LỜI NÓI ĐẦU.
Ở bậc Tiểu học môn Tiếng Việt có vò trí đặc biệt quan trọng. Để
học tốt môn Tiếng Việt nói chung và phân môn học vần nói riêng,
học sinh có cơ sở để tiếp thu và diễn đạt tốt các môn học khác. Nắm
vững được kiến thức Tiếng Việt và rèn luyện thành thạo các kỹ năng
đọc, nghe, nói, viết các em sẽ suy nghó mạch lạc, diễn đạt trong sáng,
có khả năng làm chủ được tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.
Cũng như các môn học khác, muốn học tốt phân môn học vần lớp
1. Trước hết mọi học sinh phải có lòng say mê, hứng thú học tập. Bên
cạnh đó giáo viên đặc biệt chú ý đến tâm sinh lí của học sinh cũng
như khả năng tiếp thu kiến thức của các em. Do vậy giáo viên phải
làm sao ngay từ những ngày đầu cắp sách đến trường các em phải
nhận biết sơ giản nhất những kiến thức cơ bản chữ cái ghi âm; tiếp
theo đọc, viết được các chữ cái ghi âm đó, tiến đến các em ghép và
đọc được vần, tiếng, từ ngữ và câu ứng dụng.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, mỗi học sinh có trình độ nhận
thức không giống nhau dẫn đến việc tiếp thu kiến thức không đồng
đều. Đối với bất kì một lớp học nào thì việc có nhiều đối tượng học
sinh như: giỏi, khá, trung bình, yếu vẫn là chuyện bình thường.
Vì thế để chất lượng giảng dạy các môn học nói chung phân môn
học vần nói riêng được tốt, đòi hỏi giáo viên đứng lớp phải quan tâm
và phải có biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng học sinh. Trong
thực tế giảng dạy lớp 1, tôi đã nghiên cứu thực hiện và đã đúc kết
Trang 1
thành đề tài: “Một số giải pháp góp phần phụ đạo học sinh yếu
phân môn học vần lớp 1”.
Đề tài này tôi đã bắt đầu nghiên cứu và thực hiện từ năm học
2003 – 2004 đến năm học 2004 –2005, tôi tiếp tục nghiên cứu thực
hiện và bổ sung thêm giải pháp.
Đề tài tôi nghiên cứu đã nêu nhiều ở sách báo và có nhiều giáo
viên viết thành sáng kiến kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm này rút ra
từ thực tế giảng dạy. Tuy nhiên ở đề tài này, tôi không nghiên cứu
hết các phân môn của môn Tiếng Việt mà chỉ đi sâu nghiên cứu ở
phân môn học vần lớp 1.
Trang 2
PHẦN 1: THỰC TRẠNG
Qua hai năm tích cực thực hiện công tác phụ đạo học sinh yếu,
bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường. Tôi theo dõi thấy các em học sinh
yếu phân môn học vần ở các năm như sau:
Năm
học
Só
số
Chưa đạt yêu cầu cơ bản Đạt yêu
cầu cơ bản
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
Học sinh lơ
là trong giờ
học
Đọc được
viết yếu
Phát âm
viết chưa
chính xác
Không đọc
được viết
được
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
Trước
khi áp
dụng
21 2
9,5%
2
9,5%
2
9,5%
1
4,8%
14
66,7%
Sau
khi áp
dụng
21 0
0%
1
4,8%
1
4,8%
0
0%
19
90,4%
Trang 3
Năm học: 2004 – 2005.
Năm
học
Só Chưa đạt yêu cầu cơ bản Đạt yêu
cầu cơ bản
trở lên
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
Học sinh lơ là
trong giờ học
Đọc được
viết yếu
Phát âm viết
chưa chính
xác
Không
đọc được
viết được
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Trước
khi áp
dụng
16 1
6,3
2
12,5
1
6,3
2
12,5
10
62,4
Từ 2 bảng số liệu trên ta thấy:
Năm học: 2003 – 2004 chỉ có 66,7% học sinh đạt yêu cầu cơ bản trở
lên còn lại 33,3% chưa đạt yêu cầu cơ bản.
Sau khi áp dụng đề tài này, tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt tăng
23,7%.
Đến năm học: 2004 – 2005 có 37,5% học sinh chưa đạt yêu cầu cơ
bản còn lại 62,4% đạt yêu cầu cơ bản.
Qua hai năm, trước khi áp dụng đề tài này, các em chưa đạt
yêu cầu cơ bản rất cao nhưng sau khi áp dụng đề tài số học sinh chưa
đạt yêu cầu cơ bản có giảm rõ rệt.
