Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng tại công ty TNHH dịch vụ tin học FPT – chi nhánh đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.35 KB, 105 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGUYỄN MẠNH SỸ


PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP NỘI BỘ CÔNG TY Ở
VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Hà Nội – 2014



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN MẠNH SỸ


PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP NỘI BỘ CÔNG TY Ở
VIỆT NAM


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương


Hà nội – 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


TÁC GIẢ LUẬN VĂN



NGUYỄN MẠNH SỸ










MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 4
7. Bố cục của luận văn 5
Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
NỘI BỘ CÔNG TY 5
1.1. Khái niệm tranh chấp nội bộ công ty 5
1.1.1. Khái niệm quan hệ nội bộ công ty 5
1.1.2. Khái niệm tranh chấp nội bộ công ty 8
1.2. Phân biệt tranh chấp nội bộ công ty với tranh chấp khác 12
1.3. Phân loại tranh chấp nội bộ công ty với các tranh chấp khác 14
1.3.1. Căn cứ vào chủ thể tranh chấp 14



1.3.2. Căn cứ vào nội dung tranh chấp 15
1.4. Giải quyết tranh chấp nội bộ công ty và các phương thức giải quyết tranh
chấp nội bộ công ty 17
1.4.1. Giải quyết tranh chấp nội bộ công ty 17
1.4.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp nội bộ công ty 18
1.4.2.1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải 18
1.4.2.2. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài 21
1.4.2.3. Giải quyết tranh chấp bằng tòa án 23
1.5. Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp nội bộ công ty của nước ngoài 25
Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP NỘI BỘ CÔNG TY VÀ THỰC TẾ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TẠI
VIỆT NAM 28
2.1. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp nội bộ ở Việt Nam 28
2.1.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp thông qua tố tụng tòa án 29
2.1.1.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp 29

2.1.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án 31
2.1.1.3. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp nội bộ công ty bằng tố tụng
tòa án 33
2.1.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng các phương thức khác 37
2.1.2.1. Giải quyết tranh chấp nội bộ công ty bằng thủ tục tố tụng trọng tài . 37
2.1.2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài 39
2.1.2.3. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng 40
2.1.2.4. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải 41



2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp nội bộ 42
2.2.1. Về lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp 42
2.2.1.1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng 43
2.2.1.2. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải 44
2.2.1.3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài 46
2.2.1.4. Giải quyết tranh chấp bằng tòa án 49
2.2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong một số vụ án 52
2.2.2.1. Tranh chấp liên quan đến việc xác lập tư cách thành viên công ty 52
2.2.2.2. Tranh chấp liên quan đến vốn góp 58
2.2.2.3. Tranh chấp liên quan đến quyết định của cơ quan quản lý công ty 68
2.2.3. Nhận xét và kết luận 70
2.2.3.1. Về tranh chấp nội bộ công ty 70
2.2.3.2. Về phương thức giải quyết tranh chấp 71
Chương 3: CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP NỘI BỘ CÔNG TY 72
3.1. Định hướng hoàn thiện giải quyết tranh chấp nội bộ công ty 73
3.1.1. Định hướng liên quan đến phương thức hòa giải 73
3.1.2. Định hướng liên quan đến phương thức trọng tài 76
3.1.3. Định hướng liên quan đến phương thức tòa án 80

3.1.4. Định hướng các vấn đề khác liên quan đến hoàn thiện pháp luật giải
quyết tranh chấp nội bộ công ty 83



3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp nội bộ
công ty 84
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật 84
3.2.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của việc thực thi pháp luật 88
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO




















DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TCNBCT : Tranh chấp nội bộ công ty
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
Công ty CP : Công ty Cổ phần
Công ty TNHH : Công ty TNHH
ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông
HĐTV : Hội đồng thành viên
HĐQT : Hội đồng quản trị
LDN 2005 : Luật Doanh nghiệp 2005
LTM 2005 : Luật Thương mại 2005
LTTTM 2010 : Luật Trọng tài thương mại 2010
TAND : Tòa án nhân dân

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh chấp nội bộ công ty (TCNBCT) liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, tổ chức lại và giải thể công ty là một trong những vấn đề mới phát sinh
kể từ công cuộc Đổi mới 1986. Thời điểm đó, nước ta bắt đầu thực hiện
đường lối đổi mới với ba nội dung chính: Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; Phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày
càng quan trọng và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách
hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Đây chính là
nguyên nhân dẫn đến hàng loạt sự thay đổi toàn diện về cả chính trị, kinh tế
và xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế mới xuất
hiện, Luật Công ty 1990 được ban hành dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ về số
lượng và quy mô hoạt động của công ty. Hệ quả tất yếu dẫn đến là các tranh

chấp giữa các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế, trong đó có tranh chấp nội
bộ công ty diễn ra ngày càng nhiều về số lượng, phức tạp về nội dung.

