo được phân thành các dạng cơ bản sau:
- Tố cáo hành chính: tố cáo về các hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản
lý của cơ quan nhà nước. Đây là dạng tố cáo hướng vào các hành vi vi phạm về các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước. Việc xử lý, giải quyết tố cáo dạng này do
các cơ quan giải quyết theo thủ tục hành chính thông thường.
- Tố cáo về các hành vi vi phạm của tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư thuộc
phạm vi điều chỉnh của nội bộ các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư đó. Đây là
dạng tố cáo hướng vào các hành vi trái với tôn chỉ, muc đích đã được thể hiện trong
quy định của tổ chức, của cộng đồng; trái với luân thường đạo lý đã mặc nhiên được
thừa nhận. Xử lý tố cáo dạng này được thực hiện theo quy định của tổ chức, cộng
đồng đã được ghi nhận trong quy chế, điều lệ hoặc được hình thành mặc nhiên trong
cộng đồng.
- Tố cáo tội phạm: tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi công dân cho
rằng một cá nhân, một tổ chức đã hoặc sẽ thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội
hoặc cho rằng hành vi đó đã vi phạm các quy định của pháp luật hình sự thì họ thực

hiện tố cáo hành vi vi phạm trước cơ quan có thẩm quyền. Hành vi là đối tượng của
dạng tố cáo này được quy định cụ thể trong pháp luật hình sự. Việc xử lý và giải quyết
tố cáo tội phạm được quy định chặt chẽ và thực hiện theo thủ thục tố tụng hình sự.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ đề cập đến tố cáo trong phạm
vi hoạt động hành chính nhà nước.

14
1.1.1.3. Phân biệt khiếu nại và tố cáo
Các Luật khiếu nại, tố cáo cùng những văn bản pháp luật khác có liên quan đã
được ban hành nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Song, vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật về khiếu
nại, tố cáo là đã có không ít trường hợp còn lúng túng, chưa phân biệt rõ ràng, chính
xác thế nào là khiếu nại, thế nào là tố cáo, khi đơn thư có nội dung chứa đựng cả việc
khiếu nại và việc tố cáo thì thụ lý, giải quyết còn nhiều lúng túng. Đây chính là một
trong nhiều nguyên nhân làm nảy sinh những nhầm lẫn, thiếu sót, thậm chí là sai lầm
trong việc xử lý đơn thư, tiến hành xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân Từ đó dẫn đến việc đơn thư khiếu nại, tố cáo không được giải quyết kịp thời,
chính xác, để tồn đọng quá nhiều trong một thời gian dài mà pháp luật không cho
phép.
Do đó, để khắc phục tình trạng chung này, đồng thời để các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như mọi người dân hiểu rõ hơn về khiếu nại
và tố cáo, tôi xin được đưa ra một vài đặc trưng riêng biệt để phân biệt giữa khiếu nại
và tố cáo như sau:
- Trước hết, về chủ thể: chủ thể của hành vi khiếu nại phải là người bị tác động
trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc. Điều đó có nghĩa chủ thể của hành vi khiếu nại có thể là cơ quan, tổ chức cá
nhân. Trong khi đó, chủ thể của hành vi tố cáo chỉ có thể là cá nhân, tức là chỉ bao
gồm công dân và người nước ngoài. Cá nhân thực hiện hành vi tố cáo có thể chịu tác
động trực tiếp hoặc không chịu tác động của hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ 1:

Chị B là cán bộ cơ quan X đã bị xử lý kỷ luật với hình thức buộc thôi việc
do có nhiều sai phạm trong quá trình công tác. Chị B đã không muốn khiếu nại
quyết định kỷ luật đó. Tuy nhiên các đồng nghiệp của chị B lại rất bất bình, cho
rằng các sai phạm của chị B chưa đến mức phải chịu hình thức kỷ luật buộc thôi
việc, chị B phải chịu hình thức kỷ luật đó là do “sếp” có “tư thù” với chị B
v.v Trong trường hợp này, chỉ có chị B mới có quyền khiếu nại quyết định đó;

