Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Phát triển du lịch cộng đồng tại làng nghề gốm phù lãng, huyện quế võ, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 122 trang )

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ii
DANH MỤC HÌNH iii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 5
1.1. Cơ sở lý luận 5
1.1.1. Cơ sở lý luận về du lịch cộng đồng 5
1.1.2. Cơ sở lý luận về du lịch làng nghề truyền thống 11
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 23
1.2.1. Trên thế giới 25
1.2.2. Ở Việt Nam 27
1.2.3. Làng nghề gốm Phù Lãng 29
1.3. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu 30
1.3.1. Quan điểm nghiên cứu 30
1.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 31
CHƢƠNG 2: CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TẠI
LÀNG GỐM PHÙ LÃNG 34
2.1. Giới thiệu khái quát về làng gốm Phù Lãng 34
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 34
2.1.2. Điều kiện tự nhiên 36
2.1.3. Điều kiện xã hội 37
2.2. Các điều kiện phát triển du lịch cộng đồng tại làng gốm Phù Lãng 38
2.2.1. Tài nguyên du lịch 39
2.2.2. Khả năng cung ứng các dịch vụ du lịch 60
2.2.3. Khả năng tiếp cận điểm du lịch 66


2.2.4. Công tác quảng bá du lịch 67
2.2.5. Chính sách phát triển du lịch của địa phƣơng 69
2.2.6. Thái độ và khả năng tham gia của cộng đồng địa phƣơng 72
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI LÀNG GỐM PHÙ
LÃNG 75
3.1. Thực trạng hoạt động du lịch của tỉnh Bắc Ninh 75
3.1.1. Khách du lịch 75
3.1.2. Các tuyến, điểm du lịch của tỉnh Bắc Ninh 79
3.1.3. Doanh thu du lịch 79
3.2. Thực trạng hoạt động du lịch của làng gốm Phù Lãng 80
3.2.1. Khách du lịch 80
3.2.2. Các tuyến, điểm du lịch tại làng gốm Phù Lãng 84
3.2.3. Doanh thu du lịch 84
3.3. Đánh giá tác động của hoạt động du lịch 86
3.3.1. Tác động đối với cộng đồng 86
3.3.2. Tác động đối với việc bảo tồn giá trị của làng nghề 87
3.3.3. Tác động đối với môi trƣờng 87
CHƢƠNG 4 : ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG
ĐỒNG TẠI LÀNG GỐM PHÙ LÃNG 90
4.1. Định hƣớng 90
4.1.1. Cơ sở xây dựng định hƣớng 90
4.1.2. Các định hƣớng phát triển 92
4.2. Một số giải pháp phát triển du lịch cộng đồng 92
4.2.1. Giải pháp về vốn, đầu tƣ và quảng bá sản phẩm 95
4.2.2. Giải pháp về đầu ra – tiêu thụ sản phẩm 97
4.2.3. Giải pháp về nguồn nhân lực 98
4.2.4. Giải pháp về liên kết và hợp tác 100
4.2.5. Giải pháp về bảo vệ môi trƣờng 100
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105

PHỤ LỤC
i
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Tên cụm từ
CĐĐP:
Cộng đồng địa phƣơng
DLCĐ:
Du lịch cộng đồng
LNTCTT:
Làng nghề thủ công truyền thống
UBND:
Ủy ban nhân dân















ii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Đặc trƣng về hình thái, tính chất một số sản phẩm gốm Phù Lãng 52
Bảng 2.2. Đối sánh gốm Phù Lãng với gốm Bát Tràng 53
Bảng 2.3. Số lƣợng cơ sở lƣu trú du lịch tỉnh Bắc Ninh (2004-2013) 62
Bảng 2.4. Sự phân bố các cơ sở lƣu trú ở Bắc Ninh (đến 31/12/2013) 63
Bảng 2.5. Phân loại cơ sở lƣu trú du lịch tỉnh Bắc Ninh 63
Bảng 2.6. Bảng tổng hợp kinh phí quảng bá du lịch (2001 – 2010) 68
Bảng 2.7. Thái độ của CĐĐP đối với khách du lịch 73
Bảng 2.8. Khả năng tham gia của Cộng đồng địa phƣơng 73
Bảng 3.1. Lƣợng khách du lịch đến du lịch Bắc Ninh giai đoạn 2001 – 2013 75
Bảng 3.2. Cơ cấu thị trƣờng khách du lịch quốc tế đến Bắc Ninh phân theo thị
trƣờng (giai đoạn 2009 – 2013) 76
Bảng 3.3. Khách du lịch quốc tế đến Bắc Ninh (giai đoạn 2001 – 2013) 77
Bảng 3.4. Cơ cấu thị trƣờng khách du lịch quốc tế đến Bắc Ninh phân theo mục
đích chuyến đi (Giai đoạn 2009 – 2013) 77
Bảng 3.5. Khách du lịch nội địa đến Bắc Ninh (giai đoạn 2001 – 2013) 78
Bảng 3.6. Cơ cấu thị trƣờng khách du lịch nội địa đến Bắc Ninh phân theo mục đích
chuyến đi (Giai đoạn 2009 – 2013) 78
Bảng 3.7. Doanh thu từ dịch vụ du lịch tỉnh Bắc Ninh từ 2010 - 2013 80
Bảng 3.8. Số lƣợng du khách đến Phù Lãng 81
Bảng 3.9. Nguồn thông tin du khách đƣợc biết về làng gốm Phù Lãng 82
Bảng 3.10. Phàn nàn của khách du lịch về các điều kiện ở làng gốm Phù Lãng 83
Bảng 3.11. Doanh thu từ sản phẩm gốm Phù Lãng 2009 - 2013 85
Bảng 3.12. Ý kiến của ngƣời dân về lợi ích của du lịch 86
Bảng 3.13. Môi trƣờng làng nghề gốm Phù Lãng 88


iii
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Sơ đồ các công đoạn chính sản xuất sản phẩm gốm 43

Hình 3.1. Biểu đồ số lƣợng du khách đến Phù Lãng giai đoạn 2009 - 2013 81
Hình 3.2. Biểu đồ Doanh thu từ sản phẩm gốm Phù Lãng giai đoạn 2009 - 2013 85





