Tranh chấp kinh doanh, thương mại nói chung và tranh chấp nội bộ công
ty nói riêng là một hiện tượng tất yếu không thể tránh khỏi của nền kinh tế thị
trường. Pháp luật điều chỉnh về loại tranh chấp này đang từng bước được
hoàn thiện bởi vì đây là loại tranh chấp mới so với các quan hệ tranh chấp
kinh doanh, thương mại khác. Trong thực tiễn, việc tranh chấp nội bộ công ty
rất đa dạng, tuy nhiên việc áp dụng pháp luật để giải quyết loại tranh chấp này
còn nhiều bất cập, vướng mắc. Việc tìm hiểu nguyên nhân cũng như các
phương thức giải quyết tranh chấp nội bộ công ty theo pháp luật Việt Nam, từ
đó có những sự đánh giá dựa trên thực tiễn giải quyết tranh chấp để đưa ra
những giải pháp tối ưu hạn chế tranh chấp, tìm ra các tồn tại bất cập và chưa
đầy đủ trong các quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
phát triển ổn định là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra.

2

Với những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Pháp luật về giải
quyết tranh chấp nội bộ công ty ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, tranh chấp nội bộ công ty luôn nhận
được sự chú ý của các nhà nghiên cứu cũng như các cá nhân, tổ chức hoạt
động trong thực tiễn. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề này như: Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2005 “Thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh doanh của Tòa án – những điểm mới và các vấn đề đặt ra
cho thực tiễn thi hành” của tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê; Luận văn thạc sĩ
Luật học năm 2006 “Thẩm quyền giải quyết các vụ việc vè kinh doanh,
thương mại của Tòa án Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”

của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiếu; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2006 “Giải
quyết tranh chấp công ty theo thủ tục tư pháp – những vấn đề lý luận và thực
tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2008
“Giải quyết tranh chấp giữa các cổ đông và giữa cổ đông với người quản lý
công ty trong công ty cổ phần” của tác giả Trần Duy Bình; Luận văn thạc sĩ
Luật học năm 2010 “Tranh chấp nội bộ công ty theo pháp luật Doanh nghệp
Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hiền;Pháp luật giải quyết tranh chấp nội bộ
công ty: nhận thức, thực trạng và cải cách (Ngô Huy Cương, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2012, tr. 48 – 58).
Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về tranh chấp nội bộ công ty. Tuy nhiên, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả thấy rằng việc nghiên cứu chuyên sâu về việc giải quyết
tranh chấp nội bộ công ty vẫn còn bỏ ngõ nhiều vấn đề, các vấn đề lý luận và
thực tiễn đang tiếp tục được đặt ra và có nhu cầu giải quyết hoặc chưa được

3

cập nhật theo pháp luật hiện hành , và đây vẫn là vấn đề đòi hỏi các nhà
nghiên cứu pháp luật quan tâm tìm hiểu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra mục đích là nghiên cứu tổng quát về tranh chấp nội bộ công
ty, các phương thức giải quyết tranh chấp nội bộ công ty theo pháp luật Việt
Nam hiện hành, từ đó đề xuất những kiến nghị về việc hoàn thiện các quy
phạm pháp luật liên quan đến tranh chấp nội bộ công ty và phương thức giải
quyết tranh chấp nội bộ công ty nhằm có một cái nhìn tổng quát, đồng bộ,
khoa học về vấn đề này để làm rõ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp nội bộ
công ty, từ đó đưa ra các kiến giải về phương thức giải quyết phù hợp với
thực tiễn của sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:

- Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về tranh
chấp nội bộ công ty, nhận dạng các loại tranh chấp nội bộ công ty.
- Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ các phương thức giải quyết tranh chấp
nội bộ công ty, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm của từng phương thức.
- Thứ ba, nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành liên quan đến các phương thức giải quyết tranh chấp nội
bộ công ty, thực tiễn áp dụng để giải quyết tranh chấp.
- Thứ tư, nghiên cứu các bản án, quyết định của tòa án liên quan đến giải
quyết tranh chấp nội bộ công ty để đánh giá phân tích thực trạng áp dụng
pháp luật giải quyết nội bộ công ty.
- Thứ năm, đề xuất một số kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp
luật liên quan đến các phương thức giải quyết tranh chấp công ty.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về các phương
thức giải quyết tranh chấp nội bộ công ty dựa trên lý luận về tranh chấp nội bộ