Qua tìm hiểu thực tế ở lớp, ở gia đình các em cho thấy nguyên nhân
dẫn đến hạn chế nêu trên là:
Đây là những năm đầu thực hiện chương trình thay sách giáo
khoa mới nên giáo viên còn không ít lúng túng, chưa có nhiều kinh
nghiệm; một phần do giáo viên chưa nắm thật vững những yêu cầu
Trang 4
về kiến thức, kỹ năng của bài dạy, giảng dạy còn mang tính dàn trải,
chưa theo dõi sát sao, xử lý chưa kòp thời những biểu hiện sa sút của
học sinh. Khi phát hiện học sinh hỏng kiến thức giáo viên không dám
mạnh dạn dừng bài dạy để giúp các em nắm lại kiến thức. Vì vậy các
em không hiểu bài, dễ mặc cảm, chán nản, không có hứng thú trong
học tập.
Đa số giáo viên khi đứng lớp có vận dụng đổi mới phương pháp
nhưng chưa đạt hiệu quả cao vì giáo viên còn ảnh hưởng phần nào
thói quen nói nhiều hay lặp lại câu trả lời của học sinh; nhận xét thay
cho học sinh. Chính vì lẽ đó mà còn hạn chế khả năng phát triển của
học sinh.
Tổ chức phụ đạo còn chung chung không có biện pháp cụ thể
cho từng đối tượng học sinh nên chưa hạn chế tối đa số lượng học sinh
yếu phân môn học vần.
Một số phụ huynh học sinh có điều kiện kinh tế khó khăn; nhà
xa hoặc thấy con mình học yếu còn tư tưởng: “ Năm nay học không
nổi năm sau ở lại học lớp 1 cho cứng” Vì vậy họ không chòu khó dành
thời gian đưa con đi học cũng như dạy con học ở nhà từ đó dần dần
các em học yếu.
Đa số cha mẹ các em học sinh đều làm nghề nông ít có thời
gian quan tâm đến việc học hành của con em mình. Bên cạnh đó một
số phụ huynh chưa nắm được nội dung chương trình sách giáo khoa
mới đặc biệt là phương pháp hướng dẫn các em học ở nhà.
Trang 5
Đa số nhà các em ở quá xa trường, đường đi lại khó khăn.
Ngay từ đầu năm học hai bên đường đi đã bò xáng múc chuẩn bò làm
lộ nên các em không thể tự đến trường được mà cha mẹ phải đưa đón
các em hàng ngày. Một số gia đình thuộc diện nhà nghèo cha mẹ lo
đi làm mướn đôi khi không đưa đón các em được dẫn đến các em
phải nghỉ học .
Lứa tuổi các em còn ham chơi hơn ham học, chưa hiểu được
tầm quan trọng của việc học. Điều quan trọng hơn nữa một số em
chưa qua lớp mẫu giáo nên muốn hòa nhập với các bạn của mình các
em cũng phải cố gắng thật nhiều… Chỉ việc cầm phấn, bút chì, bảng
con cũng mất không ít thời gian. Các em đang ở lứa tuổi hiếu động
khả năng chú ý tập trung không lâu.
Bên cạnh đó còn một số em hay quên, mới dạy thì đọc được,
viết được nhưng khi về nhà hay qua một hôm sau thì không nhớ hoặc
nhớ lẫn lộn dẫn đến trình trạng đọc sai, viết sai.
Các em hay đọc vẹt, bắt chước rất tốt và nhanh. Các em có thể
đọc lau làu hoặc nhìn tranh đọc nhưng chưa chắc các em nhớ được
mặt chữ. Nếu giáo viên không phát hiện thì sau một thời gian các em
sẽ hỏng kiến thức.
Còn một số học sinh học khá do bệnh nghỉ học vài ngày cũng
mất kiến thức căn bản.
Một số em hay lơ là thiếu tập trung thường nhận dạng, phát âm
lẫn lộn các âm, vần,… Có đặc điểm gần giống nhau về cách đọc, cách
viết.
Trang 6
Trang 7
PHẦN 2: GIẢI PHÁP:
2.1 Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn trở ngại về
mặt tâm lí khi mới vào lớp 1.
Sự chuyển tiếp từ hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo ở
lứa tuổi Mầm non sang hoạt động học là hoạt động chủ đạo của học
sinh Tiểu học, làm cho các em gặp những khó khăn về mặt tâm lí.
