Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bàn về định tội danh n tội xâm phạm sở hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.84 KB, 9 trang )

Trong lịch sử phát triển, vấn đề lợi ích vật chất luôn là tâm điểm của mọi xung
đột trong xã hội. Bởi vậy, vấn đề bảo đảm quyền sở hữu các lợi ích vật chất cũng luôn
được các nhà nước trên thế giới quan tâm. Ở nước ta, quyền sở hữu được quy định và
bảo hộ trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực: hình
sự, dân sự…
Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua các quy định về
các tội phạm xâm phạm sở hữu. Đây cũng là một trong những nhóm tội được quy
định sớm nhất trong pháp luật hình sự trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng.
Từ khi đất nước ta chuyển đặi nền kinh tế theo cơ chế thị trường, diễn biến của tình
hình tội phạm nói chung, cũng như các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng hết sức
phức tạp và ngày càng có chiều hướng gia tăng, gây thiệt hại lớn về tài sản. Thực tiễn
xét xử các vụ án hình sự cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp phải nhiều
khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt đối với những vụ án mà hành
vi phạm tội của bị can, bị cáo không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách
đặc trưng, rõ ràng. Đối với những vụ án thuộc những trường hợp này, đòi hỏi những
người tiến hành tố tụng phải có trình độ lý luận cơ bản và vững chắc, trên cơ sở đánh
giá, phân tích, tổng hợp từng yếu tố của vụ án, áp dụng các văn bản pháp luật liên
quan một cách chính xác thì mới định tội danh đúng.
Sau đây em xin giải quyết một tình huống cụ thể và một số quan điểm khác
nhau xung quanh việc định tội danh, qua đó sẽ nêu ra một số đặc điểm đặc trưng của
một số tội phạm cụ thể để làm cơ sở phân biệt giữa các tội phạm khác nhau khi định
tội danh đối với một số tội xâm phạm sở hữu.
Đề bài: Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện ra chị B cùng với hai người
bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng
vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng khi cơn say đã hết
chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý
kiến sau đây về tội danh của H và Q :
1
a. H và Q phạm tội cướp tài sản;
b. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;
c. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.


Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích.
Bài làm:
a. Ý kiến cho rằng H và Q phạm tội cướp tài sản là sai. Vì:
Trong tình huống trên hành vi của H và Q không thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu pháp lý
của tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS), cụ thể là dấu hiệu pháp lý về mặt khách quan
của tội này.
Theo Điều 133 BLHS thì cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Như vậy theo quy định của Điều
133 BLHS thì có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp
tài sản. Đó là:
- Hành vi dùng vũ lực.
Hành vi dùng vũ lực là hành vi dùng sức mạnh vật chất để tấn công người bị hại, có
thể gây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của người bị hại, làm tê liệt sự phản kháng
của họ. (Ví dụ: đánh, đấm, đâm, chém, bắn người bị hại). Việc dùng vũ lực có thể
công khai, cũng có thể là bí mật, lén lút (Ví dụ: đánh công khai trước mặt người bị
hại, đánh sau lưng người bị hại để họ không biết ai đánh).
- Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.
Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi đe doạ dùng ngay lập tức sức
mạnh vật chất. Việc đe doạ này nhằm làm cho người bị tấn công hoặc người thân của
họ tin và sợ sẽ bị nguy hại ngay đến sức khoẻ, tính mạng nếu không chịu khuất phục,
nhằm làm tê liệt ý chí kháng cự của họ. Thực tế, việc đe doạ dùng vũ lực ngay tức
khắc thường được kết hợp với thái độ, cử chỉ, lời nói, công cụ phương tiện có trên tay
hoặc tương quan lực lượng như đông người đe doạ một người, lợi dụng hoàn cảnh
2
khách quan, thời gian, tình hình xã hội nơi và lúc xảy ra hành vi để tạo nên cảm giác
lo sợ của người bị tấn công.
- Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được.
Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được