1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế nông thôn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lƣợc phát triển
kinh tế xã hội ở nƣớc ta, bởi vì nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% lao động và
gần 80% dân số. Một trong những nội dung định hƣớng phát triển kinh tế nông thôn
do Đại hội IX đề ra là: mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Các làng nghề truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo việc làm,
tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống văn
hóa của nhân dân… Hiện nay, các làng nghề truyền thống ở nƣớc ta đang có xu
hƣớng ngày càng mai một. Để bảo tồn các làng nghề thì cần phải phát triển hoạt
động du lịch tại đây. Sự phát triển của ngành du lịch đã trở thành một hiện tƣợng
cuốn hút hàng tỷ ngƣời trên thế giới, mang lại nhiều lợi ích to lớn, góp phần thúc
đẩy các ngành kinh tế phát triển. Đặc biệt phát triển du lịch tại các làng nghề truyền
thống đem lại rất nhiều lợi ích nhƣ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
ngƣời dân, bảo tồn giá trị văn hóa làng nghề, và góp phần bảo vệ môi trƣờng làng
nghề….
Du lịch bền vững cũng nhƣ du lịch cộng đồng ở nƣớc ta vẫn còn là một khái
niệm mới. Tuy rằng trong thời gian gần đây cụm từ này đã đƣợc nhắc đến khá
nhiều. Thông qua các bài học kinh nghiệm thực tế về phát triển du lịch tại các quốc
gia trên thế giới, nhận thức về một phƣơng thức du lịch có trách nhiệm với môi
trƣờng, có tác dụng nâng cao hiểu biết và chất lƣợng cuộc sống cho cộng đồng đã
xuất hiện tại Việt Nam dƣới các hình thức du lịch tham quan, tìm hiểu với những
tên gọi nhƣ: du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch thiên nhiên
Nằm trong chiến lƣợc phát triển chung của cả nƣớc, du lịch Bắc Ninh cũng
đƣợc chú trọng và đƣợc coi là một điểm du lịch vệ tinh của Hà Nội.
Bắc Ninh quê hƣơng của các vua nhà Lý – triều đại khai mở nền văn minh
Đại Việt, một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi còn lƣu giữ và bảo tồn những di sản
văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Đặc biệt, Bắc Ninh còn là tỉnh có mạng lƣới các

2
làng nghề dày đặc, 62 làng nghề trong đó có 31 làng nghề truyền thống (chiếm 1/10
tổng số làng nghề truyền thống của cả nƣớc). Hầu hết các làng nghề hiện nay vẫn
còn lƣu giữ đƣợc các phong tục tập quán mang đậm bản sắc vùng Kinh Bắc xƣa.
Ngoài ra, các làng nghề đều nằm dọc các trục giao thông lớn, liền kề với những di
tích lịch sử - văn hóa, khu vực có tổ chức lễ hội nhƣ Đền Đô, chùa Dâu, chùa Bút

Tháp, đồi Lim… khiến các làng nghề thực sự trở thành điểm đến hấp dẫn cho các
tour văn hóa, cộng đồng.
Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh là
một trong ba trung tâm gốm cổ của vùng đồng bằng Bắc Bộ, đƣợc hình thành và
phát triển cách đây khoảng 900 năm với những sản phẩm gốm rất đa dạng và phong
phú. Song, trên thực tế, sự khai thác làng gốm Phù Lãng chƣa thực sự tƣơng xứng
với tiềm năng du lịch vốn có của làng nghề. Vì vậy, luận văn muốn đề cập sâu hơn
tới vấn đề “Phát triển du lịch cộng đồng tại làng nghề gốm Phù Lãng, huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh” với mong muốn góp phần nhỏ vào việc đƣa hình ảnh của quê
hƣơng mình tới đƣợc nhiều bạn bè hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch tại làng gốm
Phù Lãng, đề tài tìm ra những giải pháp cho việc phát triển và nhân rộng mô hình
du lịch cộng đồng ở làng gốm Phù Lãng nói riêng và du lịch của tỉnh Bắc Ninh nói
chung, nhằm nâng cao mức sống của cộng đồng địa phƣơng, bảo tồn và phát huy
giá trị truyền thống và giảm áp lực tới môi trƣờng và tài nguyên trong khu vực.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, đề tài cần hoàn thành 4 nhiệm vụ chính sau:
- Khái quát cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu về DLCĐ tại làng nghề
truyền thống
- Đánh giá đƣợc các điều kiện phát triển DLCĐ tại làng gốm Phù Lãng
- Đánh giá thực trạng hoạt động du lịch tại làng gốm Phù lãng
- Đƣa ra đƣợc định hƣớng và giải pháp phát triển DLCĐ tại làng nghề gốm
Phù Lãng

3
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm 3 thôn: Thƣợng Thôn, Trung thôn và Hạ
thôn thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở tài liệu thực hiện luận văn

Để thực hiện luận văn tác giả sử dụng các nguồn tài liệu sau:
- Các tài liệu về cơ sở lý luận du lịch cộng đồng
- Các tài liệu về du lịch làng nghề truyền thống
- Các tài liệu, số liệu thống kê, các báo cáo, dự án của UBND huyện Quế Võ,
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh
- Đề tài kế thừa kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận của các công trình liên
quan: Du lịch cộng đồng; Cộng đồng làng xã Việt Nam; Phát triển cộng đồng (lý
thuyết và vận dụng); Cộng đồng và các vấn đề xã hội; Du lịch với dân tộc thiểu số ở
Sa Pa; Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển du lịch cộng đồng tại Chùa Hƣơng-
Hà Tây;
- Tài liệu điều tra xã hội học theo các bảng hỏi cho: khách du lịch, cộng đồng
địa phƣơng. Bên cạnh đó còn tiến hành phỏng vấn nhanh tại đây.
6. Kết quả và ý nghĩa
a) Kết quả
- Tổng quan cơ sở lý luận về DLCĐ tại các làng nghề truyền thống
- Đánh giá các điều kiện phát triển DLCĐ tại làng gốm Phù Lãng
- Đánh giá thực trạng hoạt động du lịch tại làng gốm Phù Lãng.
- Đánh giá tác động của hoạt động du lịch đối với kinh tế - xã hội và môi
trƣờng của làng nghề.
- Đề xuất định hƣớng và giải pháp phát triển DLCĐ tại làng gốm Phù Lãng.
b) Ý nghĩa
 Ý nghĩa khoa học
DLCĐ tại các làng nghề truyền thống là một vấn đề còn khá mới đối với Việt
Nam. Bởi vậy, ý nghĩa đầu tiên của đề tài chính là đƣa ra một cách nhìn đúng đắn
về việc phát triển DLCĐ tại các làng nghề truyền thống, trên cơ sở tổng hợp các

