MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện đường
lối đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa
hình thức kinh doanh. Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt
được những thành tựu nổi bật; nền kinh tế của đất nước từng bước ổn định và
không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân ngày được nâng cao. Song
hành cùng với những thành tích nêu trên, những mặt trái của nền kinh tế thị
trường cũng ngày càng bộc lộ. Trong lĩnh vực an ninh trật tự, tuy đã đạt được
nhiều thành tích to lớn song các phương thức, thủ đoạn gây án mới xuất hiện
ngày càng nhiều như: trộm cắp cước viễn thông quốc tế, lừa đảo bằng hình
thức mua bán cổ phiếu và mua, bán trái phép hoá đơn GTGT.
Trước tình hình trên, thực tế cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi
hỏi lực lượng CAND nói chung và lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và
CV nói riêng cần phải có những chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa cả về nhận
thức và hành động, nhất là về phương pháp, biện pháp, chiến thuật và các mặt
công tác cơ bản trong hoạt động nghiệp vụ; chủ động đấu tranh phòng, chống
có hiệu quả các loại tội phạm kinh tế, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi các
Nghị quyết của Đảng và mục tiêu Chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm của Chính phủ đã đề ra.
Thời gian gần đây, tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép
hoá đơn GTGT là một loại tội phạm mới, hình thành sau khi Nhà nước ta ban
hành Luật thuế GTGT và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Các đối
tượng phạm tội sử dụng triệt để chuyên môn, hiểu biết của mình và lợi dụng
những kẻ hở trong chính sách quản lý kinh tế- tài chính với nhiều thủ đoạn
tinh vi, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội. Đặc biệt, loại tội phạm này
mang tính tổ chức cao, có sự tiếp tay của các cán bộ, công chức trong một số
1
cơ quan quản lý Nhà nước gây thiệt hại lớn cho tài sản Nhà nước, và để lại
hậu quả rất nghiêm trọng, có nhiều hành vi tội phạm xâm phạm đồng thời hai
khách thể quan trọng được pháp luật bảo vệ, đó là: Quan hệ sở hữu tài sản và
TTQLKT của Nhà nước. Thực tế cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua,
bán, sử dụng trái phép hóa đơn GTGT cho thấy: bọn phạm tội sử dụng các
hóa đơn được mua, bán trái phép vào nhiều mục đích khác nhau để tham ô tài
sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản (bằng hình thức hoàn thuế GTGT), buôn lậu
(hợp thức hoá hàng nhập khẩu trái phép) và trốn thuế…
Bởi vậy, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh
vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT là yêu cầu và đòi hỏi có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần giữ vững TTQLKT, bảo vệ tài sản Nhà
nước. Tuy nhiên, công tác đấu tranh đối với loại tội phạm này của lực lượng
CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV cả nước nói chung và lực lượng CSĐT
tội phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang nói riêng đang gặp
phải những khó khăn, vướng mắc; vì vậy, hiệu quả đấu tranh vẫn còn hạn chế.
Đó là những lý do thôi thúc tôi nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học: “Công
tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá
đơn GTGT trên địa bàn tỉnh Tiền Giang”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề thực tiễn liên quan đến việc nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội phạm luôn là đề tài thu hút các nhà khoa học,
các nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau tham gia.
Trong các trường CAND đã có một số tài liệu giáo trình, luận văn tốt
nghiệp Đại học, Cao học ít nhiều có đề cập đến vấn đề tội phạm trong lĩnh
vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT nhưng cũng chỉ dừng lại ở
một vài nội dung mang tính khái quát. Thời gian qua, Tổng cục CSND, Cục
2
CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV và một số địa phương đã có nghiên cứu,
tổng kết theo chuyên đề tội phạm, trong đó có tội phạm trong lĩnh vực mua,
bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT, nhưng những vấn đề trên mới dừng lại
ở dạng báo cáo tổng kết, các giải pháp đưa ra còn mang tính giải quyết tình
thế chưa căn bản, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách có hệ thống và toàn diện về công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong
lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT của lực lượng CSĐT tội
phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ tình hình tội phạm
trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT và thực trạng phát
hiện, điều tra khám phá những vụ án trong lĩnh vực này trên địa bàn tỉnh Tiền
Giang. Qua đó, tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm cho loại tội phạm
này hình thành, phát triển; trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực
mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT của lực lượng CSĐT tội phạm về
TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang.
- Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu cần phải thực hiện là:
+ Nghiên cứu có hệ thống những vấn đề về lý luận, nhận thức có liên
quan công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng
trái phép hoá đơn GTGT.
+ Phân tích mô hình tổ chức của lực lượng CSĐT tội phạm về
TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang trực tiếp phòng ngừa và điều tra
tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT.
+ Phân tích thực trạng công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh
vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT của lực lượng CSĐT tội
3
phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang. Làm rõ nguyên nhân và
điều kiện hình thành tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá
đơn GTGT trên địa bàn tỉnh Tiền Giang từ năm 2002 đến năm 2006.
Từ đó rút ra những ưu điểm, tồn tại, khó khăn, vướng mắc để đề ra
những giải pháp khắc phục.