15
các đồng nghiệp của chị B không có quyền khiếu nại mà chỉ có thể “tác động”
tới chị B để chị B khiếu nại.
Ví dụ 2:
Ông X là công dân sinh sống trên địa bàn xã Đ. Ông X biết được ông H là
thẩm phán TAND huyện C đã nhận hối lộ của nhiều người. Tuy ông X hoàn
toàn không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan nhưng là một cán bộ Đảng viên
đã nghỉ hưu, ông rất bất bình nên đã làm đơn tố cáo ông H tới Tòa án nhân dân,
Viện Kiểm sát nhân dân huyện C và Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố N. Đơn tố cáo của Ông X trong trường hợp này được chấp nhận và
phải được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo đúng quy định của
pháp luật.
- Thứ hai, về đối tượng: Trong khi đối tượng của khiếu nại là quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức từ Vụ
trưởng và tương đương trở xuống, những quyết định và hành vi này phải có tác
động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, thì đối tượng
của tố cáo rộng hơn rất nhiều, công dân có quyền tố cáo những hành vi vi phạm
pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức. Có nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của tố cáo có
thể tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo có thể
không. Chính sự khác nhau này đã dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền, thủ tục
giải quyết, về quyền và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố

cáo…chẳng hạn: người khiếu nại không phải chịu trách nhiệm về việc khiếu nại
không đúng của mình nhưng việc tố cáo có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến
danh dự, uy tín, quyền lợi chính đáng của cán bộ công chức nhà nước nên theo
quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 9 Luật tố cáo 2011 thì người tố cáo phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình, bồi thường thiệt
hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.
- Thứ ba, về mục đích: nếu như mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ
và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại bị xâm hại bởi

16
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hoặc người có thẩm
quyền thì mục đích của tố cáo không chỉ dừng ở việc bảo vệ và khôi phục
quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo mà cao hơn thế nữa là nhằm bảo
vệ lợi ích của Nhà nước.
Tuy nhiên sự phân biệt trên chỉ rạch ròi trên lý thuyết: thực tiễn cuộc
sống là phong phú và sinh động hơn nhiều. Đa phần ta bắt gặp những trường
hợp vừa khiếu vừa tố.
Đó là những vụ việc mà quyết định hành chính, hành vi hành chính
của công quyền vừa ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân cụ thể nên bị
người ấy khiếu nại - đồng thời cũng quyết định, hành vi đó cấu thành nên
một vi phạm pháp luật, cần phải được phát hiện và xử lý kịp thời. Có thể
“giả thuyết” về những trường hợp trên như: ông A khiếu nại cơ quan công
quyền về việc thu hồi đất của gia đình ông trái pháp luật và đem chia cho
một cán bộ có chức quyền…Những trường hợp này không hiếm, và việc giải
quyết trước tiên phải theo trình tự tố cáo, sau khi đã xem xét tính xác thực
của vụ việc, đánh giá tính hợp pháp hay không của hành vi bị tố cáo, cơ
quan có thẩm quyền sẽ tiến đến xem xét giải quyết theo yêu cầu của người
bị thiệt hại trong vụ việc trên. Và dĩ nhiên việc giải quyết khiếu nại ở phân
đoạn này không thể hoàn toàn tuân thủ trình tự chung: người có thẩm quyền
giải quyết không thể là người đã ra quyết định, hành vi vi phạm đó, mà phải

là cơ quan hành chính cấp trên.
Ví dụ trên khác với trường hợp cũng có tình trạng vừa khiếu vừa tố,
nhưng vụ việc về bản chất lại tách bạch nhau. Ví dụ: bà N khiếu nại về việc
công chức C giữ hồ sơ xin phép kinh doanh cây xăng của mình không giải
quyết, đồng thời tố cáo về các hành vi khác của C như nghiện hút, cờ bạc và
có đời sống riêng không lành mạnh v.v . Lúc này việc giải quyết khiếu nại
và tố cáo cũng được tách bạch thành các trường hợp riêng, cho từng hành vi
riêng biệt.
Việc phân biệt hai khái niệm khiếu nại và tố cáo sẽ góp phần quan trọng
trong việc xây dựng cơ chế, thiết chế thực hiện quyền công dân và cũng là cơ sở

17
để cá thể hóa trách nhiệm, từ đó xác định thẩm quyền và xây dựng trình tự giải
quyết khiếu nại và tố cáo ngày càng đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng, tiết kiệm
và hợp lí hơn. Thông qua việc phân biệt giữa khiếu nại với tố cáo giúp công dân
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình đúng thủ tục và đúng cơ quan có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời giúp cho cơ quan nhà nước
giải quyết khiếu nại, tố cáo nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tránh được nhầm
lẫn ,sai sót trong khi giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1.1.2. Khái niệm về quyền khiếu nại, quyền tố cáo
Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền Hiến định, quyền cơ bản của công
dân. Ghi nhận quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền cơ bản của công dân là
việc nhà nước thừa nhận sự phản kháng theo pháp luật của công dân đối với
việc làm trái pháp luật từ phía các cơ quan nhà nước.
Quyền khiếu nại, tố cáo là quyền dân chủ trực tiếp. Thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo trực tiếp kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà nước, trực tiếp góp
ý, phản ánh với nhà nước các vấn đề quan tâm. Thông qua đó nhân dân có thể tự
mình phát hiện những vấn đề khiếm khuyế của cơ chế chính sách.
Quyền khiếu nại, tố cáo là quyền bảo vệ quyền. Mỗi khi có sự vi phạm các
quyền, lợi ích ở lĩnh vực nào đó thì pháp luật cũng dự liệu cho các bên dùng