Khi đến tuổi đi học trẻ thường háo hức, chờ đợi, thích được làm “học
sinh”, thích đến trường, đến lớp. Tuy nhiên tâm lí này chưa được bền
vững khi gặp phải các khó khăn trong học tập, các em dễ chuyển
sang chán học,…vv,…Vì vậy giúp các em khắc phục vượt qua các khó
khăn trở ngại về tâm lí ở đầu lớp 1 sẽ tạo điều kiện cho các em vươn
lên đạt kết quả trong học tập.
Để làm tốt điều đó, tôi luôn gần gũi, chăm sóc uốn nắn các em,
tạo cho các em cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Vì lứa
tuổi các em là hiếu động, khả năng tập trung chú ý chưa cao. Thật là
một cực hình nếu các em phải ngồi im không nói, chẳng cựa quậy,
cấm động đậy. Vì cái miệng lúc nào cũng huyên thuyên, cái tay khó
mà để yên một chỗ, cái óc chẳng thể thiếu điều để suy nghó. Vì vậy,
tôi cần hướng tính năng động của các em vào hoạt động có mục đích
để giờ học đạt hiệu quả.
Trong giảng dạy trước đây, chủ yếu tôi đặt câu hỏi cho từng
học sinh trả lời, không cho trả lời tập thể, hạn chế đồng thanh. Vì vậy
một số em không được gọi thì không có việc để làm. Những em này
không tập trung suy nghó, không khí lớp học không sôi nổi cho nên tôi
Trang 8
nghó phải làm sao cho các em vui mà học, chơi mà học, vừa học vừa
chơi. Chơi là hình thức, vui là tính chất, học là mục đích cuối cùng.
Muốn được như vậy thì hình thức cung cấp kiến thức, kó năng cho học
sinh phải phong phú không chỉ khô khan: cô giảng trò nghe, cô hỏi trò
trả lời mà cần phải tổ chức cho từng học sinh được tham gia hoạt
động.
Cụ thể ở bài 55: Ôn tập các vần vừa học có kết thúc bằng âm
n. Thay vì tôi đặt câu hỏi cho học sinh nêu những vần đã học có âm
cuối là n thì tôi hình thành bảng ôn rồi cho học sinh luyện đọc. Tôi đã
uyển chuyển biến cái mệnh lệnh khô khan ấy bằng trò chơi truyền
điện: đầu tiên tôi nêu một vần có âm cuối n rồi gọi một học sinh khác
em này có nhiệm vụ nêu tiếp một vần khác có âm cuối là n nhưng
không được trùng với vần trước và không được chậm quá 5 giây. Nếu
xong em có quyền gọi bạn khác nêu. Cứ như thế cho đến lúc tôi thấy
đủ số vần thì dừng lại. Hình thức vui chơi này, tuy chỉ từng em nói
nhưng vẫn gây được hào hứng và sôi nổi vì tất cả các em trong tư thế
chuẩn bò đón nhận luồng điện truyền đến. Các em còn hứng thú vì
đây không phải là lệnh của cô giáo mà là của bạn bè và bản thân các
em được bạn gọi và sau đó em được gọi bạn.
Để khuyến khích các em mạnh dạn phát biểu ý kiến ngoài
việc khen ngợi tuyên dương những ý đúng, ý sáng tạo, tôi cũng không
bát bỏ những ý kiến chưa hợp lí của các em một cách thô bạo mà tôi
luôn nhẹ nhàng, hóm hỉnh dẫn dắt các em phát biểu vào trọng tâm
vấn đề. Còn đối với những học sinh yếu hay nhút nhát tôi vẫn chấp
Trang 9
nhận những ý kiến mà các em lặp lại của bạn hay của cô. Tôi thiết
nghó từ từ động viên các em phát biểu một cách độc lập. Đối với học
sinh lớp 1 giáo viên nên khen ngợi kòp thời khi các em hoàn thành
nhiệm vụ đồng thời động viên các em chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Tránh việc đơn thuần chỉ dùng điểm để thưởng hay phạt các em mà
cần động viên khuyến khích là chính.
Tôi luôn suy nghó tìm ra nhiều cách tuyên dương, khen ngợi kòp
thời khi các em có dấu hiệu tiến bộ; như tặng hoa mỗi khi các em
ngoan hay học tiến bộ sau đó cuối tuần tổng kết lại, em nào có nhiều
bông hoa tôi tuyên dương khen ngợi trước lớp nhiều lần như thế. Học
sinh lớp tôi có tiến bộ rất nhiều trong học tập đặc biệt là những học
sinh yếu.