+ Mạnh dạn kiến nghị các cơ quan, ban ngành khắc phục những sơ hở
thiếu sót dưới góc độ quản lý Nhà nước trong việc giám sát chặt chẽ tình hình
mua, bán và sử dụng hoá đơn GTGT nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa và điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn
GTGT của lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền
Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu hệ thống các văn bản pháp luật, các quy định về chức năng,
nhiệm vụ của ngành Công an có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT mà
trọng tâm là công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử
dụng trái phép hoá đơn GTGT. Tình hình tội phạm và thực trạng công tác
phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá
đơn GTGT của lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh
Tiền Giang.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung có liên quan
đến công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái
phép hoá đơn GTGT; tình hình tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái
phép hoá đơn GTGT trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong thời gian 5 năm từ
4
năm 2002 đến năm 2006 và công tác phát hiện, điều tra của lực lượng CSĐT
tội phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Dựa vào chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa duy
vật biện chứng, quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh; Phương pháp tọa đàm, trao đổi;
Phương pháp khảo sát thực tế (quan sát).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận:
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu khoa học đóng góp vào kho
tàng lý luận về công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế nói
chung và công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử
dụng trái phép hoá đơn GTGT nói riêng. Những vấn đề đã đưa ra nghiên cứu
trong đề tài có thể được khai thác sử dụng trong quá trình nghiên cứu, giảng
dạy, biên soạn tài liệu về công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực
mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT.
- Về thực tiễn:
Đề tài là tài liệu tham khảo cho CBCS đang trực tiếp làm công tác phát
hiện, điều tra tội phạm tại các đơn vị nói riêng và công an địa phương nói
chung nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong
lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT tại địa bàn tỉnh Tiền
Giang.
5
7. Những điểm mới của đề tài
Lần đầu tiên công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh vực mua,
bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT ở địa bàn một tỉnh miền Tây Nam Bộ
được nghiên cứu một cách có hệ thống, tìm ra những khó khăn vướng mắc và
tồn tại để đưa ra các giải pháp phù hợp, có tính khả thi.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương.
Chương 1: Lý luận chung về công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong
lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT.
Chương 2: Thực trạng công tác phát hiện, điều tra tội phạm trong lĩnh
vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT của lực lượng CSĐT tội
phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang từ năm 2002 đến năm
2006.
Chương 3 : Dự báo tội phạm và một số giải pháp, kiến nghị góp phần
nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và phát hiện, điều tra tội phạm trong
lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT của lực lượng CSĐT tội
phạm về TTQLKT và CV- Công an tỉnh Tiền Giang .
6
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÁT HIỆN, ĐIỀU TRA TỘI
PHẠM TRONG LĨNH VỰC MUA, BÁN, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP
HOÁ ĐƠN GTGT
1.1. Nhận thức chung về thuế GTGT và tội phạm trong lĩnh vực mua,
bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT
1.1.1. Nhận thức chung về thuế GTGT
1.1.1.1. Vài nét khái quát về thuế GTGT
Đối với các nước trên thế giới nói chung trong đó có Việt Nam, thuế và
thuế GTGT được coi là một trong những nguồn thu ngân sách quan trọng để
đảm bảo cho sự phát triển về kinh tế- xã hội vì mục tiêu của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, trong mọi thời kỳ, nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến
chính sách thuế, coi việc đóng thuế là nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và là nguồn
thu ngân sách quan trọng để góp phần xây dựng, phát triển đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Ngày 10/5/1997, tại kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá IX, Luật thuế GTGT
đã được thông qua; tiếp đó, ngày 22/5/1997, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã công bố Lệnh số 57/LCTN ban hành Luật thuế GTGT
có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Qua 7 năm thực hiện, bên cạnh những kết
quả tích cực đạt được, Luật thuế GTGT đã bộc lộ một số bất cập. Do vậy,
ngày 17/6/2003 tại kỳ họp thứ III Quốc hội khoá XI, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật thuế GTGT đã được thông qua và có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2004.
Ở Việt Nam, thuế GTGT là một loại thuế mới được tính trên khoản giá
trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu
7
thông đến tiêu dùng. Từ khi triển khai và thực hiện cho đến nay, thuế GTGT
có những ưu điểm là:
- Thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu, việc
đánh thuế không bị trùng lặp. Do vậy, đã có tác động tích cực đối với sản
xuất, kinh doanh và dịch vụ. Việc thực hiện thuế GTGT bước đầu đã giúp cho
các DN thuộc các thành phần kinh tế hoạt động theo đúng quy định về hệ
thống kế toán, tài chính, thực hiện việc mở sổ sách kế toán, ghi hoá đơn
chứng từ trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, việc thực
hiện thuế GTGT đã khắc phục được nền kinh tế giảm phát kéo dài, điều tiết
trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên phần nào đã thúc đẩy
việc lưu thông hàng hóa thuận lợi, có tác dụng kích cầu nền kinh tế.
- Thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, kích thích sự phát triển sản xuất, kinh doanh
hàng hoá xuất khẩu, nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Thuế GTGT quy định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được
hoàn thuế GTGT đầu vào, nên đã khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện để
hàng hóa Việt Nam có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Đồng thời,
thông qua việc thực hiện thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu đã góp phần
bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, thuế GTGT cũng khuyến
khích việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng mà nước ta có thế mạnh như
nông sản, lâm sản, thuỷ hải sản…
- Thuế GTGT và các loại thuế khác đã khuyến khích đầu tư trong nước
tăng, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, chú trọng vào việc đổi mới công
nghệ tiên tiến, hiện đại. Thuế GTGT không nhằm đánh vào hoạt động đầu tư
tài sản cố định mà toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định
phục vụ cho sản xuất, kinh doanh sẽ được Nhà nước cho khấu trừ dần hoặc
được hoàn thuế cho DN.