4

công ty, rà soát các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp nội bộ công
ty, khảo sát thực tiễn thực hiện pháp luật để giải quyết tranh chấp.
Phạm vi nghiên cứu là các quy định của pháp luật doanh nghiệp, thương
mại có liên quan đến giải quyết tranh chấp nội bộ công ty theo sự điều chỉnh
của Luật Doanh nghiệp 2005, không đi sâu vào các lĩnh vực chuyên ngành
khác như chứng khoán, đầu tư, ngân hàng…; các quy định của pháp luật
doanh nghiệp, thương mại cũng chỉ được tập trung nghiên cứu ở một số nhóm
tranh chấp phổ biến, điển hình, không đi sâu vào các công ty có yếu tố nước
ngoài. Hoặc liên quan đến việc hoàn thiện các phương thức xử lý tranh chấp
nội bộ công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty cổ phần
là hai loại hình công ty phổ biến hiện nay.
Về phương thức giải quyết tranh chấp nội bộ công ty, luận văn chỉ tập

trung nghiên cứu trong phạm vi khảo sát là các tranh chấp nội bộ công ty
được giải quyết bằng thủ tục tố tụng tại tòa án, lý do là với điều kiện thực tế
hiện nay tại Việt Nam, tranh chấp nội bộ công ty chủ yếu được giải quyết
bằng con đường Tòa án.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh,
chứng minh, tổng hợp. Các phương pháp xã hội học như thống kê, tham khảo
ý kiến đánh giá và quan điểm của những người làm công tác thực tiễn cũng
như những học giả quan tâm đến chủ đề này. Bên cạnh đó, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích các tình huống cụ thể kết
hợp với phương pháp tổng kết thực tiễn để hoàn thành luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Hiện nay, tranh chấp nội bộ công ty và phương thức giải quyết tranh
chấp nội bộ công ty đang có xu hướng gia tăng, đa dạng và phức tạp. Đây là
hệ quả tất yếu của sự phát triển đa dạng và mạnh mẽ của các loại hình công ty

5

trong khi pháp luật điều chỉnh về các mối quan hệ này chưa kịp hoàn thiện và
đáp ứng được với sự phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa
quan trọng về mặt khoa học cũng như thực tiễn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp nội bộ công ty.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp nội bộ công ty
và thực tế áp dụng pháp luật ở Việt Nam.
Chương 3: Các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
giải quyết tranh chấp nội bộ công ty.










Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NỘI BỘ CÔNG TY
1.1. Khái niệm tranh chấp nội bộ công ty
1.1.1. Khái niệm quan hệ nội bộ công ty
Khoản 1, điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 (LDN 2005) định nghĩa:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Khoản 3 Điều 29 Bộ luật Tố tụng

6

Dân sự 2004 (Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm
2004 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2005, được sửa
đổi, bổ sung bởi: Luật số 65/2011/QH12 ngày 29 tháng 3 năm 2011 của Quốc
hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2012, được hợp nhất bằng văn bản hợp nhất số
02/VBHN-VPCP ngày 20/03/2013 của Văn phòng Chính phủ) (BLTTDS)
quy định: “Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty”.

Pháp luật hiện hành không giải thích cụ thể khái niệm về thành viên
công ty. LDN 2005 chỉ nêu ra một số khái niệm có liên quan như sau: Thành
viên sáng lập là người, tổ chức góp vốn, tham gia xây dựng, thông qua và ký
tên vào bản điều lệ đầu tiên của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh. Cổ đông là người, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của
công ty cổ phần. Người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu, giám đốc doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, chủ tịch hội đồng
thành viên, chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng
giám đốc và các chức danh quản lý khác do điều lệ công ty quy định. Thành
viên hợp danh là thành viên chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ty hợp danh.
Thành viên công ty trong hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn (Công
ty TNHH) có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Đối với hình thức Công ty TNHH
Hai thành viên trở lên, thành viên công ty bao gồm: hội đồng thành viên;
người quản lý doanh nghiệp; trong trường hợp có từ 11 thành viên trở lên phải
có ban kiểm soát [31, Mục 1, Chương III]. Đối với hình thức Công ty TNHH
Một thành viên, thành viên công ty có thể là cá nhân, tổ chức bao gồm: chủ sở