Việc tạo cho các em một không khí học tập nhẹ nhàng, vui tươi
thoải mái, cho các em cảm giác mỗi ngày đến trường là 1 ngày vui
với nhiều trò chơi học tập. Điều đó đã góp phần quan trọng giúp các
em khắc phục vượt qua những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí khi
mới bước vào lớp 1.
2.2 Đổi mới phương pháp dạy học nhằm hình thành khả năng tự
học ở học sinh.
Theo cách dạy truyền thống các em đến trường chỉ nhận được
lượng kiến thức duy nhất từ thầy cô. Những kết luận bài học đều do
thầy cô cung cấp. Cách dạy học như thế tạo cho học sinh tiếp nhận
kiến thức một cách thụ động. Chính vì thế chưa hình thành khả năng
tự học ở học sinh.
Trang 10
Do đó, muốn hình thành cho học sinh kó năng tự học thì tôi
phải lựa chọn, phối hợp nhiều hình thức giảng dạy như: cá nhân,
nhóm, cả lớp. Tôi luôn nghiên cứu bài dạy đề ra mục tiêu cho sát, rõ
về kiến thức, kó năng, thái độ không chung chung quá nặng so với
trình độ học sinh.
Xây dựng cho mình kế hoạch bài dạy sát với trình độ của học
sinh, làm sao cho tất cả học sinh đều làm việc như vậy các em sẽ tập
trung chú ý vào bài giảng của thầy cô.
Tôi phải chăm chút từng đối tượng học sinh nhất là học sinh yếu
kém theo hướng cá thể hóa dạy học. Tôi thường xuyên đi đến từng
nhóm, từng học sinh để giúp đỡ các em, mối thân thiện sẽ hình thành
từ đây và các em sẽ bộc lộ những suy nghó, hiểu biết của mình với
giáo viên. Tôi luôn yêu cầu cao đối với bản thân và xác đònh các yếu
tố quyết đònh sự thành công của giờ học là phương pháp dạy của
người thầy và học của trò. Vì vậy, tôi luôn rèn luyện cho mình khi
dạy không nói thừa cũng như không làm thừa thao tác, câu hỏi phải
phù hợp với từng đối tượng học sinh. Muốn làm được điều này, trước
tiên tôi xây dựng kế hoạch bài dạy, trong việc xây dựng kế hoạch bài
dạy tôi quan tâm nhất là xác đònh thật kó mục tiêu của bài(phạm vi
kiến thức cần được cung cấp) tránh giảng thừa cũng như giảng thiếu
kiến thức cho học sinh. Sau khi xác đònh được phạm vi kiến thức, để
kiến thức bài giảng thành kiến thức của học sinh thì điều quan trọng
thứ hai là phải lựa chọn phương pháp làm sao cho phù hợp để cho tất
Trang 11
cả học sinh trong lớp hiểu được (đặc biệt chú ý đến đối tượng học
sinh yếu).
Ngoài ra, tôi cần phải tạo không khí lớp học sinh động từ khâu
giới thiệu bài, hình thành bài mới như thế nào để lôi cuốn các em
tham gia hoạt động một cách tích cực.
Tôi cũng rèn cho các em biết cách sắp xếp và sử dụng đồ dùng
học tập như thế nào cho nhanh, chính xác. Cụ thể ở Tiết 1 môn
học vần tôi hướng dẫn cho các em cách sắp xếp đồ dùng học tập thế
nào cho nhanh, chính xác: sách giáo khoa, bảng con, bảng cài để
thành chồng.
Vì đầu tiết học tôi kiểm tra kiến thức cũõ ở sách giáo khoa, rồi
viết ở bảng con, khi sang bài mới giáo viên cho học sinh hình thành
vần mới ở bảng cài. Sau đó viết bảng con và cuối cùng đến đọc sách
giáo khoa. Sau mỗi lần sử dụng cho học sinh đặt xuống phía dưới
cùng như thế tạo cho các em thói quen ngăn nắp sử dụng không mất
thời gian.
2.3 Chia đối tượng học sinh yếu ra thành từng nhóm nhỏ có đặc
điểm gần giống nhau.
Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi thường xuyên theo dõi
kết quả học tập của các em với nhiều hình thức kiểm tra để nắm được
số lượng học sinh yếu phân môn học vần. Từ đó có phương pháp phụ
đạo cho thích hợp đối với từng đối tượng. Nếu giáo viên không phát
hiện kòp thời thì các em dần dần hỏng kiến thức rồi các em sẽ chán
học.