4
định nghĩa, nguyên tắc của nhiều tác giả và tổ chức du lịch thế giới.
 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là nguồn tài liệu phục vụ cho việc xây dựng

quy hoạch phát triển DLCĐ tại làng nghề Phù Lãng. Các nghiên cứu trƣớc đó về
DLCĐ thƣờng diễn ra tại các VQG, khu bảo tồn, nghiên cứu DLCĐ tại làng gốm
Phù Lãng sẽ mang đến nguồn tƣ liệu đa dạng về tính khả thi trong triển khai hoạt
động du lịch này. Từ đó, hỗ trợ đắc lực cho công tác tổ chức và phát triển hoạt động
DLCĐ trên quy mô cả nƣớc.
Kết quả nghiên cứu và những định hƣớng, giải pháp cho việc phát triển
DLCĐ ở khu vực nghiên cứu còn có thể đƣợc ứng dụng cho các khu vực có điều
kiện tƣơng đồng, đồng thời là bài học kinh nghiệm cho việc phát triển bền vững.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 2: Các điều kiện phát triển DLCĐ tại làng gốm Phù Lãng
Chƣơng 3: Thực trạng hoạt động du lịch tại làng gốm Phù Lãng
Chƣơng 4: Định hƣớng và giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại làng
gốm Phù Lãng.

5
CHƢƠNG 1 : TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở lý luận về du lịch cộng đồng
1.1.1.1. Khái niệm về du lịch cộng đồng
“Du lịch cộng đồng: Community tourism”, hay “Du lịch dựa vào cộng
đồng: Communitybáed tourism” thực chất là nói đến những phƣơng cách, quan
điểm, nguyên tắc phát triển của các loại hình du lịch bền vững có sự tham gia
của CĐĐP nơi phân bố hoặc gần nơi phân bố các nguồn tài nguyên du lịch. Khái
niệm DLCĐ cũng đã đƣợc nhiều nhà khoa học, nhiều tổ chức đƣa ra trong các
công trình khoa học.
Thuật ngữ Du lịch cộng đồng xuất phát từ hình thức du lịch làng bản từ
những năm 1970 và khách du lịch tham quan các làng bản, tìm hiểu về phong tục

tập quán, cuộc sống hoang dã, lễ hội, cũng có thể là một vài khách muốn khám phá
hệ sinh thái đa dạng, địa hình hiểm trở, nhiều núi cao vực sâu nhƣng lại thƣa thớt
dân cƣ, các điều kiện sinh hoạt đi lại và hỗ trợ rất khó khăn, nhất là đối với khách
tham quan. Những lúc nhƣ vậy, những khách này rất cần có sự trợ giúp nhƣ dẫn
đƣờng để tránh lạc, nơi ở qua đêm, ăn uống đã đƣợc ngƣời dân bản xứ tạo điều kiện
giúp đỡ, cung cấp các dịch vụ; lúc đó, khách du lịch thƣờng gọi là chuyến du lịch có
sự hỗ trợ của ngƣời bản xứ - đây là tiền đề cho phát triển loại hình DLCĐ.
Ngày nay, DLCĐ đƣợc chính phủ, tổ chức kinh tế, xã hội của các nƣớc quan
tâm nên đã trở thành lĩnh vực mới trong ngành công nghiệp du lịch. Bên cạnh đó,
các tổ chức phi chính phủ tạo điều kiện giúp đỡ và tham gia vào lĩnh vực này nên từ
đó các vấn đề xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và sinh thái trong khuôn viên làng
bản trở thành những tác nhân tham gia cung cấp dịch vụ cho du khách và thu hút
đƣợc nhiều khách du lịch đến tham quan, ngƣời dân bản xứ cũng có thu nhập từ
việc cung cấp dịch vụ và phục vụ khách tham quan nên loại hình DLCĐ ngày càng
đƣợc phổ biến và có ý nghĩa không chỉ đối với khách du lịch, chính quyền sở tại mà
với cả cộng đồng.

6
Trên thực tế, DLCĐ đã đƣợc hình thành, lan rộng và tạo ra sự phong phú, đa
dạng cho các loại sản phẩm dịch vụ cho các loại khách du lịch vào thập kỷ 89 và 90
của thế kỷ trƣớc tại các nƣớc trong khu vực châu Âu, châu Úc, châu Mỹ La tinh,
DLCĐ đƣợc phát triển thông qua các tổ chức phi chính phủ, Hội thiên nhiên Thế
giới. Du lịch cộng đồng bắt đầu phát triển mạnh ở các nƣớc châu Á, trong đó có các
nƣớc trong khu vực ASEAN: Indonesia, Philipin, Thái Lan; các nƣớc khu vực khác:
Ấn Độ, Nepal, Đài Loan.
Do vị trí về du lịch cộng đồng, tùy theo góc nhìn, quan điểm nghiên cứu mà
DLCĐ có những khái niệm khác nhau.
Nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas đƣa ra khái niệm: “Du
lịch cộng đồng là một loại hình du lịch trong đó chủ yếu người dân địa phương
đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền

kinh tế địa phương”. Từ định nghĩa này, Nicole và Wolfgang chú trọng đến vai trò
và lợi ích kinh tế DLCĐ đem lại cho ngƣời dân địa phƣơng.
Theo Đỗ Thanh Hoa trong Tạp chí du lịch Việt Nam “Phát huy vai trò của
CĐĐP phát triển du lịch bền vững”: “DLCĐ là một hình thái du lịch, trong đó chủ
yếu là những ngƣời dân địa phƣơng đứng ra phát triển quản lý du lịch. Kinh tế địa
phƣơng sẽ đƣợc phần lớn lợi nhuận từ hoạt động du lịch”.
Từ việc nghiên cứu các khái niệm về DLCĐ, tiến sỹ Võ Quế đã rút ra khái
niệm Phát triển DLCĐ trong cuốn sách của mình: “Du lịch cộng đồng là phương
thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để
phát triển du lịch, đồng thời tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường,
đồng thời cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển du
lịch và bảo tồn tự nhiên”[11]
Theo Bùi Thị Hải Yến trong cuốn “Du lịch cộng đồng”: “DLCĐ có thể đƣợc
hiểu là phƣơng thức phát triển du lịch bền vững mà ở đó CĐĐP có sự tham gia trực
tiếp và chủ yếu trong các giai đoạn phát triển và mọi hoạt động du lịch. Cộng đồng
nhận đƣợc sự hợp tác giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong nƣớc và quốc tế, của
chính quyền địa phƣơng, cũng nhƣ chính phủ và nhận đƣợc phần lớn lợi nhuận thu