8
- Thuế GTGT không làm tăng giá cả hàng hóa vì nó thay thế thuế
doanh thu đã được kết cấu vào trong giá, đây là một ưu thế tích cực của thuế
GTGT mà một số loại thuế trước đây không có được. Chính vì vậy, thuế
GTGT không những góp phần làm ổn định giá cả trong nước mà còn làm cho
giá cả thị trường không bị xáo trộn dẫn đến hiện tượng lạm phát, đồng tiền
mất giá…
- Thuế GTGT đã giúp cho việc làm tăng tổng thu ngân sách cho nhà
nước hàng năm. Đồng thời, nó cũng tăng cường hơn sự phối kết hợp giữa các
cơ quan chức năng của Nhà nước như: ngành Thuế, Hải quan, Quản lý thị
trường, Bộ đội biên phòng, Công an… và các đơn vị, địa phương trong các
hoạt động nhằm thu ngân sách cho Nhà nước và trong việc giám sát, kiểm tra
hàng hoá, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Như vậy, thuế GTGT đã thật sự góp phần đảm bảo được các yêu cầu
của Nhà nước đề ra là đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu, khuyến khích đầu tư
trong nước, đảm bảo các nguồn thu ổn định cho ngân sách, góp phần mở rộng
giao lưu quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, xây dựng một
nền kinh tế vững mạnh đảm bảo sự ổn định và phát triển đất nước. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực mà loại thuế này đã, đang mang lại cho sự phát
triển kinh tế- xã hội, thì nó cũng bộc lộ những khiếm khuyết, hạn chế. Đặc
biệt là, việc lợi dụng sơ hở trong chính sách quản lý thuế GTGT và sự thông
thoáng trong Luật DN…một loại tội phạm mới lợi dụng chính sách thuế
GTGT gây nên những hậu quả nghiêm trọng.
1.1.1.2. Khái niệm thuế GTGT
Theo quy định của Điều 1 Luật thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung
và có hiệu lực từ ngày 01/01/2004 thì: “Thuế GTGT là thuế tính trên khoản
giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất,
lưu thông đến tiêu dùng”.
9
Căn cứ vào quy định của Luật thuế GTGT, chúng ta rút ra một số nội
dung cơ bản như sau:
- Đối tượng chịu thuế GTGT: Theo quy định tại Điều 2 của Luật thuế
GTGT là: Hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở
Việt Nam, trừ các đối tượng quy định tại Điều 4 của Luật thuế GTGT.
- Đối tượng phải nộp thuế GTGT: Theo quy định tại Điều 3 của Luật
thuế GTGT, thì: Đối tượng nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức,
cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu).
1.1.2. Nhận thức chung về tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng
trái phép hoá đơn GTGT
Tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT
cũng là một dạng tội phạm kinh tế nói chung. Tuy nhiên, do tính chất của
hành vi phạm tội, nên tội phạm này có những đặc thù riêng biệt.
Theo quy định của Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-
TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 23/11/2004 của BCA, TAND tối cao,
VKSND tối cao, Bộ Tư pháp về hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với các hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT; tội phạm
trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT được quy định tại
6 điều trong BLHS (Điều 139: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 153: Tội
buôn lậu; Điều 161: Tội trốn thuế; Điều 181: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác; Điều 268: Tội chiếm đoạt, mua
bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; Điều
278: Tội tham ô tài sản).
Thông qua việc nghiên cứu các yếu tố cấu thành tội phạm trong lĩnh
vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT, các quy định hiện hành của
BLHS, Luật thuế GTGT và căn cứ vào phương thức, thủ đoạn của tội phạm
10
này trong thực tiễn, chúng ta có thể hiểu: Tội phạm trong lĩnh vực mua, bán,
sử dụng trái phép hoá đơn GTGT là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện bằng thủ đoạn mua, bán, sử dụng
trái phép hoá đơn GTGT nhằm hưởng lợi bất hợp pháp. Tính nghiêm trọng và
nguy hiểm của tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn
GTGT là chúng xâm phạm đến nhiều khách thể đang được BLHS bảo vệ.
Từ những vấn đề nhận thức trên có thể rút ra đặc điểm pháp lý đặc
trưng của tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT
như sau:
- Khách thể của tội phạm: Tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến không
chỉ quan hệ sở hữu mà còn xâm phạm đến chính sách đúng đắn của Nhà nước
trong việc thực hiện Luật thuế GTGT, xâm phạm đến TTQLKT của Nhà nước
thông qua đó xâm phạm tài sản Nhà nước.
- Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT được thể hiện
bằng các thủ đoạn cụ thể như sau:
+ Thành lập DN, nhưng không tổ chức sản xuất, kinh doanh hoặc hoạt
động dịch vụ. Mục đích để mua, bán hoá đơn GTGT kiếm lời rồi giải tán DN
hoặc chuyển địa điểm đi nơi khác mà không thông báo các cơ quan chức năng
quản lý nhà nước.
Lợi dụng sự thông thoáng của Luật DN và sơ hở trong công tác đăng
ký DN, công tác hậu kiểm, một số đối tượng nghiện ma tuý, đối tượng tù tha
về, đối tượng trong diện cấm không được kinh doanh các ngành nghề theo
luật định nhưng vẫn được cấp phép thành lập DN sau đó mua, bán hoá đơn
GTGT nhằm hưởng lợi bất hợp pháp, đồng thời, tạo điều kiện cho các DN
khác lừa đảo chiếm đoạt tiền Nhà nước; một người thành lập nhiều DN ở một
hoặc hai, ba địa phương khác nhau hoặc cho người thân (vợ hoặc chồng, con),
11
thậm chí cả những người làm thuê đứng tên làm giám đốc công ty, DN để
mua, bán hoá đơn GTGT. Có trường hợp mượn giấy chứng minh nhân dân, sổ
hộ khẩu hoặc thuê người khác, cả xe ôm, đạp xích lô đứng tên thành lập DN.