Trang 12
Sau khi nắm được đối tượng học sinh yếu phân môn học vần,
tôi không áp dụng phụ đạo một cách chung chung cho tất cả các đối
tượng mà tôi tiến hành phân chia đối tượng học sinh yếu ra thành
nhiều nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau và có phương pháp phụ
đạo cho từng nhóm.
- Nhóm 1: Học sinh lơ là thiếu tập trung trong giờ học.
Các em này có khả năng tiếp thu được kiến thức. Nhưng các em còn
ham chơi và hiếu động nên không tập trung trong giờ học dẫn đến các
em chưa nắm được kiến thức. Cụ thể đối tượng này lớp tôi có em: Võ
Văn Đại.
- Nhóm 2: Đọc được nhưng viết yếu.
Các em có khả năng đọc được nhưng do chưa nắm được qui trình,
cách viết. Có khi các em nhìn chữ thì đọc được nhưng khi giáo viên
đọc thì các em không nhớ cấu tạo, qui trình viết hoặc nhớ lẫn lộn nên
không viết được hay viết sai đối tượng này có:
1. Trần Văn Hoài
2. Nguyễn Dương
- Nhóm 3: Phát âm, viết chưa chính xác các âm, tiếng, từ đòa phương.
Đây là do ảnh hưởng chung lối phát âm của đòa phương dẫn đến các
em viết sai cụ thể là: r – g; tr – ch có em: Nguyễn Thò Kim Như.
- Nhóm 4: Không đọc được, không viết được.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tư duy các em phát triển
chậm chưa qua học lớp mẫu giáo, chưa được gia đình quan tâm cụ thể
lớp tôi có:
Trang 13
1. Lê Minh Luôn
2. Nguyễn Thò Ngọt
2.4 Tiến hành phụ đạo từng nhóm nhỏ.
2.4.1 Đối với nhóm 1: Các em lơ là thiếu tập trung.
Để các em có ý thức tốt tập trung nghe giảng. Ở giờ học trên
lớp giáo viên cần thường xuyên nhắc nhở quan tâm đến các em, gọi
các em phát biểu, đọc bài với câu hỏi vừa sức với các em. Cần động
viên khen ngợi khi thấy các em có tiến bộ. Bên cạnh đó giáo viên
cần tạo cho không khí lớp học thoải mái bằng các hình thức trò chơi,
câu đố có liên quan đến bài học.
Khi dạy bài: O – C giáo viên có thể nêu câu đố nhỏ
Nét tròn em đọc chữ O
Khuyết đi một nữa sẽ cho chữ gì? (C )
Không dấu trời rét nằm cong (CO)
Thêm huyền bay lả trên đồng cỏ xanh (CÒ)
Có hỏi xanh tươi mượt mà
Trâu bò vui gặm nhẩn nha từng đàn (CỎ)
Học sinh suy nghó rồi ghi kết quả vào bảng con, giáo viên nhận
xét khen ngợi những học sinh giải đúng.
Hoặc trò chơi mà các em thích.
Ví dụ: Trò chơi hái hoa
Ở mỗi bông hoa giáo viên có ghi âm vần, tiếng, từ mới học hay
đã học. Sau đó cho một số em lên bảng hái và đọc to cho cả lớp nghe.
Trang 14
Giáo viên nhận xét khen ngợi những em đọc đúng động viên khuyến
khích những em đọc chưa được cố gắng ở lần sau.
Đến cuối tiết học tôi quan tâm đến đối tượng này xem các em
có nắm được kiến thức hay chưa? Nếu chưa nắm được tôi cần chú ý
nhiều hơn ở tiết phụ đạo cho đến khi các em nắm được kiến thức mới
thôi. Dần dần sẽ thúc đẩy được động cơ học tập của các em, nếu
chúng ta không quan tâm, các em sẽ chán học dẫn đến mất căn bản
không nắm được kiến thức.
b/ Đối với nhóm 2: Đọc được nhưng viết yếu.
Để khắc phục được tình trạng này tôi cần phải lưu ý các em
nhiều hơn trong tiết học vần lúc luyện viết ở bảng, vở tập viết. Ngay
từ những bài đầu cần cho các em nắm vững thuật ngữ: “Dòng kẻ”;
“Ô li” tên gọi các nét, cách viết các nét một cách chắc chắn thì khi
vào dạy môn tập viết chữ cái rất thuận lợi. Một nét có độ cao mấy ôli
bắt đầu và kết thúc ở dòng kẻ nào. Giáo viên chấm một chấm nhỏ ở
điểm đặt bút và điểm kết thúc, chỉ đường lia bút để cho các em viết
theo. Học sinh nắm được cách viết các nét thì dễ dàng nắm được cấu
tạo chữ cái, viết tốt được chữ cái thì việc nối các chữ cái thành chữ thì
không mấy khó.