7
đƣợc từ hoạt động du lịch nhằm phát triển cộng đồng, bảo tồn, khai thác tài nguyên
môi trƣờng du lịch bền vững, đáp ứng nhu cầu du lịch phong phú, có chất lƣợng cao
và hợp lý của du khách để mọi tầng lớp dân cƣ đều có thể sử dụng tiêu dùng các sản
phẩm du lịch”.[16]
Nhƣ vậy có thể hiểu DLCĐ là loại hình du lịch bền vững dựa vào cộng đồng
địa phƣơng, trong đó cộng đồng sẽ trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch nhƣ
khai thác, quản lý và bảo tồn nguồn tài nguyên và cộng đồng phải đƣợc hƣởng lợi
từ hoạt động du lịch để từ đó giảm tỉ lệ nghèo đói, cải thiện thu nhập và nâng cao
chất lƣợng cuộc sống.
Tóm lại, DLCĐ tại làng nghề truyền thống là hình thức du lịch mà ở đó mục
tiêu của du khách là muốn tìm hiểu về các làng nghề có lịch sử lâu đời. Các sản

phẩm thủ công mỹ nghệ nhƣ mây tre đan, đồ gốm, đồ dệt, chạm khắc gỗ, đồ da, đồ
trang sức, nhạc cụ, giấy, quần áo tạo ra sức hút rất lớn đối với du khách. Do đó,
du khách đến các làng nghề với mong muốn đƣợc tìm hiểu về các sản phẩm này,
quy trình làm ra chúng và đƣợc tự tay làm ra một sản phẩm của riêng mình. Thực tế
này tạo ra cơ hội cho DLCĐ phát triển. Du khách sẽ đƣợc hƣớng dẫn làm sản phẩm
và trải nghiệm cuộc sống cùng ngƣời dân làng nghề nơi đây.
Hình thức này giúp du khách có thể tiếp cận với những sản phẩm truyền
thống, đặc trƣng của địa phƣơng. Qua đó tìm hiểu cách thức sản xuất và đời sống
sinh hoạt của những ngƣời tạo ra những sản phẩm đó. Không những vậy, hình thức
du lịch này còn giúp quảng bá cho hình ảnh của các sản phẩm truyền thống tại địa
phƣơng đến với du khách. Hơn nữa, nó cũng giúp đem lại thêm thu nhập cho làng
nghề từ hoạt động khai thác du lịch.
Đây là một hƣớng đi mới trong việc phát triển du lịch, nó cũng rất phù hợp
với phần lớn các làng quê tại Việt Nam.
1.1.1.2. Các điều kiện phát triển du lịch cộng đồng
Để tổ chức hoạt động DLCĐ, một điểm du lịch cần đảm bảo các điều kiện cơ
bản sau:
- Điều kiện tiềm năng về tài nguyên môi trƣờng tự nhiên và nhân văn có ý

8
nghĩa quyết định đến phát triển DLCĐ. Tài nguyên thiên nhiên và nhân văn đƣợc
xem xét phong phú về số lƣợng, chủng loại, giá trị về chất lƣợng của từng loại,
đƣợc đánh giá về độ quý hiếm.
- Điều kiện yếu tố cộng đồng dân cƣ đƣợc xem xét đánh giá trên các yếu tố
số lƣợng thành viên, bản sắc dân tộc, phong tục tập quán, trình độ học vấn và văn
hóa, nhận thức trách nhiệm về tài nguyên và phát triển du lịch.
- Điều kiện về cơ chế chính sách hợp lý tạo môi trƣờng thuận lợi cho việc
phát triển du lịch và sự tham gia của cộng đồng.
- Sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính phủ, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài
nƣớc về nhân lực, tài chính và kinh nghiệm phát triển DLCĐ và các công ty lữ hành

trong vấn đề tuyên truyền quảng cáo thu hút khách du lịch đến tham quan.
1.1.1.3. Mục tiêu và nguyên tắc phát triển du lịch cộng đồng
a) Mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng
Phát triển DLCĐ nhằm đạt đến 4 mục tiêu cơ bản về mặt kinh tế, xã hội và
môi trƣờng:
- Góp phần bảo vệ tài nguyên (tự nhiên và nhân văn) và môi trƣờng. Phát
triển DLCĐ nhằm phục hồi và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, vì vậy có
đóng góp cho phát triển du lịch bền vững từ góc độ tài nguyên, môi trƣờng du lịch.
- Đóng góp vào phát triển kinh tế địa phƣơng thông qua việc tăng doanh thu
du lịch và những lợi ích kinh tế khác cho CĐĐP (tạo cơ hội việc làm tăng thu nhập
cho CĐĐP, nâng cao trình độ lao động khu vực này; địa phƣơng hƣởng lợi từ việc
phát triển hạ tầng du lịch…).
- Khuyến khích và hỗ trợ sự tham gia của cộng đồng.
- Mang đến cho du khách một sản phẩm du lịch có trách nhiệm đối với môi
trƣờng và xã hội.
b) Nguyên tắc phát triển du lịch cộng đồng
Một số nguyên tắc chủ yếu đối với phát triển DLCĐ bao gồm:
- Có sự đồng thuận của CĐĐP và các bên tham gia (bao gồm chính quyền
địa phƣơng, cơ quan quản lý khác, các doanh nghiệp du lịch, các nhà nghiên cứu,

9
các tổ chức phi lợi nhuận và chính cộng đồng).
- Có sự đa dạng về vai trò tham gia của cộng đồng. Các thành viên của cộng
đồng sẽ tham gia vào việc lên kế hoạch, triển khai, kiểm soát các hoạt động du lịch
tại cộng đồng. Ở đây, cần nhấn mạnh sự tham gia của CĐĐP vào quá trình tổ chức
và thực hiện các hoạt động du lịch. Một số trƣờng hợp có thể trao quyền làm chủ
cho cộng đồng.
- Tôn trọng các giá trị văn hóa của cộng đồng: Thực tế cho thấy bất cứ
chƣơng trình du lịch nào cũng ảnh hƣởng ít nhiều đến CĐĐP. Vì thế các giá trị văn
hóa của cộng đồng phải đƣợc bảo vệ và giữ gìn với sự đóng góp tích cực của tất cả