Các “DN ma” nêu trên thực hiện các thủ đoạn mua, bán hoá đơn
GTGT, ghi giá hàng hoá trên hoá đơn GTGT không đúng thực tế, tạo điều
kiện cho DN, cá nhân khác, trong đó có cả DNNN mua hoá đơn GTGT và sử
dụng trái phép hoá đơn đó để hợp pháp hoá các chứng từ khống trong mua
sắm vật tư thiết bị, tài sản dùng vốn ngân sách nhà nước để tham ô, lừa đảo,
trốn thuế.
+ Mua, bán hoá đơn GTGT, kê khống hàng hoá xuất khẩu: Bán hoá
đơn GTGT cho các DN, các cơ sở kinh doanh để các đơn vị này kê khai bán
hàng khống rồi xin hoàn thuế nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Lợi dụng các quy định về thuế suất hàng xuất khẩu đối với các mặt
hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản bằng không, các đối tượng đã móc nối với các
Cty TNHH, DNTN ký các hợp đồng mua bán hàng khống, mua bán hoá đơn
GTGT để hợp pháp hoá việc mua bán hàng hoá trong nội địa, sau đó móc nối
với cán bộ Hải quan tại các cửa khẩu, lấy danh nghĩa các DN xuất khẩu làm
thủ tục xuất khống để hoàn thiện hồ sơ xin hoàn thuế.
Lợi dụng các quy định về mua hàng hoá của những người trực tiếp sản
xuất chỉ cần bảng kê nguồn hàng thu mua trôi nổi mà không cần phải có xác
nhận nguồn hàng, các đối tượng đã kê khống các bảng kê này, xuất bán hoá
đơn lòng vòng qua nhiều DN ở nhiều địa phương khác nhau nhằm che giấu
nguồn gốc hàng hoá, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, xác minh và điều
tra xử lý của các cơ quan chức năng khi bị phát hiện.
+ Hợp pháp hoá hàng buôn lậu:
Các đối tượng đã nhập lậu hàng hoá để trốn thuế nhập khẩu, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế GTGT, móc nối với các DN tại biên giới đóng một phần
12
thuế và mua hoá đơn của các DN, dùng hoá đơn này để vận chuyển hàng vào
nội địa, tránh sự kiểm tra của các cơ quan chức năng. Thủ đoạn chính là chỉ
ghi số lượng hàng hoá trên liên 2 của hoá đơn GTGT- liên giao cho khách
hàng và người mua hàng là tư nhân hoặc các hộ buôn bán nộp thuế khoán.
Nếu bị kiểm tra trên đường vận chuyển, chúng thông báo kịp thời cho DN bán
hoá đơn GTGT ghi đúng nội dung như đã viết trong liên hoá đơn giao cho
khách hàng. Sau khi vận chuyển và tiêu thụ xong, chúng huỷ hoá đơn và ghi
nội dung khác với giá trị thấp vào các liên lưu tại DN.
+ Lợi dụng việc quản lý, sử dụng hoá đơn GTGT, hoá đơn bán hàng để
trốn thuế:
Lập hoá đơn chênh lệch giữa các liên hoá đơn (trị giá hàng hoá dịch vụ
liên giao cho khách hàng cao hơn giá trị hàng hoá dịch vụ liên lưu tại đơn vị)
để giấu doanh thu. Bán hàng không lập hoá đơn để giấu doanh thu, giấu thu
nhập. Sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn của các đơn vị khác (xin, mua, chiếm
đoạt…) hoặc hoá đơn đã báo mất, đã hết hiệu lực sử dụng để hợp lý hoá hành
vi trốn thuế. Tẩy xoá (dùng hoá chất hoặc tẩy cơ học) hoá đơn do Bộ Tài
chính phát hành đã sử dụng để nâng giá hàng hoá hoặc giảm giá hàng hoá
nhằm giấu doanh thu,…
Các DN nhập khẩu đã thông đồng với các đối tác nước ngoài hạ giá trị
thực tế hợp đồng nhập khẩu, hoặc thông qua việc nhập khẩu hàng tạm nhập
tái xuất để trốn thuế nhập khẩu, thuế GTGT…
Để trốn thuế thu nhập DN, ngoài các thủ đoạn mua, bán hoá đơn GTGT
để nâng phần chi phí trong sản xuất kinh doanh, các DN đã mua hoá đơn
GTGT của các “DN ma”, nâng giá trị của hàng hoá xấp xỉ với giá của thị
trường, làm thủ tục bán hàng lòng vòng qua nhiều DN khác nhau để giấu đầu
vào, triệt tiêu lợi nhuận trong kinh doanh, chẳng hạn như việc ghi giá bán
13
hàng trên hoá đơn thấp hơn giá trị thực tế thanh toán xảy ra trong nhiều lĩnh
vực, mặt hàng…
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT là
một loại tội phạm có tính chất vụ lợi, thuộc các tội xâm phạm sở hữu, xâm
phạm TTQLKT, xâm phạm trật tự quản lý hành chính, xâm phạm về chức vụ
của BLHS. Cũng như các tội phạm có tính chất vụ lợi, chiếm đoạt khác, tội
phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT thực hiện do
lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi mua, bán, sử dụng trái
phép hoá đơn GTGT để hưởng lợi bất chính là nguy hiểm cho xã hội, gây
thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong
muốn cho hậu quả tác hại xảy ra để nhằm thoả mãn mục đích vụ lợi của mình.