Chẳn hạn khi hướng dẫn học sinh viết chữ h, giáo viên chấm một
chấm nhỏ lên bảng có kẻ sẵn ôli ở dòng thứ hai từ dưới đếm lên làm
điểm đặt bút và chấm một chấm nữa ở dòng kẻ thứ 5 chỉ độ cao 5 ôli
và chấm một điểm nữa ở dòng kẻ 2 chỉ điểm kết thúc. Giáo viên
dùng viết chỉ đường lia bút cho học sinh, viết theo bắt đầu từ điểm đặt
Trang 15
bút, viết nét khuyết trên 5 ôli sau đó viết nét móc 2 đầu kết thúc
dòng kẻ thứ 2
Nguyên nhân dẫn đến các em viết yếu là do các em chưa nắm
được cấu tạo và qui trình viết các nét mà tôi không thể hướng dẫn ở
lớp vì không có thời gian cho đến khi phụ đạo tôi sẽ hướng dẫn lại cụ
thể cho các em này. Vì có nắm được các nét cơ bản thì các em sẽ viết
được các chữ rõ ràng, đúng trình tự tiến đến các em viết vần, tiếng, từ
nhiều lần vào vở để các em ghi nhớ.
c/ Đối với nhóm 3: Học sinh viết âm lẫn lộn: r – g; tr – ch.
Để hạn chế phần nào tình trạng học sinh phát âm viết lẫn lộn tiếng
từ có mang r – g; tr – ch đòi hỏi giáo viên phải phát âm chính xác.
Ngoài ra trong lời nói hàng ngày chúng ta cũng không quên đảm bảo
cho các em nghe những lời nói chuẩn mực. Trong các tiết học ở lớp
giáo viên cần chỉnh sửa kòp thời khi các em phát âm cũng như khi các
em viết.
Nếu phát âm sai thì tôi cho em đó phát âm lại, khi học sinh phát âm
đúng thì cho các em viết. Khi viết, giáo viên cần lưu cho các em qua
Trang 16
giọng đọc. Nếu đọc các âm, tiếng, từ có mang r – tr thì giáo viên đọc
nhấn giọng và uốn lưỡi lên, có thể lập lại nhiều lần cho học sinh khắc
sâu.
Ngoài ra giáo viên phân cho học sinh viết bằng cách nghe nhấn
giọng và uốn lưỡi lên thì bắt đầu bằng nét xiên ( r - tr; rổ, trẻ, ….).
Nếu giọng đọc bình thường thì bắt đầu bằng nét cong( g – ch; gỗ,
chó )
Khi về nhà cho các em tìm thêm tiếng từ có mang r – g; tr – ch để
hôm sau đọc lên cho cả lớp nghe giáo viên theo dõi nhận xét sửa sai
cho học sinh.
d/ Đối với nhóm 4: Đọc không được viết không được.
Đây là một trong những đối tượng tương đối khó, giáo viên cần phải
tốn nhiều thời gian và công sức nhất, khi học chính khóa cũng như lúc
học phụ đạo.
Giáo viên cần thường xuyên ôn tập và hệ thống hóa kiến thức kỹ
năng cho các em. Khi chưa nắm rõ kiến thức các em thường ghi nhớ
một cách máy móc. Bên cạnh đó giáo viên cần khéo léo sắp xếp cho
các em học sinh yếu ngồi cạnh một học sinh khá tạo điều kiện cho
các em có thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Sự có mặt kòp thời của
giáo viên trước những khó khăn của học sinh yếu khi làm bài có tác
dụng nâng cao niềm tin cho các em trong học tập.
Trong tiết học, giáo viên cần cho các em phát âm nhiều lần để các
em nhận dạng được âm cũng như vần mình đã học một cách chính
Trang 17
xác rồi viết vào bảng. Khi đến tiết phụ đạo củng cố lại cho các em
thuộc các nhóm âm vần có điểm giống nhau để các em dễ phân biệt.
-Nhóm chữ cái có nét cong: e, o, a, ô, ơ, g, …
-Nhóm có nét khuyết: h, y, k, l, b.
Khi dạy giáo viên có thể dùng thẻ chữ để cho các em nhận dạng,
phát âm. Nếu phát âm đúng âm nào thì cho viết ngay âm đó vài lần
cho học sinh nắm.