các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch, đặc biệt là ngƣời dân địa phƣơng
bởi không đối tƣợng nào có khả năng bảo vệ và duy trì các giá trị văn hóa tốt hơn
họ. CĐĐP phải nhận thức đƣợc vai trò và vị trí của mình cũng nhƣ mặt tích cực và
tiêu cực từ phát triển du lịch.
- Phù hợp với khả năng của cộng đồng. Bao gồm khả năng nhận thức về vai
trò và vị trí của mình trong việc sử dụng tài nguyên, nhận thức đƣợc tiềm năng to
lớn của du lịch cho sự phát triển của cộng đồng cũng nhƣ biết đƣợc các bất lợi từ
hoạt động du lịch và khách du lịch đối với tài nguyên cộng đồng. Các điều kiện, khả
năng tài chính và nhân lực của cộng đồng để đáp ứng các yêu cầu phát triển du lịch.
- Chia sẻ lợi ích từ DLCĐ: Theo nguyên tắc này cộng đồng phải cùng đƣợc
hƣởng lợi nhƣ các thành phần khác khi tham gia vào hoạt động kinh doanh cung cấp
các sản phẩm cho khách du lịch. Lợi ích kinh tế từ phát triển du lịch sẽ đƣợc phân
chia công bằng cho mọi thành viên tham gia và một phần dành để tái đầu tƣ cho
cộng đồng về cơ sở hạ tầng và chăm sóc sức khỏe, giáo dục.
- Xác lập quyền sở hữu và tham gia của cộng đồng đối với việc bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và văn hóa hƣớng tới sự phát triển bền vững.
1.1.1.4. Ý nghĩa phát triển du lịch cộng đồng
Nhiều hội thảo, diễn đàn quốc tế về DLCĐ đã nêu lên ý nghĩa phát triển
DLCĐ đối với nhiều vấn đề nhƣ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh quốc
phòng, bản thân cộng đồng …, thể hiện rõ nét nhất các vấn đề:

10
- Đối với công tác bảo tồn: DLCĐ phát triển sẽ gia tăng thu nhập cho CĐĐP
đặc biệt là ở vùng nông thôn nơi tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đây sẽ là yếu tố tích cực
góp phần làm giảm tác động của cộng đồng đến các giá trị cảnh quan, tự nhiên, qua
đó sẽ góp phần bảo tồn tài nguyên, môi trƣờng đảm bảo cho phát triển du lịch bền
vững.
- Đối với cộng đồng:
Du lịch phát triển góp phần tạo cơ hội việc làm cho cộng đồng, làm thay đổi
cơ cấu, nâng cao trình độ lao động từ đó hạn chế tình trạng di cƣ của cộng đồng từ

khu vực nông thôn ra khu vực thành thị, góp phần ổn định xã hội.
Phát triển du lịch giúp CĐĐP đƣợc hƣởng lợi từ cơ sở hạ tầng xã hội (giao
thông, điện, nƣớc, bƣu chính viễn thông…). Đây cũng sẽ là yếu tố tích cực để đảm
bảo sự công bằng trong phát triển du lịch, một trong những nội dung quan trọng của
phát triển du lịch bền vững.
Mang lại lợi ích cho các thành viên cộng đồng tham gia trực tiếp cung cấp
các dịch vụ cho khách du lịch, đồng thời các thành viên khác cũng đƣợc hƣởng lợi
từ sự đóng góp của du lịch.
Tạo điều kiện đẩy mạnh giao lƣu văn hóa và giao lƣu kinh tế giữa các vùng
miền, giữa Việt Nam và các nƣớc khác trên thế giới. Ý nghĩa này cũng là yếu tố
quan trọng góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của Việt
Nam đồng thời là cơ hội để phát triển kinh tế ở những địa phƣơng còn khó khăn.
- Đối với du lịch: phát triển DLCĐ có ý nghĩa tạo ra sự đa dạng sản phẩm
dịch vụ du lịch của các địa phƣơng, các quốc gia.
Góp phần thu hút khách du lịch.
Góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên du lịch nói
riêng.
1.1.1.5. Một số hình thức tham gia phổ biến của CĐĐP trong du lịch
Nhƣ đã trình bày, DLCĐ thƣờng không tồn tại độc lập mà có tính liên kết
chặt chẽ với các loại hình du lịch khác để tạo thành những sản phẩm du lịch đảm
bảo các nội dung đã nên ở trên. Trong giai đoạn hiện nay, các dạng tham gia phổ

11
biến của cộng đồng trong hoạt động du lịch có thể kể đến nhƣ:
+ Cho khách thuê trọ và ở chung trong nhà dân;
+ Lập các nhà nghỉ bình dân dƣới sự điều hành chung của cộng đồng hoặc có
đóng góp cho cộng đồng;
+ Ngƣời dân tìm việc trong ngành du lịch nhƣ làm hƣớng dẫn viên, làm lễ
tân, nấu ăn phục vụ du khách ;
+ Tham gia các hoạt động nhƣ hƣớng dẫn, hỗ trợ các hoạt động của du khách

(chẳng hạn hƣớng dẫn một số phƣơng thức làm đồng, hƣớng dẫn leo núi );
+ Sản xuất hàng hóa và bán hàng lƣu niệm để bán trực tiếp cho khách không
qua trung gian;
+ Ngoài ra, cộng đồng có thể tham gia gián tiếp vào du lịch thông qua sản
xuất và cung ứng cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch nhƣ khách sạn, nhà
hàng
1.1.2. Cơ sở lý luận về du lịch làng nghề truyền thống
1.1.2.1. Khái niệm về làng nghề truyền thống
 Nghề thủ công truyền thống
Khi đề cập đến khái niệm nghề thủ công truyền thống ở nƣớc ta, có rất nhiều
tên gọi khác nhau: nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề thủ công, nghề phụ,
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp…
Để tránh sự chồng chéo về các khái niệm, cần hiểu cụ thể thế nào là nghề thủ
công truyền thống, từ đó đƣa ra khái niệm chính xác nhất.
Nghề thủ công truyền thống trƣớc hết là nghề tiểu thủ công nghiệp đƣợc hình
thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, đƣợc sản xuất tập trung tại một
vùng hay một làng nào đó. Từ đó đã hình thành các làng nghề, phố nghề, xã nghề.
Đặc trƣng cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là phải có kỹ thuật và công nghệ
truyền thống, có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Sản phẩm làm ra vừa có
tính hàng hóa, đồng thời vừa có tính nghệ thuật và mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc.
Nghề thủ công truyền thống của nƣớc ta rất đa dạng và phong phú, có những