7

hữu công ty; người quản lý doanh nghiệp; kiểm soát viên [31, Mục 2, Chương
III].
Thành viên công ty trong hình thức Công ty Cổ phần (Công ty CP) có
thể là cá nhân, tổ chức được xác định bao gồm: đại hội đồng cổ đông; hội
đồng quản trị; người quản lý doanh nghiệp; ban kiểm soát [31, Chương IV].
Thành viên Công ty hợp danh phải là cá nhân trong trường hợp là thành
viên hợp danh, về thành viên góp vốn LDN 2005 không quy định cụ thể vì
vậy có thể hiểu là thành viên góp vốn là cá nhân hoặc tổ chức. Trong điều
hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau
đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty, chủ tịch hội đồng

thành viên. Hội đồng thành viên do tất cả thành viên hợp lại và bầu một thành
viên hợp danh làm chủ tịch hội đồng thành viên. Vậy, có thể xác định thành
viên của Công ty hợp danh bao gồm: thành viên hợp danh; thành viên góp
vốn [31, Chương V].
Vậy, nội bộ công ty có thể hiểu là các thành viên trong công ty như đã
thống kê ở trên . Có một chủ thể cần xem xét đến là người quản lý công ty,
dưới góc độ pháp lý họ là người được các chủ sở hữu công ty ủy quyền để đại
diện công ty thực hiện công tác quản lý điều hành công ty.Có thể xếp người
quản lý công ty vào thành viên công ty, tuy nhiên ở các quan hệ có sự tách
biệt giữa quyền sở hữu và quản lý ví dụ như thuê giám đốc làm đại diện cho
công ty theo pháp luật và giám đốc này không phải là chủ sở hữu, thành viên
góp vốn và các tranh chấp liên quan đến lợi ích cá nhân của người quản lý
công ty, theo quan điểm của tác giả đây là các tranh chấp khác, không phải là
tranh chấp nội bộ công ty. Mối quan hệ của người quản lý công ty với thành
viên công ty và công ty ngoại trừ trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc
là người sở hữu toàn bộ tài sản của công ty luôn tiềm ẩn mâu thuẫn giữa nhà
đầu tư và người quản lý bởi vì lợi ích của hai chủ thể này khác nhau, thậm chí

8

đối nghịch nhau trong một số trường hợp. Ví dụ, chủ sở hữu công ty luôn
hướng đến công ty hoạt động hiệu quả, có lãi tuy nhiên người quản lý công ty
không chịu rủi ro tài chính lớn nếu công ty thua lỗ và không có lợi ích cuối
cùng khi công ty có lãi. Xung đột hoàn toàn có thể xảy ra do sự tách bạch
giữa quyền sở hữu và quản lý này.
Tóm lại, pháp luật hiện hành không đưa ra một khái niệm rõ ràng về
quan hệ nội bộ công ty, thông qua quá trình nghiên cứu ở trên, có thể
hiểuquan hệnội bộ công ty là mối quan hệ giữa các thành viên trong công
ty,các cơ quan quản lý trong công ty với nhau, giữa công ty với thành viên
công ty, giữa thành viên công ty với người quản lý công ty trong quá trình

thành lập, hoạt động, chấm dứt hoạt động của công ty.
Cơ quan quản lý công ty, trong Công ty CP cơ quan quản lý công ty là
Chủ tịch HĐQT, HĐQT, Đại hội đồng cổ đông(ĐHĐCĐ), Giám đốc và các
Cơ quan tương ứng trong Công ty TNHH, công ty Hợp danh.
1.1.2. Khái niệm tranh chấp nội bộ công ty
Theo từ điển tiếng Việt, tranh chấp là việc giành nhau một cách giằng
co, không rõ thuộc về bên nào. Cũng có thể hiểu tranh chấp là sự đấu tranh
giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa các
bên[23, tr. 1204]. Dưới góc độ khoa học pháp lý, có thể hiểu tranh chấp là
những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong cùng
một quan hệ pháp luật nhất định.
Tranh chấp nội bộ công ty được xếp vào những tranh chấp kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án [34, Điều 29]. Tuy nhiên,
khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại chưa có sự thống nhất về
cách dùng.
Theo LDN 2005, kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản

9

phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi [34,
Khoản 2, Điều 4]. Vậy có thể hiểu tranh chấp kinh doanh là các mâu thuẫn,
bất đồng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Theo Luật Thương mại 2005 (LTM 2005), hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Chủ thể của hoạt động thương mại là thương nhân [32, Khoản 1, Điều 3]. Vì
vậy có thể hiểu tranh chấp thương mại là các mâu thuẫn, bất đồng về quyền

và nghĩa vụ của các thương nhân khi tham gia vào hoạt động thương mại. Xét
dưới góc độ pháp lý, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và
có đăng ký kinh doanh [32, Khoản 1, Điều 6], doanh nghiệp là vỏ bọc pháp lý
của thương nhân thành các hình thức tổ chức được quy định tại LDN 2005 và
chỉ là một bộ phận nằm trong khái niệm thương nhân.
Xét về bản chất, kinh doanh và hoạt động thương mại cùng nhằm đến
mục đích kiếm lời. Tất cả các hoạt động trên thương trường để sinh lời đều có
thể hiểu là kinh doanh, thương mại. Vì vậy trong nhiều văn bản, thuật ngữ
kinh doanh, thương mại có thể đứng cạnh nhau, thậm chí có thể thay thế cho
nhau trong nhiều ngữ cảnh. Tranh chấp kinh doanh, tranh chấp thương mại
cũng có thể hiểu tương tự như trên. Vì công ty là một chủ thể kinh doanh
được tạo nên bởi việc đầu tư của một hoặc nhiều thành viên dưới một vỏ bọc
pháp lý là các hình thức doanh nghiệp nên trong suốt quá trình thành lập, hoạt
động và chấm dứt hoạt động của mình, quan hệ nội bộ công ty có khả năng
nảy sinh ra các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, về quyền và nghĩa vụ của giữa
mối quan hệ nội bộ công ty. Những mâu thuẫn này bộc lộ ra bên ngoài là

10

những tranh chấp nội bộ công ty và về bản chất nó là sự bất đồng, mâu thuẫn
về các lợi ích kinh tế giữa chủ thể phát sinh trong quan hệ kinh doanh, do
không có sự tách biệt rõ ràng về khái niệm tranh chấp kinh doanh và tranh
chấp thương mại nêntrong quá trình nghiên cứu về tranh chấp nội bộ công ty,
tác giả đặt tranh chấp nội bộ công ty là tranh chấp kinh doanh, thương mại nói
chung.
Mối quan hệ giữa các thành viên công ty với nhau thường phát sinh từ
các mâu thuẫn, xung đột lợi ích trong quá trình góp vốn, các thành viên góp
vốn dịch chuyển quyền sở hữu phần vốn góp của mình vào công ty, hoàn
thành việc góp vốn vào công ty bằng tài sản để được hưởng quy chế thành

viên công ty vv. Có thể nhận thấy rằng, không phải tất cả các thành viên
trong một công ty đều có quyền lợi như nhau, đều có khả năng chi phối, tham
gia hoạt động quản lý, kiểm soát công ty giống nhau. Điều này dẫn đến lợi ích
của họ không đồng nhất, vì vậy mâu thuẫn tiềm ẩn rất lớn trong các quan hệ
này, đặc biệt là trong các công ty cổ phần mà tại đó “cổ đông lớn có khả năng
lợi dụng sức mạnh để bóc lột cổ đông thiểu số”[21, tr. 256] . Bên cạnh đó,
mối quan hệ giữa các thành viên công ty với công ty cũng có thể xảy ra mâu
thuẫn liên quan đến quyền và lợi ích đặc biệt trong vấn đề phần vốn góp. Xét
đến cùng, cho dù cá nhân nào đó là chủ sở hữu công ty thông qua vốn góp thì
tài sản đã góp vào công ty thuộc sở hữu của công ty, dẫn đến việc tách bạch
quyền và lợi ích về tài sản đó một cách rõ ràng. Về mặt hình thức, với tư cách
là một chủ thể pháp lý độc lập, công ty vẫn có những quyền và nghĩa vụ của
mình đối với thành viên, có quyền đòi hỏi các thành viên công ty thực hiện
nghĩa vụ đối với mình và ngược lại và mâu thuẫn phát sinh trong quá trình
này.
Tuy không có khái niệm rõ ràng nhưng theo quy định tại BLTTDS 2004
có thể hiểu: Tranh chấp nội bộ công ty là tranh chấp giữa công ty với các

11

thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển
đổi hình thức tổ chức của công ty [34, Điều 29]. Theo đó, tại Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân(TAND) Tối cao quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án, tranh
chấp nội bộ bao gồm tranh chấp giữa công ty và các thành viên trong công ty
và tranh chấp giữa các thành viên trong công ty với nhau.
Như vậy, việc xác định tranh chấp nội bộ công ty phải thỏa mãn 2 điều
kiện: (i) các tranh chấp phải là tranh chấp giữagiữa các thành viên trong công
ty với nhau, giữa công ty với thành viên công ty, giữa thành viên công ty với