Ở tiết phụ đạo, tôi cho các em viết các nét có điểm giống nhau mỗi
nét một dòng.
-Nhóm có nét thẳng, nét đứng, nét xiên, nét ngang, nét hất :
-Nhóm có nét móc:
-Nhóm có nét khuyết:
-Nhóm có nét thắt:
Khi các em viết thành thạo các nét, các âm cơ bản, tiến hành cho
các em viết các âm, vần có đặc điểm gần giống nhau mỗi âm, vần từ
1- 2 dòng vừa viết vừa đọc nhẩm cho ghi nhớ.
Để tiết học đạt hiệu quả không mất nhiều thời gian, khi dạy tôi linh
động ghép các nhóm có đặc điểm gần giống nhau để dễ theo dõi và
sửa sai cho học sinh cũng như bao quát được các nhóm.
Nhóm 1 ghép với nhóm 2.
Nhóm 3 ghép với nhóm 4.
Đối với các em học sinh yếu, khi viết tiếng thành chữ dễ sai phần
vần. Do đó khi đánh vần các em chỉ đọc được tên âm đầu, tên vần,
Trang 18
tên dấu thanh mà ít lập lại cấu tạo vần, giáo viên lầm tưởng các em
đã nắm được cấu tạo vần.
Ví dụ: bờ- ong- bong- sắc- bóng; sờ- an- san- huyền- sàn.
Nhưng các em không biết phải viết ra sao, các em còn lúng túng ở
chỗ này. Vậy khi đọc cho các em viết tiếng “ Toán” học sinh có thể
viết thành toa hay tón. Để khắc phục chỗ này tôi cho các em yếu
đánh vần tờ-o-a-nờ-oan; tờ- oan – toan – sắc – toán. Vì thế khi các
em viết các em không viết sai phần vần nữa.
2.6 Kết hợp với cha mẹ học sinh.
Sau một tháng giảng dạy, tôi nắm được một số học sinh yếu môn
Tiếng Việt của học sinh lớp mình nói chung phân môn học vần nói
riêng. Ngoài việc họp tất cả cha mẹ phụ huynh học sinh, tôi tiến hành
mời cha mẹ học sinh theo từng thời điểm của từng nhóm để trao đổi
cặn kẽ về đặc điểm của từng nhóm học sinh. Từ việc trao đổi từng
nhóm riêng lẻ tôi và phụ huynh học sinh có điều kiện bàn bạc để tìm
ra nhiều biện pháp khắc phục những hạn chế của các em.
Hàng tháng giáo viên cần đến thăm gia đình học sinh để báo cáo kết
quả học tập cũng như những biểu hiện thất thường của học sinh để
cho phụ huynh nắm mà có biện pháp cụ thể đối với các em.
Trang 19
PHẦN 3: KẾT QUẢ
Qua hai năm nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp để phụ
đạo học sinh yếu phân môn học vần lớp 1 vào lớp mình phụ trách.
Tôi nhận thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em biết đọc các
âm, vần, tiếng, từ và biết tìm tiếng mới, từ mới. Những em hay lơ là
thiếu tập trung trong giờ học nay các em đã hào hứng tham gia một
cách sôi nổi, càng ngày các em yếu kém thể hiện rõ nét tiến bộ của
mình. Theo thống kê kết quả 2 năm thực hiện.
Năm học 2003 – 2004
Năm học
Só
số
Chưa đạt yêu cầu cơ bản Đạt yêu
cầu trở lên
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
Học sinh lơ
là trong
giờ học
Đọc được
viết yếu
Phát âm
viết chưa
chính xác
Không
đọc được
viết được
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
Trước khi
áp dụng
21 2
9,5%
2
9,5%
2
9,5%
1
4,8%
14
66,7%
Sau khi
áp dụng
21 0
0%
1
4,8%
1
4,8%
0
0%
19
90,4%
Trang 20
Năm học: 2004 – 2005
Năm
học
Só
số
Chưa đạt yêu cầu cơ bản Đạt yêu
cầu trở lên
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
Học sinh lơ
là trong giờ
học
Đọc được
viết yếu
Phát âm
viết chưa
chính xác
Không đọc
được viết
được
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
Trước
khi áp
dụng
16 1
6,3%
2
12,5%
1
6,3%
2
12,5%
10
62,4%
Sau khi
áp dụng
(GKHII)
16
0
0%
1
6,3%
0
0%
0
0%
15
93,7%
Từ các bảng số liệu trên cho ta thấy qua hai năm nghiên cứu và thực
hiện số học sinh đạt yêu cầu cơ bản tăng, số học sinh chưa đạt yêu
cầu cơ bản giảm.