12
nghề đã hình thành và tồn tại hàng trăm năm. Nhiều sản phẩm từ lâu đã nổi tiếng
trong và ngoài nƣớc. Nghề truyền thống thƣờng đƣợc truyền theo phạm vi từng
làng. Mỗi nghề bao giờ cũng có ngƣời khởi đầu, dân làng tôn vinh là ông tổ của
nghề. Trong những làng nghề truyền thống, đại đa số ngƣời dân biết làm nghề
truyền thống đó. Họ cũng có thể phát triển các nghề khác nhƣng những nghề này
chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Với sự phát triển của khoa học – công nghệ ngày nay, việc sản xuất các sản
phẩm có tính truyền thống đã phần nào đƣợc hỗ trợ bởi quy trình công nghệ mới,
với nhiều nguyên liệu mới. Do vậy, khái niệm nghề truyền thống cũng đƣợc nghiên
cứu và mở rộng hơn, có thể đƣợc hiểu nhƣ sau: “Nghề truyền thống bao gồm những
nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, đƣợc truyền từ đời này
sang đời khác và còn tồn tại đến ngày nay, kể cả những nghề đã đƣợc cải tiến hoặc
sử dụng những loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhƣng vẫn tuân thủ công
nghệ truyền thống, và đặc biệt, sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn hóa đặc
sắc của dân tộc”. [17]
 Làng nghề
Khái niệm làng nghề đƣợc hiểu là làng tuy vẫn diễn ra các hoạt động trồng
trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ lẻ, cũng có một số nghề phụ khác (đan lát,
làm tƣơng, làm chiếu, làm tranh…) song đã nổi trội lên một nghề cổ truyền, tinh
xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có
phƣờng, có hội, có ông trùm, phó cả… cùng một số thợ chính và phó nhỏ, đã
chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Họ
sản xuất ra những mặt hàng thủ công, có tính mỹ nghệ. Những sản phẩm này trở
thành sản phẩm hàng hóa có quan hệ thông thƣơng với thị trƣờng trong nƣớc và tiến
tới mở rộng xuất khẩu ra thị trƣờng nƣớc ngoài. Những làng nghề này ít nhiều đã
nổi danh từ lâu, có quá khứ hàng trăm năm. Tên làng cũng có khi đã đi vào lịch sử,
vào ca dao tục ngữ… trở thành di sản văn hóa dân gian.
Nhƣ vậy, có thể thấy, làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn,
đƣợc tạo nên bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất

13
định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống từ nguồn thu chủ yếu từ nghề
thủ công, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa.
Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nƣớc ta đƣợc hình thành và phát
triển theo yêu cầu phân công lao động và chuyên môn hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của nông thôn. Các làng nghề truyền thống cũng chịu sự tác động mạnh

mẽ của nền nông nghiệp và nông thôn Việt Nam với những đặc trƣng của văn hóa
lúa nƣớc, và nền kinhh tế hiện vật, sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc.
Xét về mặt định lƣợng, làng nghề là những làng có đại đa số ngƣời chuyên
làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ nghề đó. Tiêu
chí để xem một cách cụ thể đối với làng nghề điển hình là: Số hộ chuyên làm một
hoặc nhiều nghề chiếm từ 40 – 50%; thu nhập từ nghề thủ công chiếm > 50% tổng
giá trị sản lƣợng của làng [14]. Tuy nhiên, những tiêu chí này chỉ có ý nghĩa tƣơng
đối về mặt định lƣợng. Hiện nay, mỗi làng nghề có sự khác nhau về quy trình công
nghệ, tính chất sản phẩm và số ngƣời tham gia vào quy trình sản xuất. Do vậy, sự
phát triển của các làng nghề thƣờng khác nhau và có sự biến động khác nhau trong
từng thời kỳ.
Hiện nay, khái niệm làng nghề đã đƣợc mở rộng hơn, cùng với sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, công nghệ và sự phân công lao động. Khái niệm làng nghề
không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các hộ chuyên làm nghề thủ công. Điều này
có thể đƣợc hiểu ở hai góc độ: Thứ nhất: Công nghệ sản xuất không hoàn toàn là
công nghệ thủ công nhƣ trƣớc đây, mà ở nhiều làng nghề đã có áp dụng công nghệ
cơ khí và bán cơ khí. Thứ hai: trong các làng nghề, khi sản xuất phát triển ở mức độ
cao hơn thì sẽ làm nảy sinh sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau nhằm
phục vụ cho nó. Do vậy, sẽ xuất hiện nhiều ngƣời chuyên làm dịch vụ cung cấp
nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ và các cơ sở chuyên làm nghề thủ
công. Từ đó, hình thành những làng nghề mới với mô hình kết hợp nhiều nghề, điển
hình là mô hình kết hợp nông – công – thƣơng – dịch vụ.
Nhƣ vậy, khái niệm làng nghề có thể hiểu là những làng nông nghiệp có các
ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ƣu thế về số hộ, số lao động và tỷ trọng thu

14
nhập so với nghề nông.
 Làng nghề thủ công truyền thống (LNTCTT)
Khái niệm LNTCTT đƣợc khái quát dựa trên hai khái niệm nghề thủ công
truyền thống và làng nghề. Làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất

hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề
mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm
theo kiểu phƣờng hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và
các thành viên luôn có ý thức tuân thủ những chế ƣớc xã hội và gia tộc. Sự liên kết,
hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa các gia đình cùng dòng
tộc, cùng phƣờng nghề, trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển nghề nghiệp
đã hình thành ngay trên đơn vị cƣ trú, hàng xóm truyền thống của họ.
Trong khái niệm trên, làng nghề thủ công chỉ bao hàm các nghề thủ công
nghiệp. Tuy nhiên, trong đà phát triển kinh tế hiện nay thì khu vực dịch vụ lại đóng
vai trò quan trọng và trở thành lĩnh vực chiếm ƣu thế về mặt tỷ trọng ở hầu hết các
nƣớc có nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy, nghề buôn bán dịch vụ ở nông thôn
cũng đƣợc xếp vào các làng nghề. Do đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng khu vực
làng nghề sẽ có làng một nghề, làng nhiều nghề, có làng truyền thống, làng nghề
mới.
Qua nghiên cứu thực tế và tìm hiểu về làng nghề, chúng ta có thể đƣa ra một
số khái niệm nhƣ sau:
- Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại hoặc có
một nghề chiếm ƣu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có ở một vài hộ hoặc không
đáng kể.
- Làng nhiều nghề là những làng nghề xuất hiện và tồn tại nhiều nghề, có tỷ
trọng các nghề chiếm ƣu thế gần tƣơng đƣơng nhau.
- Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch
sử và tồn tại cho đến ngày nay, nhƣ làng gốm Bát Tràng, làng gỗ Đồng Kỵ …
- Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa của
các làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới

15
chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng.
Nhƣ vậy, LNTCTT có thể quan niệm nhƣ sau: “Là làng có những người
cùng sinh sống phát triển KT – XH, có những luật lệ, giá trị văn hóa riêng, có nghề

sản xuất hàng hóa đã được hình thành phát triển một thời gian dài trong lịch sử,
chuyên sản xuất một số loại sản phẩm hàng hóa, nghệ thuật sản xuất nghề được
bảo tồn, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong làng. Sản phẩm hàng hóa được
sản xuất không chỉ đáp ứng nhu cầu của người dân trong làng mà còn được bán ra
thị trường trong nước và quốc tế. Các giá trị văn hóa của làng phong phú được
sáng tạo, bảo tồn qua nhiều thế hệ”.
Hiện nay, trên cả nƣớc có khoảng hơn 300 LNTCTT, nó phát triển và phân
bố rộng khắp các địa phƣơng. Có sự phân bố này là nhằm khai thác và phát huy các
thế mạnh đặc thù của từng vùng, miền để từ đó góp phần đa dạng hóa những sản
phẩm và tạo ra những giá trị độc đáo riêng. Do vậy, chúng có những đặc trƣng và
vai trò nhất định.
1.1.2.2. Đặc trưng của làng nghề truyền thống
LNTCTT thƣờng xuất hiện gắn liền với những hoạt động nông nghiệp ở
nông thôn. Thuở ban đầu phần lớn ngƣời dân trong làng đều sinh sống bằng việc
sản xuất nông nghiệp và thƣờng là các làng thuần nông. Tuy nhiên, trong những lúc
nông nhàn, ngƣời nông dân đã biết tận dụng những nguyên liệu sẵn có (tre, nứa,
song, mây, rơm…) tự tay làm ra một số loại sản phẩm, ban đầu chỉ để phục vụ cho
những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày (rổ, rá, nón, chổi,…). Về sau, khi lực lƣợng lao
động tăng lên, một bộ phận đã dần tách ra làm và sống bằng nghề thủ công đó. Nhƣ
vậy, những ngƣời nông dân này đã trở thành thợ thủ công, và LNTCTT cũng xuất
hiện từ đó. Hiện nay, do sự đa dạng hàng hóa của các sản phẩm, đáp ứng kịp với
nhu cầu của thị trƣờng, một số làng đã nhập nguyên liệu từ nơi khác. Tuy nhiên,
việc sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phƣơng vẫn là chủ yếu do yếu tố đảm
bảo chất lƣợng sản phẩm.
Tại các LNTCTT, công cụ sản xuất thƣờng thô sơ, đơn giản, sử dụng lao
động ở mọi lứa tuổi, chủ yếu là ngƣời địa phƣơng nhƣng sản phẩm làm ra vẫn mang

16
tính sáng tạo, tính thẩm mỹ cao và đậm đà bản sắc dân tộc. Đại đa số các LNTCTT
có sản phẩm đƣợc làm ra từ chính đôi bàn tay của mình kết hợp với những công cụ

đơn giản, thô sơ (nhƣ đục đẽo ở các làng làm nghề mộc, dùng bàn xoay để nặn gốm
sứ…).
Mặc dù ở một số làng nghề đã có sự hỗ trợ của các thiết bị máy móc nhƣng
không thể thay thế hoàn toàn đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, vì xuất phát từ
đặc thù của những sản phẩm, cũng nhƣ thị hiếu của ngƣời tiêu dùng, các sản phẩm
làm ra đòi hỏi phải có sự khéo léo của bàn tay, óc sáng tạo của nghệ nhân mà máy
móc không thể thay thế đƣợc. Đây cũng chính là lợi thế để các làng nghề tận dụng
sức lao động của hầu hết mọi lứa tuổi, gắn với những công đoạn phù hợp khác
nhau. Tuy nhiên, công đoạn cuối cùng để hoàn thiện các sản phẩm lại đòi hỏi phải
có đôi bàn tay của những nghệ nhân, những ngƣời thợ cả có những bí quyết nghề
nghiệp. Vì vậy, những phƣơng thức cha truyền con nối trở thành một phần quan
trọng để tồn tại các LNTCTT.
Thị trƣờng của những sản phẩm LNTCTT chƣa thực sự ổn định, thƣờng tự
phát, chƣa có chiến lƣợc xây dựng thị trƣờng nòng cốt rõ ràng, thiếu kế hoạch
nghiên cứu và phát triển thị trƣờng tiềm năng. Mặc dù các LNTCTT ở nƣớc ta đã có
quá trình tồn tại và phát triển lâu dài, nhƣng tính đến nay, trong sự phát triển của
các làng nghề, việc xúc tiến, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm còn nhiều bất cập. Xuất
phát từ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và sự đơn lẻ của các sản phẩm đƣợc làm ra nên
việc tiêu thụ các sản phẩm này vẫn tiến hành tại chỗ. Trƣớc đây, ở nhiều địa
phƣơng, hoạt động sản xuất của các LNTCTT còn mang tính tự cấp, tự túc hoặc thị
trƣờng tiêu thụ còn nhỏ hẹp. Hiện nay, thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm thủ công phong
phú và rộng lớn hơn nhƣng các làng nghề vẫn gặp nhiều khó khăn khi bƣớc vào cơ
chế thị trƣờng.
1.1.2.3. Các điều kiện để phát triển làng nghề thủ công truyền thống
- “Nhất cận thị, nhì cận giang”, các LNTCTT thƣờng đƣợc phân bố ven các
sông lớn và các đô thị lớn thuận tiện cho việc chuyên chở nguyên liệu và tiêu thụ
sản phẩm. Gần các nguồn nguyên liệu hoặc phân bố tại các vùng có nguồn nguyên

17
liệu để phục vụ sản xuất.