- Chủ thể của tội phạm: Ngoài dấu hiệu là người có đủ điều kiện chung
của chủ thể (năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi). Thông thường hành vi
phạm tội trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT do những
người có nghiệp vụ về quản lý kinh tế- tài chính, có trách nhiệm quyền hạn
trong các DN thực hiện. Hoặc, những người thoái hoá biến chất trong các cơ
quan có trách nhiệm liên quan như cơ quan Thuế, Hải quan tiếp tay cho các
đối tượng trên thực hiện, hoặc bất kỳ ai có đủ điều kiện chung của chủ thể
đồng phạm với hành vi phạm tội trên đây.
Tóm lại, tội phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn
GTGT là một loại hành vi phạm tội mới phát sinh từ khi Nhà nước ta ban
hành và thực hiện Luật thuế GTGT. Việc nghiên cứu và nắm chắc dấu hiệu
pháp lý, đặc điểm hình sự của loại tội phạm này có ý nghĩa quan trọng đối với
lực lượng Công an tỉnh Tiền Giang nói riêng và lực lượng CAND nói chung
trong phát hiện, điều tra nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác phòng
ngừa và xử lý người phạm tội đúng pháp luật.
14
1.1.3. Những quy định của pháp luật đối với tội phạm trong lĩnh vực
mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT
Để góp phần đấu tranh có hiệu quả với tội phạm trong lĩnh vực mua,
bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT, lực lượng CSĐT tội phạm về
TTQLKT và CV cần nắm vững nội dung các văn bản pháp luật liên quan đến
việc thực hiện Luật thuế GTGT; vì đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng đầu
tiên đảm bảo cho việc phát hiện, điều tra có hiệu quả với loại tội phạm này,
những nội dung đó là:
- Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-TANDTC-VKSNDTC-
BTP ngày 23/11/2004 của BCA, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Tư pháp
về hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua, bán,
sử dụng trái phép hoá đơn GTGT.
- Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 21/2004 nêu trên, trong
BLHS năm 1999 có 06 tội danh mà theo đó các hành vi tội phạm trong lĩnh
vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT sẽ bị xử lý gồm: Điều 139:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 153: Tội buôn lậu; Điều 161: Tội trốn
thuế; Điều 181: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có
giá giả khác; Điều 268: Tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu
của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; Điều 278: Tội tham ô tài sản. Tùy từng
cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội cụ thể để vận dụng xử lý theo tội
danh nào cho phù hợp, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật tránh khởi tố
oan nhưng không để lọt người phạm tội.
Như vậy, việc nắm vững những nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT,
quy định của BLHS và Thông tư liên tịch số 21/2004 về tội phạm trong lĩnh
vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT là cơ sở pháp lý quan trọng
giúp cho lực lượng CSND nói chung, Công an tỉnh Tiền Giang nói riêng phát
hiện, điều tra có hiệu quả với tội phạm này. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các
15
quy định hiện hành về thuế GTGT có liên quan đến hoạt động điều tra tội
phạm trong lĩnh vực mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT, chúng ta
cũng cần nghiên cứu đến các quy định trước đây về các trường hợp này. Vì
chính tại thời điểm đó bọn tội phạm đã lợi dụng các sơ hở trong chính sách đã
được ban hành để thực hiện tội phạm.
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM HỌC
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa tội
phạm học và các môn khoa học khác.
1.1 Khái niệm.
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới phục vụ lợi ích xã
hội, loài người đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và
xã hội. Điều đó là cơ sở nảy sinh và phát triển nhiều ngành khoa học khác
nhau.
Đã từ lâu, vấn đề đấu tranh ngăn chặn tiến tới làm giảm và loại trừ tội
phạm đã trở thành một trong những mối quan tâm chú ý của các Nhà nước
dưới mọi chế độ chế độ xã hội khác nhau. Để đấu tranh có hiệu quả đối với
các loại tội phạm – hiện tượng xã hội tiêu cực và phức tạp, đòi hỏi con người
cần phải không ngừng nghiên cứu để nhận thức đầy đủ về hiện tượng này. Tội
phạm là gì? Nó được hình thành phát triểnvà tồn tại theo những quy luật nào?
Để đấu tranh với nó cần phải tiến hành bằng những phương pháp tác động ra
sao?...Công việc đó được tiến hành gắn liền với thực tế đấu tranh chống tội
phạm ở mỗi quốc gia, qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Kết quả của
quá trình đó đem laị cho loài người những tri thức phong phú cần thiết về hiện
tượng tội phạm và những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh chống tội
phạm.
Những tri thức và kinh nghiệm về tội phạm và phương pháp phòng
chống tội phạm ngày càng được tích luỹ đầy đủ. Bước đầu được phản ánh tản
16
mạn riêng lẻ, sau đó được đúc rút hệ thống lại và được nghiên cứu tỉ mỉ sâu
sắc hơn trong các tài liệu chuyên khảo của các ngành khoa học pháp lý, khoa
học xã hội. Trong điều kiện các lĩnh vực khoa học phát triển, mạnh mẽ theo
hướng chuyên sâu, vấn đề nghiên cứu về tội phạm và biện pháp đấu tranh
chống tội phạm được nâng lên và tách riêng thành bộ môn khoa học độc lập
chuyên nghiên cứu về những quy luật hình thành, phát sinh phát triển của tội
phạm cùng với các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại bỏ và hạn chế
sự tác động của hiện tượng này. Như vậy, ngành khoa học nghiên cứu về tội
phạm đã ra đời và phát triển.