cơ quan quản lý công ty; (ii) các tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách chuyển đổi hình thức tổ chức
công ty.
Chủ thể của tranh chấp nội bộ công ty là thành viên, công ty và cơ quan
quản lý công ty. Đối tượng của tranh chấp nội bộ công ty là quyền, nghĩa vụ
của thành viên, người quản lý công ty và của công ty. Lĩnh vực phát sinh
tranh chấp liên quan đến việc thành lập, hoạt động, chấm dứt hoạt động của
công ty.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án có những trường hợp tuy có liên
quan đến hoạt động của công ty, mang bản chất của nội bộ công ty nhưng
không phải là tranh chấp thuộc khoản 3,điều 29 BLTTDS 2004 do không phải
là thành viên công ty, ví dụ như tranh chấp giữa thành viên công ty với người
quản lý công ty được thuê làm Giám đốc trong quan hệ hợp đồng lao động.
Ngoài ra, với quy định những tranh chấp này phải phát sinh từ việc thành lập,
hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách chuyển đổi hình thức tổ
chức công ty. Nhưng hiểu như thế nào là hoạt động của công ty thì chưa có sự
hướng dẫn cụ thể.

12

Với quy định cụm từ “liên quan đến việc thành lập, hoạt động…” nội
hàm nghĩa rất rộng, gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giữa án
kinh doanh thương mại với các loại án khác. Cụ thể, tranh chấp trong việc chi
trả lương cho giám đốc có phải là hoạt động của công ty hay không còn tùy
thuộc tranh chấp cụ thể. Có quan điểm cho rằng đây là tranh chấp trong quá
trình hoạt động của công ty. Vì chi trả lương thuộc hoạt động của công ty,
giám đốc là thành viên công ty nên thỏa mãn điều kiện được quy định tại
khoản 3,điều 29 BLTTDS 2004. Tuy nhiên, quan điểm thứ hai cho rằng mặc
dù việc chi trả lương thuộc hoạt động của công ty nhưng hoạt động này chịu
sự điều chỉnh của Luật lao động. Theo nguyên tắc, khi tranh chấp phát sinh

trong lĩnh vực chuyên ngành nào thì áp dụng theo sự điểu chỉnh của luật
chuyên ngành đó. Do đó, tranh chấp trên xác định là tranh chấp lao động.
Qua quá trình nghiên cứu, tổng hợp theo các phân tích ở trên, tác giả đưa
ra khái niệm về tranh chấp nội bộ công ty như sau: Tranh chấp nội bộ công
ty là những mâu thuẫn giữa các thành viên, các cơ quan quản lý công ty có
liên quan trong quan hệ nội bộ công typhát sinh trong quá trình thành lập,
tổ chức quản lý, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển
đổi hình thức tổ chức của công ty.
Trong thực tế, có một dạng tranh chấp trong quá trình thành lập, hoạt
động về các hợp đồng phát sinh trước khi công ty có đăng ký kinh doanh là
tranh chấp tiền công ty như hoạt động liên quan đến góp vốn, phân công công
việc để thành lập công ty vv. Trong trường hợp công ty được thành lập thì
xác định tranh chấp đó vẫn là tranh chấp nội bộ công ty, trong trường hợp
công ty không được thành lập thì xác định tranh chấp đó là tranh chấp hợp
đồng dân sự hay được gọi là tranh chấp tiền công ty [31, Điều 14].
1.2. Phân biệt tranh chấp nội bộ công ty với tranh chấp khác

13

So với những tranh chấp trong các lĩnh vực xã hội khác như lao động,
hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, tranh chấp nội bộ công ty có những
đặc điểm khác biệt. Cụ thể như:
Thứ nhất, về chủ thể: Chủ thể của quan hệ tranh chấp nội bộ công ty là
các thành viên công ty, các cơ quan quản lý công ty. Những chủ thể này thông
thường có tâm lý mong muốn xác định quan hệ ổn định, lâu dài trên cơ sở hợp
tác, tin cậy lẫn nhau khi tham gia hoạt động kinh doanh của công ty. Trong
quan hệ nội bộ công ty, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể luôn tương xứng
với nhau trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng với mục đích tối đa là lợi ích kinh
tế. Vì vậy, các tranh chấp phát sinh sẽ có nguy cơ đe dọa và ảnh hưởng xấu
đến quyền, lợi ích của các bên trong điều kiện lợi ích kinh tế của các bên phụ

thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau. Còn chủ thể trong tranh chấp hợp đồng dân sự
rộng hơn chủ thể tranh chấp nội bộ công ty; Chủ thể trong tranh chấp hợp
đồng thương mại thường là các thương nhân và những người hoạt động như
thương nhân; Chủ thể trong tranh chấp lao động thường là người lao động và
người dử dụng lao động.
Thứ hai, về nội dung, tính chất tranh chấp: Tranh chấp nội bộ công ty là
tranh chấp kinh doanh, thương mại do đó nội dung của tranh chấp nội bộ công
ty chủ yếu là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Bởi lẽ, mục đích cơ bản mà các chủ
thể mong muốn đạt tới khi tham gia hoạt động kinh doanh của công ty là lợi
nhuận hoặc đối tượng đầu tư. Do vậy, trong quá trình thực hiện xung đột về
lợi ích kinh tế là nội dung cơ bản của mọi tranh chấp nội bộ công ty. Trong
khi đó, nội dung tranh chấp của hợp đồng dân sự là các quan hệ dân sự (theo
nghĩa rộng) gồm quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản, thừa kế, …; Nội dung
tranh chấp của hợp đồng thương mại là các quyền và nghĩa vụ trong hoạt
động thương mại như mua bán hàng hóa, đại diện thương nhân, đại lý, …;

14

Nội dung tranh chấp của lao động là mối quan hệ lao động giữa người sử
dụng lao động và người lao động về tiền công, tiền lương, bảo hiểm, …
1.3. Phân loại tranh chấp nội bộ công ty với các tranh chấp khác
1.3.1. Căn cứ vào chủ thể tranh chấp
Căn cứ vào chủ thể tranh chấp thì tranh chấp nội bộ công ty được phân
thành:
Thứ nhất, tranh chấp giữa công ty (cơ quan quản lý đại diện cho công
ty)với các thành viên của công ty bao gồm các tranh chấp về phần vốn góp
của mỗi thành viên đối với công ty (phần vốn góp có thể bằng tiền, bằng hiện
vật hoặc bằng giá trị quyền sở hữu công nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số
cổ phiếu phát hành đối với mỗi Công ty CP; về quyền sở hữu một phần tài
sản, quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần

vốn góp vào công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức
của công ty.
Thứ hai, các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau gồm
các tranh chấp giữa các thành viên của công ty về trị giá tài sản góp vào công
ty; về chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công
ty hoặc cho người ngoài công ty; về việc chuyển nhượng cổ phiếu không ghi
tên và cổ phiếu có ghi tên; về mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành và trái
phiếu của Công ty CP hoặc về quyền sở hữu tài sản, quyền được chia lợi
nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của công ty
Nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành
viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó chỉ liên quan
đến các quan hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân sự, thì tranh chấp đó
không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Ví dụ như tranh chấp về
hợp đồng vay tiền giữa chủ tịch hội đồng quản trị và thành viên trong hội

15

đồng quản trị, cho dù về bản chất việc thành viên trong hội đồng quản trị vay
tiền của chủ tịch hội đồng quản trị với mục đích mua lại cổ phần của cổ đông
khác, tuy nhiên về phương diện pháp lý thì tranh chấp này được xác định là
tranh chấp dân sự.
1.3.2. Căn cứ vào nội dung tranh chấp
Căn cứ vào nội dung tranh chấp, các tranh chấp trong nội bộ công ty
được phân thành các loại tranh chấp, cụ thể:
Thứ nhất, tranh chấp về tư cách cổ đông, thành viên công ty: Các cổ
đông, thành viên thường tranh chấp với nhau vì cổ đông, thành viên thường tự
coi mình là cổ đông, thành viên sáng lập trong khi hoàn toàn không góp tiền
cho số cổ phần cam kết góp hoặc số vốn cam kết góp. Các cổ đông, thành
viên góp không đủ số cổ phần, số vốn góp đã đăng ký, nhưng vẫn yêu cầu

được coi là cổ đông với quyền và lợi ích như của một người đã góp đủ. Tranh
chấp phát sinh từ phương thức góp và tài sản góp vốn, như: Định giá tài sản
cao hơn giá trị thực tế; Không chuyển sở hữu tài sản góp vốn; Không thỏa
thuận với nhau trước về việc góp vốn và giá trị góp vốn bằng tài sản. Không
quy định về thời điểm hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng
phần vốn góp và tính hợp pháp của các hợp đồng chuyển nhượng.
Thứ hai, tranh chấp phát sinh từ quyết định của cơ quan quản lý công ty:
Tranh chấp về tư cách cổ đông, thành viên dẫn tới hệ quả là tất cả các quyết
định của đại hội đồng cổ đông, hội đồng thành viên sẽ trở thành đối tượng
tranh chấp. Các quyết định không công bằng, như: Quyết định ưu đãi cho
thành viên hội đồng quản trị trong việc mua cổ phần mới phát hành (số lượng,
giá); Quyết định ưu đãi cho cổ đông lớn dưới danh nghĩa là cổ đông chiến
lược; Quyết định ưu đãi cho người lao động; Quyết định không hợp pháp (cổ
đông, thành viên nắm đa số vốn tự ý quyết định). Không chấp nhận quyết
định của đại hội đồng cổ đông, hội đồng thành viên vì quyền lợi của mình