- Số học sinh đạt yêu cầu cơ bản tăng.
Năm học: 2003 – 2004 tăng 66,7% -> 90,4%.
Năm học: 2004 – 2005 (tính đến giữa học kì II) tăng 62,4 -> 93,7%.
- Số học sinh chưa đạt yêu cầu cơ bản giảm.
Năm học: 2003 – 2004.
- Học sinh lơ là trong giờ học giảm từ: 9,5% -> 0%.
- Học sinh đọc được viết yếu giảm từ: 9,5% -> 4,8%.
Trang 21
- Học sinh phát âm, viết chưa chính xác giảm từ: 9,5% -> 4,8%.
- Học sinh không đọc được viết được giảm từ:4,8 -> 0%.
Năm học : 2004 – 2005 (Tính đến giữa học kì II).
- Học sinh lơ là trong giờ học giảm từ: 6,3% -> 0%.
- Học sinh đọc được viết yếu giảm từ: 12,5% -> 6,3%.
- Học sinh phát âm, viết chưa chính xác giảm từ: 6,3% -> 0%.
- Học sinh không đọc được viết được giảm từ:12,5 -> 0%.
Đặc biệt các em rất tự tin, hứng thú trong học tập. Điều này
cho ta thấy một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu phân môn học vần
mang lại kết quả tương đối khả quan. Cụ thể em Lê Minh Luôn vào
đầu năm học, em rất nhút nhát hay trốn học nay em có tiến bộ rất
nhiều có thể tự học được bài.
Trang 22
PHẦN 4: KẾT LUẬN
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1, bản thân tôi nhận thấy
muốn nâng cao hiệu quả việc phụ đạo học sinh yếu phân môn học
vần. Thì giáo viên phải có tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong công
tác giảng dạy,thương yêu gần gũi với học sinh. Bên cạnh đó ngay từ
những ngày đầu học sinh cắp sách đến trường, Giáo viên cần phải
giúp các em khắc phục vượt qua những khó khăn, trở ngại về mặt tâm
lí khi mới vào lớp 1…Tạo được cho các em sự thích thú khi đi học, rồi
giáo viên tiến hành đổi mới phương pháp dạy học nhằm hình thành
khả năng tự học của học sinh. Sau đó giáo viên thường xuyên theo
dõi kết quả học tập của học sinh để biết được số lượng học sinh yếu
phân môn học vần. Sau khi biết được số lượng học sinh yếu phân
môn học vần, giáo viên tiến hành chia đối tượng học sinh yếu ra từng
nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau, mà lựa chọn phương pháp
phụ đạo thích hợp cho từng nhóm.
Một số biện pháp hỗ trợ để góp phần phụ đạo học sinh yếu
phân môn học vần lớp 1 thành công đó là thường xuyên kết hợp với
cha mẹ của các em để báo cáo kòp thời kết quả học tập cũng như
những thay đổi của các em trong quá trình học tập mà nhắc nhở giáo
dục các em.
Đề tài mà tôi nghiên cứu không đi sâu vào các phân môn
Tiếng Việt mà chỉ nghiên cứu ở phân môn học vần lớp 1. Đề tài này
có thể áp dụng với các lớp 1 ở trường Tiểu học Tân Hòa B nói riêng
và lớp 1 thuộc các trường Tiểu học trong huyện Tân Thạnh nói
Trang 23
chung, nhằm góp phần hạn chế phần nào tình trạng học sinh yếu
kém, phân môn học vần ở lớp 1.
Trang 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Lục Thò Nga: “ Để thúc đẩy động cơ học tập của học sinh”.
Tạp chí giáo dục số 9 chuyên đề q 4/2002.
2.Tiến só : Nguyễn Thò Qúi : “Tăng cường hoạt động của học
sinh trên lớp”- Thế giới trong ta chuyên đề 18+19 tháng 03-09/2003.
3. Tiến só Bùi Văn Sơm –Hướng dẫn CBQL trường học và GV
viết sáng kiến kinh nghiệm.
3.Vũ Khắc Tuân : “Dạy Tiếng Việt ở các lớp có học sinh yếu
kém môn Tiếng Việt” Thế giới trong ta chuyên đề 20 tháng 10 năm
2003.
4.Vũ Khắc Tuân : “Trò chơi học âm vần Tiếng Việt” Nhà xuất
bản giáo dục năm 2003.
Trang 25