Xem xét về thuật ngữ, các nhà nghiên cứu thấy rằng: “Tội phạm học”
là một cụm từ ghép bao gồm: Crimin: tội phạm (theo ngôn ngữ la tinh) và
Logos có nghĩa là: Học thuyết hoặc khoa học (theo tiếng Hy Lạp). Vậy tội
phạm học có nghĩa là “học thuyết về tội phạm” hay “khoa học nghiên cứu về
tội phạm”. Tuy nhiên, nếu nói là “nghiên cứu về tội phạm” thì nhiều ngành
khoa học nghiên cứu về vấn đề này, như: khoa học luật hình sự, khoa học luật
tố tụng hình sự, Điều tra hình sự, tâm lý học, xã hội học…Vì vậy, cá nhà
nghiên cứu tội phạm học xác định phạm vi nghiên cứu của tội phạm học được
giới hạn bởi đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là:
- Tình trạng tội phạm.
- Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
- Nhân thân người phạm tội
- Biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm về Tội phạm hộc như sau:
Tội phạm học là ngành khoa học, nghiên cứu về tội Tình trạng tội
phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của tình trạng tội phạm
và các loại tội phạm cụ thể, nghiên cứu nhân thân người phạm tội và các biện
17
pháp phòng ngừa ngăn chặn nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
Trong điều kiện phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta,
Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí quan trọng đặc biệt của công cuộc bảo vệ
vững chắc nền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đấu tranh kiên quyết
và triệt để chống các loại tội phạm hình sự. Điều đó đang đặt ra những nhiệm
vụ nặng nề cho các nhà nghiên cứu và cán bộ thực tế trong nghiên cứu tội
phạm, xây dựng phương pháp đấu tranh ngăn chặn một cách có hiệu quả với
chúng. Nghiên cứu và phát triển hoàn thiện khoa học tội phạm là vấn đề có ý
nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống các loại tội phạm hình sự, giữ
vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
1.2 Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.
Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đó là
những quy luật tác động trong lĩnh vực mà ngành khoa học đó cần nghiên
cứu. Tội phạm học với tư cách là môn khoa học độc lập, vì vậy cũng có đối
tượng nghiên cứu riêng. Đó là những sự vật hiện tượng liên quan đến hoạt
động tội phạm và phòng ngừa tội phạm.
Trong các tài liệu Tội phạm học của nhiều nước trên thế giới đã được
xác định và phân loại thành những nhóm đối tương nghiên cứu như: nghiên
cứu tội phạm là hiện tượng của xã hội; nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân
thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Có thể xác nhận rằng việc định
ra đối tượng nghiên cứu của tội phạm như vậy là đúng đắn, bởi vì điều đó
phản ánh được khái quát nội dung nghiên cứu của vấn đề về tội phạm theo
một trình tự hệ thống bao hàm được đầy đủ những vấn đề phản ánh quy luật
hoạt động nhận thức về hiện tượng tội phạm, từ việc xác định khái niệm tội
phạm, phạm vi tình trạng, cấu trúc tội phạm và diễn biến của nó, đến việc đi
sâu nghiên cứu nguyên nhân, điều kiên của tình trạng này, cúng như về nhân
18
thân người phạm tội, tất cả điều đó nhằm đến mục đích là nghiên cứu tìm tòi
biện pháp, phương tiện phòng ngừa tội phạm. Cách xác định như trên còn cho
thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung của các nhóm đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề này có tác dụng ảnh hưởng với vấn đề khác trong hệ
thống các đối tượng đã nêu, vì vậy để thấy rằng các nhóm đối tượng nghiên
cứu trên có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau và không cho
phép người nghiên cứu coi nhẹ đối tượng nghiên cứu nào trong việc nghiên
cứu soạn thảo các vấn đề về Tội phạm học. Trong lý luận Tội phạm học người
ta gọi bốn nhóm đối tượng nghiên cứu đó là bốn bộ phận cấu thành cơ bản
hoặc bốn nhóm hiện tượng xã hội cần phải nghiên nghiên cứu trong khoa học
tội phạm.
Các đối tượng nghiên cứu và nội dung cơ bản của Tội phạm học bao
gồm:
2.1.1 Tình trạng tội phạm.
Tình trạng tội phạm là hệ thống các sự kiện phạm tội cụ thể được diễn
ra trong hệ thống quốc gia hoặc khu vực trong một thời gian nhất định. Như
vậy có nghĩa là xem xét mhư một hiện tượng xã hội nhằm nắm vững bản chất
của nó cũng như các yếu tố cấu thành có tính đặc trưng của hiện tượng xã hội
này.
Đối với nhóm đối tượng này cần phải xoay quanh các nội dung cơ bản
sau:
- Nghiên cứu tình trạng hoạt động của tội phạm, cấu trúc và động thái
của Tình trạng tội phạm nói chung cũng như từng loại tội phạm cụ thể trong
phạm vi cả nước và ở mỗi vùng dân cư. Những nội dung này phản ánh số
lượng và tính chất hoạt động của tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể trong mỗi thời kỳ, mỗi địa phương khác nhau.
19
- Nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa Tình trạng tội
phạm với các hiện tượng và các quá trình xã hội khác (CT,KT, VH, GD…)
hoặc với những hình thức khác nhau của hành vi tiêu cực (lười biếng, suy
thoái về đạo đức, tệ nạn xã hội ).