là các hành vi như cho người bị hại uống thuốc ngủ, thuốc mê, uống rượu để họ ngủ,
say nhằm chiếm đoạt tài sản. Người bị tấn công có thể biết sự việc xảy ra nhưng
không thể thực hiện được hành vi chống trả hoặc không nhận thức được sự việc đang
xảy ra.
Tội cướp tài sản có CTTP hình thức nên chỉ cần thực hiện một trong các hành vi nói
trên nhằm chiếm đoạt tài sản là tội phạm đã hoàn thành, không kể người phạm tội có
chiếm đoạt được tài sản như mong muốn hay không.
Trong tình huống trên hành vi của H và Q chỉ là lấy đi số nữ trang trên người chị B
mà không hề có bất cứ hành vi nào như các hành vi đã phân tích ở trên. H và Q không
sử dụng vũ lực với chị B, không đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc với chị B và cũng
không có hành vi tấn công chị B làm chị B lâm vào tình trạng không thể chống cự
được. Như vậy hành vi của H và Q không thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách quan của
tội cướp tài sản do đó ta không cần phải xét đến dấu hiệu về khách thể, chủ thể, mặt
chủ quan của tội phạm nữa mà ta có thể đi đến kết luận là H và Q không phạm tội
cướp tài sản. Chính vì thế khẳng định H và Q phạm tội cướp tài sản là sai.
b. Ý kiến cho ràng H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là kh¼ng định
sai. Vì:
Hành vi của H và Q không thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu pháp lý của tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản (Đ137 BLHS) , cụ thể là dấu hiệu pháp lý về mặt khách
quan của tội này.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không được mô tả trong Điều 137 BLHS nhưng
qua thực tiễn xét xử thì có thể hiểu công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng
chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ.
3
- Mặt khách quan của tội phạm: Do đặc điểm riêng của tội này nên người phạm tội
chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt” nhưng bằng hình thức
công khai với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào
hoàn cảnh khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh…
Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản gồm có các đặc điểm sau:
+ Hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội thực hiện khi chủ quản lý tài sản

hoặc chủ sở hữu về tài sản do hoàn cảnh khách quan mà không thể bảo vệ được tài
sản của mình hoặc không ngăn cản được hành vi chiếm đoạt tài sản của người
phạm tội.
+ Người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai.
+ Sau khi chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội có thể có thêm hành vi nhanh
chóng tẩu thoát. Mặc dù hành vi này không bắt buộc phải có nhưng có thể xảy ra.
Tính chất công khai, trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan nhưng lại là
một đặc điểm cơ bản đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếm
đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó
là công nhiên với mọi người xung quanh. Ta thấy về hành vi phạm tội, thì hành vi
chiếm đoạt tài sản là hành vi có tính chất chiếm đoạt. Đây là dấu hiệu bắt buộc đòi hỏi
người phạm tội phải có hành vi chiếm đoạt. Như vậy hành vi chiếm đoạt không còn là
mục đích hành động mà phải được thực hiện trong thực tế.
Trong tình huống trên hành vi của H và Q thoạt nhìn tưởng như là công khai
nhưng thực chất hành vi này không hề mang tính chất công khai theo như mô tả ở
trên bởi H và Q đều có hành vi che giấu việc thực hiện tội phạm. H và Q có công
nhiên đối với tài sản nhưng lại có ý định che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của
mình với chủ sở hữu tài sản là chị B và mọi người xung quanh mà cụ thể ở đây là
những người bạn của chị B. Việc chiếm đoạt tài sản của H và Q không công khai
nhưng do hoàn cảnh khách quan thuận lợi là trời tối vắng vẻ, chị B và những người
bạn đều trong tình trạng say không biết gì đang xảy ra nên không có điều kiện
ngăn cản. Tuy vậy H và Q cũng vẫn cần và có ý định đối phó nếu hành vi chiếm
đoạt tài sản của mình bị phát giác. Hành vi của H và Q là nhanh chóng chiếm đoạt
4
và nhanh chóng lẩn trổn. Như vậy hành vi của H và Q không thỏa mãn dấu hiệu về
mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản do đó ta không cần phải xét
đến dấu hiệu về mặt khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm nữa mà ta có
thể đi đến kết luận là H và Q không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Vì
vậy mà khẳng định H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là khẳng định
sai.

3. Ý kiến cho rằng H và Q phạm tội trộm cắp tài sản là đúng. Vì:
Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ. Ta thấy
hành vi phạm tội của H và Q đã thỏa mãn các dấu hiệu được quy định trong cấu thành
tội phạm của tội trộm cắp tài sản, cụ thể là:
- Chủ thể của tội phạm: Đối với tội trộm cắp tài sản thì chủ thể của tội phạm cũng
giống như đối với các tội xâm phạm sở hữu khác đều là chủ thể thường tức là đủ năng
lực chịu trách nhiệm hình sự (Điều13 BLHS) và đạt độ tuổi luật quy định (Điều12
BLHS).
Ở đây đề bài không nêu H và Q có dấu hiệu hạn chế về năng lực hành vi, mắc
bệnh tâm thần… và độ tuổi nên ta mặc nhiên coi H và Q đã đủ tuổi và không ở trong
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như
những tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm
đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây cũng là một điểm
khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài
sản,®Æc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản. Điều luật
không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt vì
vậy nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản người phạm tội bị đuổi bắt có hành vi
chống trả để tẩu thoát gây chết người, gây thương tích thì tùy từng trường hợp mà bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội trên.
Trong trường hợp đề bài nêu thì H và Q cũng chỉ có hành vi xâm phạm đến
quan hệ sở hữu. Vì khi lấy tài sản thì chủ sở hữu tài sản là chị B và các bạn của chị
5

×