16

không được như mong đợi,cơ quan chủ quản không đồng ý với biểu quyết tán
thành của người đại diện mình nắm phần vốn nhà nước.
Thứ ba, tranh chấp về quyền được làm giám đốc, người đại diện theo
pháp luật (các chức danh quản lý, điều hành trong công ty) xảy ra trong các
trường hợp: Các nhóm cổ đông thuộc hội đồng quản trị thường muốn “người
của mình” làm giám đốc, gây nguy cơ mâu thuẫn trong quá trình tuyển chọn;
Cổ đông lớn, là chủ tịch và đồng thời muốn làm giám đốc. Do vậy, không
thay thế được (không loại ra khỏi hội đồng quản trị được, không bãi miễn
chức chủ tịch hội đồng quản trị được); hoặc đương sự không chấp nhận quyết
định bãi miễn của hội đồng quản trị (dù quyết định đó là hợp pháp). Không ký
thay đổi người đại diện theo pháp luật, do vậy người bị thay thế thường: Cất,
thu giữ con dấu của công ty, không đem sử dụng cho các văn kiện của công ty

phát hành; không bàn giao quyền quản lý điều hành công ty cho người mới
được bổ nhiệm; khiếu kiện, khiếu nại lên cơ quan nhà nước (có thẩm quyền
và không có thẩm quyền); hoặc yêu cầu thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh
doanh của công ty.
Thứ tư, tranh chấp tư cách thành viên, cổ đông doanh nghiệp: cổ
đông/thành viên không góp đủ vốn đã đăng ký nhưng yêu cầu được hưởng lợi
ích đầy đủ như các cổ đông đã góp đủ vốn. Tranh chấp phát sinh từ phương
thức góp và tài sản góp vốn: định giá tài sản cao hơn giá trị thực tế; không
chuyển sở hữu tài sản góp vốn; không thỏa thuận với nhau trước về việc góp
vốn và giá trị góp vốn bằng tài sản.
Thứ năm, tranh chấp về việc mua cổ phần chào bán của các công ty cổ
phần. Tranh chấp từ việc chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp và tính hợp
pháp của các hợp đồng chuyển nhượng liên quan. Tranh chấp về phương thức
quản lý, điều hành nội bộ trong doanh nghiệp. Tranh chấp liên quan tới việc
thủ tục tổ chức các cuộc họp đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, hội

17

đồng thành viên công ty. Tranh chấp về thẩm quyền thông qua các quyết định
quản lý nội bộ doanh nghiệp. Tranh chấp về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức giám đốc, người đại diện pháp luật của công ty.
1.4. Giải quyết tranh chấp nội bộ công ty và các phương thức giải quyết
tranh chấp nội bộ công ty
1.4.1. Giải quyết tranh chấp nội bộ công ty
Giải quyết tranh chấp nội bộ công ty theo nghĩa chung nhất có thể được
hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng,
các xung đột trong nội bộ công ty nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp
đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên công
ty và các chủ thể khác, bảo vệ trật tự kỷ cương của công ty.
Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa

chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lực
chon phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho mình. Việc lựa
chọn phương thức nào thường căn cứ vào một số yêu cầu như: Phương thức
đó có thể giải quyết nhanh chóng, thuận lợi tranh chấp xảy ra, không làm hạn
chế, cản trở các hoạt động kinh doanh không? Việc giải quyết bằng phương
thức đó có khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên
trong kinh doanh không? Giải quyết bằng phương thức đó có giữ được bí mật
kinh doanh, giữ được uy tín của các bên trên thương trường hay không? Đó
có phải là phương thức giải quyết kinh tế nhất (ít tốn kém nhất) hay không?
Tùy thuộc vào trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội và do
những ảnh hưởng của những đặc điểm về phong tục, tập quán, cơ chế giải
quyết tranh chấp thương mại được pháp luật của mỗi quốc gia được quy định
không giống nhau. Tuy nhiên xuất phát từ đặc trưng riêng của hoạt động kinh
doanh và nhu cầu điều chỉnh của pháp luật, việc giải quyết tranh chấp thương

×