Nghiên cứu làm rõ những nội dung đã chỉ ra trong nhóm đối tượng
nghiên cứu trên cho phép chúng ta đánh giá một cách khái quát về Tình trạng
tội phạm nói chung trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương cụ thể, đồng
thời có thể đề ra phương hướng chung, biện pháp tổng hợp trong việc phòng
ngừa ngăn chặn tội phạm.
1.2.2. Nguyên nhân nảy sinh tình trạng tội phạm và điều kiện tạo thuận
lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội là một trong những nội dung tất yếu
của sự phát triển và tồn tại trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội.
- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là tổng hợp các sự vật hiện
tượng tiêu cực xã hội tác động đến con người và là hành vi phạm tội. Vì vậy
cần phải xem xét phân loại một cách khoa học các loại nguyên nhân, điều
kiện khách quan, chủ quan, trực tiếp, dán tiếp, chủ yếu thứ yếu, bên trong, bên
ngoài…điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức tội phạm và sử
dụng biện pháp phòng ngừa chúng.
- Cần thiết phải có quan điểm rõ ràng trong phân biệt giữa nguyên nhân
và điều kiện, mối quan hệ tác động giữa nguyên nhân và điều kiện trong quá
trình tác động đến hành vi phạm tội.
- Nghiên cứu tìm ra cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tội
phạm đối với hành vi của con người phạm tội (các yếu tố tiêu cực về kinh tế,
tư tưởng, tâm lý, giáo dục…tác động đến con người như thế nào trong quá
trình đãn đến việc phạm tội).
Trong điều kiện trình độ lý luận về tội phạm ở nước ta hiện nay chưa
được phát triển hoàn hảo, trong việc nghiên cứu và xác định nguyên nhân,
20
điều kiện của Tình trạng tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể còn nhiều vấn
đề cần phải xem xét để đi đến thống nhất quan điểm. Chẳng hạn còn có sự
nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện phạm tội, giữa nguồn gốc tội phạm
và nguyên nhân, điều kiện tội phạm…điều đó dẫn đến việc xem xét đánh giá
vấn đề nguyên nhân và điều kiện tội phạm còn có sự khác nhau. Từ đó cho
thấy, tính cấp bách của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạm
trong khoa học Tội phạm học ở nước ta.
1.2.3. Nhân thân người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu quan trọng của Tội
phạm học. Có thể hiểu khái niệm nhân thân người phạm tội là “những đặc
điểm dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người phạm tội”. Con người
có thể có nhiều loại phẩm chất tính cách khác nhau như tính cách sinh vật
(giới tính, lứa tuổi, chiều cao , cân nặng, màu tóc, màu da…) bản năng động
vất và những phẩm chất tính cách xã hội (quan điểm, trình độ học vấn, tình
trạng gia đình, quan hệ xã hội …)
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các nội dung
sau:
- Nghiên cứu các đặc điểm về xã hội – nhân khẩu học bao gồm giới
tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp….
- Nghiên cứu về phẩm chất đạo đức và tâm lý cá nhân kể phạm tội. Ơ
đây cần đề cập đến các đặc điểm về thái độ đối xử của kể phạm tội và các tổ
chức chính quyền, tổ chức xã hội và những con người xung quanh, đối với
các giá trị tinh thần, đạo đức xã hội …cũng như các yếu tố về trí tuệ, tình
cảm…đặc biệt, nghiên cứu các biểu hiện của nhân cách kẻ phạm tội trong
quá trình sống; hoạt động lao động, công tác xã hội , vai trò cá nhân trong xã
hội , trong đơn vị công tác,trong các nhóm người và với những con người cụ
thể khác, các cơ quan, đơn vị khác.
21
Nghiên cứu các đặc điẻm cá nhân kẻ phạm tội mang tính pháp luật hình
sự. Tính chất hành vi tội phạm, mục đích, động cơ phạm tội, hoạt động cá
nhân hay tổ chức, vai trò trong các tổ chức phạm tội, các tiền án, tiền sự…
- Phân loại nhân thân người phạm tội phục vụ cho công tác phòng ngừa
ngăn chặn hoặc giáo dục người phạm tội.
Tất cả những nội dung trên tạo thành hệ thống các đặc tính thể hiện bản
chất xã hội của con người phạm tội. Nghiên cứu những vấn đề trên có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung
và các loại tội phạm cụh thể, con người cụ thể. Mặt khác nghiên cứu nhân
thân người phạm tội giúp ta đề ra biện pháp phòng ngừa, giáo dục và nâng
cao hiệu quả biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm cụ
thể.
1.2.4. Phòng ngừa tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã hội
hướng đến việc xoá br, hạn chế nguyên nhân, diều kiện tội phạm, ngăn ngừa
kịp thời những hành vi sai lệch của những người có ý định phạm tội. Ơ nhiều
nước trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay phòng ngừa tội phạm đã và
đang trở thành một hoạt động thức tế, có sự tham gia đông đảo của cơ quamn
nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Hoạt động này cần thiết phải được
xem xét nghiên cứu một cách khoa học nhằm mục đích ngày càng hoàn thiện
hơn về mật lý luận và các biện pháp tiến hành cụ thể, nâng cao chất lượng của
công tác phòng ngừa tội phạm.
Về mặt lý luận, theo quan điểm hệ thống, phòng ngừa tội phạm được
phân tích, xem xét trên các khía cạnh sau:
- Khái niệm, phạm vi phòng ngừa tội phạm.
- Mục đích, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm cụ thể.
- Nôi dung phòng ngừa tội phạm.
22
- Chủ thể tham gia phòng ngừa tội phạm.