quyền khiếu nại, tố cáo để tự bảo vệ thông qua sự can thiệp của nhà nước.
1.1.3. Khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.1.3.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại
Khoản 11, điều 3, Luật khiếu nại 2011 quy định: “Giải quyết khiếu nại là
việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại”.
Hoạt động giải quyết khiếu nại là bước tiếp theo khi có yêu cầu giải quyết
(khi có khiếu nại), gồm có các giai đoạn: thụ lý vụ việc; xác minh tình tiết, nội
dung vụ việc; kết luận về tính đúng sai, cơ sở pháp lý của nội dung khiếu nại,
của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; ra quyết định giải
quyết khiếu nại. Giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước là
các cơ quan này tiến hành hoạt động thuộc thẩm quyền của mình để có biện

18
pháp theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức và lợi ích chung của nhà nước và xã hội.
1.1.3.2. Khái niệm giải quyết tố cáo
Theo quy định tại Khoản 7, điều 2, Luật tố cáo 2011: “Giải quyết tố
cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố
cáo của người giải quyết tố cáo”. Theo đó hoạt động giải quyết tố cáo bao
gồm các giai đoạn: tiếp nhận vụ việc; xác minh tình tiết, nội dung vụ việc;
kết luận về tính đúng sai, cơ sở pháp lý của nội dung tố cáo; việc xử lý tố
cáo của người giải quyết tố cáo. Hoạt động giải quyết tố cáo phức tạp hơn
hoạt động giải quyết khiếu nại vì giải quyết tố cáo có liên quan đến quyền
lợi của nhiều chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật: lợi ích của
nhà nước, quyền, lợi ích của công dân… điều này đòi hỏi khi giải quyết tố
cáo các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét thật kỹ.
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo
Bản chất của quyền khiếu nại, tố cáo là quyền tự vệ hợp pháp trước những
hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội. Đó
là quyền hiến định, quyền dân chủ và hơn thế nữa, đó là quyền để bảo vệ quyền.

Chính vì vậy, khiếu nại, tố cáo là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội.
Khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền
lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ,
công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai trò,
ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thứ nhất: Làm tốt và thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được pháp luật tôn trọng và bảo đảm.
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi
nhận trong Hiến pháp. Việc thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo sẽ là cơ sở cho
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Nó chính là phương
tiện để công dân đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật nhằm bảo vệ lợi
ích của nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình.

19
Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo là một hình thức trực tiếp và chủ yếu để
nhân dân thông qua đó tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, phát huy dân
chủ XHCN.
Thứ hai: Làm tốt và thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải
quyết kịp thời và chính xác mọi vướng mắc, bức xúc, mâu thuẫn của người dân,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ ba: Thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước cũng phát huy tối đa vai trò của những người
đi tiên phong trong việc phổ biến tuyên truyền và giáo dục chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước tới người dân; giúp họ hiểu và nắm vững các quy định
của pháp luật mà tự giác thực hiện.
Thứ tư: Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, cũng
là điều kiện, là một “kênh” quan trọng để các cơ quan báo chí, tổ chức xã hội, tổ
chức chính trị-xã hội, bằng cách này hay cách khác, gián tiếp hoặc trực tiếp
tham gia và giám sát các hoạt động công vụ của các cơ quan, cán bộ, công chức

nhà nước, bảo đảm quyền dân chủ, tính pháp chế XHCN - một trong những tiêu
chí cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Tính chất giám sát của nhân dân đối với nhà nước trong khiếu nại và tố cáo
được biểu hiện ở chỗ khi khiếu nại, tố cáo, nhân dân đã chuyển đến cho cơ
quan nhà nước những thông tin, phát hiện về những việc làm vi phạm pháp
luật, xâm hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Trên cơ sở đó, nhà nước kiểm tra lại hoạt động, hành vi của các cơ quan,
cán bộ, công chức của mình thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Qua
đó, nhà nước phát hiện được những hành vi tham nhũng, quan liêu, tiêu cực
cũng như các biểu hiện vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức để kịp thời
giáo dục, xử lý, loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước
trong sạch, vững mạnh.
Thứ năm: Thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện
và kiến nghị với Đảng, Nhà nước, cũng như các cơ quan, đơn vị bị thanh tra
kịp thời chấn chỉnh công tác quản lý; sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính

20
sách, thậm chí ban hành mới các quy định của pháp luật cho phù hợp với tình
hình thực tiễn của cuộc sống. Xét ở khía cạnh khác, công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo cũng giúp các cơ quan nhà nước cải tiến lề lối, tác phong làm việc,
giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố và xây dựng bộ máy
nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả hơn trong điều
hành quản lý đất nước, quản lý xã hội. Nói cách khác, công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo không chỉ phát hiện hành vi sai phạm, cán bộ mắc khuyết
điểm để xử lý, mà còn giúp các cấp lãnh đạo, các cơ quan bị thanh tra …có
được cái nhìn đầy đủ, khách quan và chính xác hơn về những yếu kém trong
công tác, kịp thời có những giải pháp chấn chỉnh, uốn nắn cho phù hợp, đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
1.2. Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật khiếu nại, tố cáo

1.2.1.1. Khái niệm
Pháp luật khiếu nại, tố cáo là hệ thống các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Pháp luật về khiếu nại, tố cáo bao gồm hệ thống các quy
phạm về khiếu nại, tố cáo; quyền, nghĩa vụ các bên trong khiếu nại, tố cáo;
thẩm quyền, trách nhiệm và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về khiếu nại, tố cáo
- Các quy phạm pháp luật hình thức giữ vai trò chủ đạo. Bản thân các quy
phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo không quy định về nội dung cụ thể của quản lý.
Nó quy định những vấn đề về quyền khiếu nại, tố cáo; thẩm quyền, trình tự, thủ
tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được áp dụng chung khi có vi phạm pháp luật
xảy ra. Đó là quy trình chung điều chỉnh tất cả các hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước khi xem xét giải quyết các vụ việc.
- Pháp luật khiếu nại, tố cáo phản ánh tính chất của nền dân chủ, tính chất
của chế độ chính trị Nhà nước. Vấn đề cơ bản của pháp luật khiếu nại, tố cáo là
bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong mối quan hệ với cơ quan công
quyền.

21
Ở nước ta, từ trước đến nay, đều ghi nhận khiếu nại, tố cáo là một trong những
quyền cơ bản của công dân, trong đó Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Điều 74:
“Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố
cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật
quy định…”.
Quy định này đã được Hiến pháp 2013 sửa đổi, bổ sung tại Điều 30, cụ thể
là:
“Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu
nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại
người khác”.
Theo quy định này, khiếu nại, tố cáo không chỉ là quyền Hiến định của
công dân Việt Nam (những người có quốc tịch Việt Nam) mà đã được công
nhận là quyền con người, được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Khiếu nại và tố
cáo là một trong những phương thức thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần
giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc trong nhân dân. Đây cũng là phương
thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình và thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại, tố cáo đều hướng tới bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm
minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền.
- Pháp luật khiếu nại, tố cáo là phương tiện đấu tranh, phòng chống các
hành vi vi phạm pháp luật và tăng cường pháp chế.
Quyền khiếu nại, tố cáo là những quyền tự do dân chủ quan trọng của công
dân được quy định trong hiến pháp và được cụ thể hóa trong hệ thống các quy
phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo. Không chỉ là phương tiện để công dân thực

22
hiện quyền của mình mà pháp luật khiếu nại, tố cáo còn là phương tiện để công
dân cũng như nhà nước đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật.
Bởi lẽ, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước mặc dù đã và đang được hoàn thiện,
ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động ngày càng minh bạch và hiệu quả
hơn nhưng cũng chứa đựng trong nó là một bộ phận không nhỏ những vấn đề
tiêu cực, những “ung nhọt” tiềm ẩn chưa được phát hiện. Tâm lý chung khi đã
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật người ta thường hay che giấu, tìm cách trốn
tránh trách nhiệm. Do đó, nếu không có người khiếu nại, tố cáo và hành lang
pháp lý cho khiếu nại, tố cáo thì ai và bằng cách nào chúng ta có thể phát hiện ra