- Có các nghệ nhân dân gian, các tổ nghề là những ngƣời sáng tạo ra các
nghệ thuật sản xuất, phát triển nghề và các nghệ thuật sản xuất nghề đƣợc giữ gìn,
sáng tạo truyền từ đời này sang đời khác trong dòng họ hoặc trong làng.
- Các nguồn lực đất đai, nƣớc, sinh vật, khí hậu để phát triển các nghề nông
lâm ngƣ nghiệp hạn chế, các nghề này không đảm bảo đời sống cho ngƣời dân
- Dân cƣ của các làng này thƣờng có những phẩm chất: chăm chỉ, chịu khó,
khéo tay, sáng tạo, hỗ trợ lẫn nhau trong đời sống và sản xuất, yêu truyền thống văn
hóa quê hƣơng, yêu nghề, bảo tồn đƣợc nhiều giá trị nghề và văn hóa truyền thống.
1.1.2.4. Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội nói chung và hoạt động du lịch nói riêng
Các làng nghề thủ công truyền thống đang hồi sinh hoặc tiếp tục đƣợc phát
triển, thể hiện vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế và đời sống ngƣời Việt.
Trong phạm vi có hạn, luận văn chỉ đề cập đến một số vai trò chính của các
LNTCTT nƣớc ta:
a) Đối với kinh tế - xã hội
* Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn
Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của nƣớc ta giai đoạn hiện nay
một trong những yêu cầu tất yếu là phải chuyển dịch kinh tế nông thôn với cơ cấu
thuần nông, chủ yếu tự cung tự cấp sang kinh tế nông thôn nông nghiệp hóa, với cơ
cấu nông – công nghiệp – dịch vụ và sản xuất nhiều sản phẩm hàng hóa.
Trong quá trình vận động và phát triển, các làng nghề truyền thống có vai trò
tích cực trong việc tăng tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ,
thu hẹp tỷ trọng nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập
thấp sang sản xuất phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Sự tác động này đã tạo ra
một nền kinh tế đa dạng ở nông thôn, với sự thay đổi về cơ cấu, phong phú, đa dạng
về loại hình sản phẩm.
Việc phát triển các làng nghề truyền thống đã tạo điều kiện cho hoạt động
dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động, thu hút nhiều lao động.

18

Khác với sản xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên
tục, đòi hỏi hoạt động dịch vụ phải diễn ra thƣờng xuyên trong việc cung ứng
nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Do đó, dịch vụ nông thôn có điều kiện phát
triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, đem lại thu nhập cao cho
ngƣời lao động. Sự phát triển lan tỏa của các LNTCTT đã mở rộng quy mô và địa
bàn sản xuất, thu hút rất nhiều lao động. Tính đến nay, cơ cấu kinh tế ở nhiều làng
nghề đạt 60 – 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20 – 30% cho nông nghiệp [7].
* Hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề tạo ra khối lượng hàng
hóa đa dạng, phong phú, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Đƣợc phân bố rộng khắp ở các vùng
nông thôn, hàng năm, các làng nghề sản xuất ra một khối lƣợng hàng hóa lớn, đóng
góp đáng kể cho nền kinh tế nói chung và kinh tế địa phƣơng nói riêng. Trong
những năm qua, tốc độ tăng trƣởng của làng nghề lên tới 20%/năm, đã thúc đẩy
hàng hóa ở nông thôn phát triển. Thực tế cho thấy, địa phƣơng nào có nhiều làng
nghề thì cũng có kinh tế hàng hóa phát triển, góp phần đáng kể vào sự gia tăng giá
trị sản phẩm cho địa phƣơng. Hiện nay, 60 – 70% sản phẩm làng nghề đƣợc tiêu thụ
trong nƣớc, 30 – 40% đƣợc xuất khẩu ra nƣớc ngoài, kim ngạch xuất khẩu tăng liên
tục và đạt 750 triệu USD năm 2007 (chƣa tính các sản phẩm mỹ nghệ - gỗ).
* Làng nghề thủ công truyền thống góp phần giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho dân cư nông thôn.
Ở nƣớc ta, lao động nông nghiệp chiếm một tỷ lệ lớn, diện tích đất canh tác
bình quân đầu ngƣời rất thấp, tỷ lệ thời gian làm việc của lao động trong độ tuổi ở
khu vực nông thôn khoảng 82% (2007). Tuy nhiên, tình trạng thiếu việc làm ở khu
vực nông thôn khá phổ biến. Sự phục hồi và phát triển các làng nghề góp phần quan
trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho số lao động dƣ thừa ở nông thôn.
Mặt khác, các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn phát triển kéo theo nhiều
nghề dịch vụ có liên quan, thu hút và tạo thêm nhiều việc làm mới. Trong những
năm qua, những làng nghề trên khắp cả nƣớc đã góp phần thu hút khoảng 11 triệu


19
lao động, chiếm 30% lực lƣợng lao động trong nông thôn.
Mở rộng và phát triển làng nghề không những thu hút lao động của bản thân
các hộ nghề mà còn thu hút thêm lao động ở địa phƣơng và từ các địa phƣơng khác.
Các làng nghề truyền thống nhƣ làng chiếu cói Nga Sơn (Thanh Hóa), mộc mỹ nghệ
Đồng Kỵ, làng gốm Bát Tràng đều sử dụng thêm lao động trong và ngoài địa
phƣơng. Bình quân, một cơ sở chuyên ngành nghề đào tạo việc làm ổn định cho 27
lao động, mỗi hộ ngành nghề cho 4 – 6 lao động. Đặc biệt, một cơ sở nghề dệt, thêu,
mây tre đan có thể thu hút từ 200 – 250 lao động.
Thu nhập từ nghề thủ công chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập, đã đem
lại cho ngƣời dân các làng nghề cuộc sống đầy đủ hơn cả về vật chất và tinh thần.
Tại các làng nghề phát triển, số hộ có nhà cao tầng, có các loại đồ dùng tiện nghi đắt
tiền chiếm khá lớn.
Việc phát triển làng nghề còn tạo ra nguồn tích lũy khá lớn và ổn định cho
ngân sách địa phƣơng cũng nhƣ các hộ gia đình. Điều này tạo cơ hội cho sự vận
động đóng góp của ngƣời dân vào việc xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng nông
thôn. Đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân đƣợc từng bƣớc nâng cao nên sức
mua có xu hƣớng tăng lên, tạo điều kiện phát triển thị trƣờng sản phẩm hàng tiêu
dùng, dịch vụ. Nhiều làng nghề có diện mạo của những làng đƣợc đô thị hóa.
* Phát triển làng nghề góp phần thu hút nhiều lao động nhàn rỗi ở nông
thôn, tận dụng thời gian nông nhàn và hạn chế di dân tự do.
Các cơ sở kinh tế trong các làng nghề chủ yếu là những hộ gia đình, mức đầu
tƣ cho một lao động và quy mô vốn cho một cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các
làng nghề không nhiều. Vì vậy, việc phát triển các làng nghề thủ công rất phù hợp
với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của các hộ gia đình. Mặc dù,
ở các làng nghề hiện nay, sản xuất đƣợc tiến hành chủ yếu ở các hộ gia đình, nhƣng
do tính phổ biến trong làng nghề nên các cơ sở sản xuất vẫn thu hút nhiều lao động
thời vụ, nông nhàn và cả lao động trên hay dƣới độ tuổi vào quá trình sản xuất. Trẻ
em cũng có thể vừa học, vừa tham gia sản xuất dƣới hình thức học nghề hay giúp
việc. Lực lƣợng này chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số lao động làng nghề.

×