- Phương pháp, biện pháp, phương tiện tiến hành hoạt động phòng
ngừa tội phạm.
- Những hoạt động khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tội phạm: Dự báo tội phạm, thông tin tội phạm, kế hoạch hoá, yếu tố nạn
nhn .
Những bộ phận cấu thành nêu trên tạo nên đối tượng nghiên cứu của
khoa học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động ảnh hưởng lẫn
nhau. Những loại đối tượng nghiên cứu này phản ánh nội dung nghiên cứu tội
phạm nói chung, cúng như khi nghiên cứu từng nhóm, từng loại tội phạm cụ
thể ở mỗi địa phương và trong mỗi thời gian nhất định.
Nếu xem xét các loại đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trong một
tổng thể thì có thể nhận thấy rằng: các loại dối tượng nghiên cứu như Tình
trạng tội phạm, nguyên nhân và điều kiện tội phạm và nhân thân người phạm
tội cho phép xác định tính chất, mức độ tội phạm, nguyên nhân điều kiện của
nó, các quy luật phát sinh, phát triển và tồn tại của tội phạm. Còn đối tượng
nghiên cứu cuói cùng, phòng ngừa tội phạm, là cách thức tác động với tội
phạm, nguyên nhân, điều kiện của nó nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ hiện
tượng này kỏi đời sống xã hội, đó cũng là mục đích nghiên cứu của khoa học
Tội phạm học.
1.3. Hệ thống Tội phạm học.
Quan điểm hệ thống là một trong những quan điểm phổ biến được sử
dụng trong khoa học. Ý nghĩa tác dụng của nó đối với nghiên cứu là giúp cho
chúng ta nghiên cứu và nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống,
lôgíc về nội dung và hình thức của vấn đề, qua đó phát hiện, bổ sung và làm
sáng tỏ những vấn đề trong nội dung nghiên cứu Tội phạm học, giúp chúng ta
nhận thức có hệ thống về môn học này.
23
Hệ thống khoa học tội phạm được xây dựng trên hai cơ sở chính: Theo
đối tượng nghiên cứu và heo mức độ tổng quát các thông tin tư liệu khoa học
và thực tiễn.
a. Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu có thể sắp xếp hệ thống Tội phạm
học theo 4 vấn đề chính:
+ Tình trạng tội phạm.
+ Nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể
+ Nhân thân người phạm tội.
+ Phòng ngừa tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ thể.
Tổng hợp các kiến thức về các mặt nói trên tạo thành môn khoa học
hoàn chỉnh – Tội phạm học.
b. Theo mức độ tổng hợp các thông tin, tài liệu đã được nghiên cứu thu
thập, tích luỹ trong quá trình nghiên cứu, người ta chia toàn bộ môn khoa học
thành 2 phần: Phương pháp lý luận chung (phần chung) và phần lý luận về
các loại tội phạm cụ thể (phần cụ thể).
- Trong phần chung được trình bày các quan điểm, quan niệm, khái
niệm và các vấn đề có liên quan đến Tội phạm học. Ở phần này bao gồn có
các nội dung sau:
+ Khái niệm, đối tượng, hệ thống Tội phạm học.
+ Phương pháp luận trong nghiên cứu Tội phạm học và nhiệm vụ của
nó.
+ Mối quan hệ giữa Tội phạm học và các ngành khoa học khác.
+ Tình hình nghiên cứu và phát triển của Tội phạm học ở Việt nam và
trên thế giới.
+ sự khác nhau giữa Tội phạm học XHCN và Tội phạm học tư sản.
+ Lý luận chung về tình trạng, cấu trúc, động thái tội phạm.
24
+ Lý luận chung về nhân thân người phạm tội.
+ Lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của Tình trạng tội phạm
và tội phạm cụ thể.
+ Vấn đề phòng ngừa tội phạm.
+ Dự báo tội phạm.
+ Thông tin Tội phạm học.
Những vấn đề trên dược trình bày một cách khái quát đi sâu về mặt lý
luận cơ bản có tính hướng dẫn cho việc nghiên cứu cụ thể. Điều đó giúp
chúnh ta nhận thức một cách tổng quát về toàn bộ nội dung môn học trong đó
có các quan điểm, khái niệm cơ bản về các sự vật hiện tượng và quá trình xã
hội liên quan đến Tội phạm học.
Trong phần cụ thể đượch đi sâu nghiên cứu đặc điểm và các biện pháp
phòng ngừa từng loại tội phạm cụ thể. Việc phân chia ra các loại tội phạm cụ
thể để đi sâu nghiên cứu là cần thiết, tuy nhiên các loại tội phạm cụ thể rất đa
dạng. Nếu phân tích chúng để nghiên cứu trong các tài liệu Tội phạm học thì
rất rộng và phức tạp, mặt khác có thể dẫn đến trùng lặp các nội dung nghiên
cứu như đặc điểm tính chất và biện pháp phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, cần
thiết phải tập hợp các loại tội phạm theo từng nhóm có tính chất, mức độ,
hành vi, chủ thể hoặc khách thể xâm hại tương tự giống nhau để nghiên cứu
và soạn thảo biện pháp phòng ngừa cụ thể.
Việc phân chia các nhóm tội phạm để nghiên cứu trong Tội phạm học
có nhiều cách khác nhau.
+ Theo mục tiêu cuộc đấu tranh chống tội phạm đã được đề cập trong
các văn bản tài liệu ở Việt nam, có thể phân chia các nhóm tội phạm: tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội,
tội phạm kinh tế, tội phạm về ma tuý…
25