những “ung nhọt” trong hoạt động của bộ máy nhà nước để chữa trị kịp thời
hoặc loại bỏ chúng đi. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
hành chính nhà nước và người có thẩm quyền tuân thủ nghiêm chỉnh, đầy đủ,
đúng đắn trình tự, thủ tục được quy định bởi pháp luật khiếu nại, tố cáo và pháp
luật khác có liên quan. Đồng thời với nó, pháp luật khiếu nại, tố cáo có một cơ
chế khá hữu hiệu để kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đó là việc tự kiểm tra trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan cấp
trên kiểm tra hoạt động của cơ quan hành chính cấp dưới trong đó có hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước
(Hội đồng nhân dân, tòa án) hay của các cơ quan khác không mang tính quyền
lực nhà nước như Mặt trận tổ quốc, các thành viên của Mặt trận tổ quốc, cơ quan
báo chí… (Chương 6 Luật khiếu nại: điều 63, 64, 65, 66; Chương 6 Luật tố cáo:
điều 41, 42, 43, 44). Pháp luật khiếu nại, tố cáo hướng vào yêu cầu xử lý các
hành vi, các quyết định trái pháp luật. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân
tham gia quan hệ khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo nếu có sai
phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào các quy định của
pháp luật khiếu nại, tố cáo các đối tượng vi phạm sẽ phải chịu sự trừng phạt
thích đáng của pháp luật, của dư luận…và đó cũng chính là một bài học mang

23
tính răn đe với những đối tượng khác. Những điều đó đã góp phần quan
trọng trong việc đảm bảo thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Pháp luật khiếu nại, tố cáo được mở rộng hoàn thiện theo hệ thống
các quy định về quyền, lợi ích của các chủ thể.
Xã hội ngày càng phát triển, xu thế hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực
của đời sống về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội…là điều tất yếu. Cùng
với đó là vấn đề quyền con người ngày càng được quan tâm và ghi nhận
rộng rãi tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Nhiều văn bản luật và

dưới luật của chúng ta những năm gần đây đã được ban hành mới, sửa đổi,
bổ sung theo hướng cụ thể hóa các quyền con người, quyền công dân đã
được ghi nhận trong Hiến pháp. Nhà nước ta đã và đang được xây dựng để
trở thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân.
Do đó, từ quan điểm lãnh đạo của Đảng đến việc xây dựng hệ thống pháp
luật của nhà nước đều hướng tới việc sao cho pháp luật của nước ta phải là
pháp luật vì con người. Pháp luật khiếu nại, tố cáo sau nhiều lần sửa đổi,
bổ sung và gần đây nhất là sự ra đời của Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo
2011 và Hiến pháp 2013 đã cho thấy các quy định về quyền, lợi ích của các
chủ thể trong quan hệ khiếu nại, tố cáo ngày càng được mở rộng hoàn thiện
hơn theo hướng phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân. Điều này
được thể hiện rõ nét tại các quy định mới, bổ sung, và mở rộng hơn trong
Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011. Ví dụ: quy định mở rộng hơn về đối
tượng của khiếu nại; quyền khởi kiện vụ án hành chính không bắt buộc
phải qua thủ tục khiếu nại; bổ sung thêm các quyền và nghĩa vụ của người
tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết tố cáo….
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật khiếu nại, tố cáo
Nội dung cơ bản của pháp luật khiếu nại, tố cáo bao gồm các chế định về:
- Chủ thể quyền khiếu nại, tố cáo. Xác định địa vị pháp lý của công dân, cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong quan hệ với nhà nước hoặc với cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác.

24
- Đối tượng của quyền khiếu nại, tố cáo. Đó là những vi phạm pháp luật
trong hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước, thể hiện là tính trái pháp luật của
các quyết định quản lý hoặc các hành vi quản lý.
- Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo và người bị khiếu nại, tố cáo.
Những quy định này nhằm đảm bảo thực tế quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho quá trình giải quyết.
- Thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Xác định đúng thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt đối với việc
nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.
- Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo xác định nội dung công việc và trình
tự thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc.
- Giám sát thi hành pháp luật khiếu nại, tố cáo. Các quy định về giám sát thi
hành nhằm đảm bảo cho các quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo được thực
hiện nghiêm chỉnh.
- Đặc biệt, pháp luật khiếu nại, tố cáo đã quan tâm đề cập tới những quy
định về việc tiếp công dân. Tiếp công dân là giai đoạn đầu của công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo, đóng vai trò quan trọng như là một khâu then chốt góp
phần giải quyết có hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, qua
đó bảo vệ lợi ích của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.2.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật giải quyết khiếu nại, tố
cáo ở Việt Nam
1.2.3.1. Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về khiếu nại, tố cáo và giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là một phương thức thể hiện quyền dân chủ của nhân dân
và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối
với bộ máy Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi giải quyết khiếu nại, tố
cáo chính là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Nhà nước. Làm tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu

×