Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.45 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Pháp luật nước ta đã quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Để thực hiện tốt chức năng xét xử của mình thì
mọi hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của tòa án thì mọi hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của bộ luật
Tố Tụng Hình Sự khi tiến hành giải quyết các vụ án Hình sự. Cụ thể là khi
tiến hành giải quyết các vụ án hình sự thì phải tuân thủ những quy định của
bộ luật tố tụng hình sự về những vấn đề liên quan dến quá trình giải quyết vụ
án hình sự nói chung và những quy định trong quá trình xét xử nói riêng. Một
trong những nguyên tắc quan trọng bậc nhất được quy định trong điều 16 bộ
luật tố tụng hình sự để đảm bảo cho việc xét xử của toàn án được đúng người
đúng tội đúng pháp luật là “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”.Và theo điều 130 Hiến Pháp năm 1992 cũng có quy định
“ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Như
vậy Bộ luật tố tụng hình sự đã ghi lại nội dung này và lấy nó làm một trong
những nguyên tắc xét xử. Nội dung của nguyên tắc này còn được ghi nhận tại
Điều 5 của luật tổ chức tòa án Nhân dân năm1992, điều 3 pháp lệnh về Thẩm
phán và Hội thẩm tòa án nhân dân.
Nguyên tắc này được hiểu là:
Khi xét xử bất kỳ một vụ án nào, ở bất kỳ cáp xét xử nào nếu được phân công
làm chủ tọa hay tham gia hội đồng xét xử thẩm phán và hội thẩm không phụ
thuộc vào bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong việc đưa ra các ý kiến và phán
quyết của mình về vụ án;
Căn cứ duy nhất mà thẩm phán và hội thẩm dựa vào để xét xử là pháp luật.
1
NỘI DUNG
Ở nước ta trong tất cả các bản hiến pháp từ hiến pháp năm 1946, 1959,
1980,1992 đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung đều có các điều luật quy
định tòa án là cơ quan xét xử. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, hệ
thống tòa án của nước ta ngày càng được củng cố, hoàn thiện và cho tới ngày
nay, tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân


sự, kinh tế, hành chính, lao động. Đoạn một điều 127 Hiến pháp năm 1992
sửa đổi bổ sung quy định “tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa
phương,các tòa án quân sự và các toàn án khác do luật quy định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, và tòa án
thực hiện chức năng xét xử thông qua các thẩm phán và hội thẩm. Khi được
chánh án phân công thẩm phán và hội thẩm trở thành người tiến hành tố tụng
và có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến vụ án được giao. Khi
thực hiện công việc xét xử, cùng với việc tuân thủ các nguyên tắc khác nhau
của tố tụng, thẩm phán và hội thẩm phải tuân thủ nguyên tắc “Khi xét xử
thẩm phán và hội thẩm hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là
một nguyên tắc Hiến định được quy định tại điều 130 Hiến pháp năm 1992
vừa là nguyên tắc của các hình thức tố tụng như tố tụng hình sự, tố tụng dân
sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động, tố tụng kinh tế và là một trọng tâm
của luật tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu và tìm hiểu nội dung của nguyên tắc
này không chỉ có ý nghĩa với các cơ quan và cán bộ làm công tác pháp luật
mà còn cần thiết đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và
mọi công dân vì nó đảm bảo cho thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá
trình xét xử không bị ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác ngoài pháp luật
đồng loại trừ mọi sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Tòa án.
Mặt khác việc tìm hiểu và nắm vững nguyên tắc này tạo điều kiện cho tòa án
giải quyết vụ án đúng người đúng tội đúng pháp luật chống được các biểu
2
hiện tiêu cực nhằm từng bước thực hiện công bằng xã hội trong tố tụng hình
sự.
Nguyên tắc “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được quy định trong hiến pháp của
Nhà nước ta mà còn được quy định trong hiến pháp của nhiều nước trên Thế
Giới. Tuy việc quy định có khác nhau về hình thức nhưng về nội dung thì cơ
bản là giống nhau. Điều 88 Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên quy định: “ Trong khi thi hành chức quyền của mình, các thẩm phán đều

độc lập và chỉ phục tùng pháp luật”. Điều 127 Hiến pháp nước Cộng hòa dân
chủ Đức cũ (năm 1949) quy định: “ Thẩm phán độc lập khi xét xử, chỉ tuân
theo Hiến pháp và pháp luật”. Khoản 1 Điều 97 Hiến pháp nước Cộng hòa
liên bang Đức năm 1959 quy định: “Thẩm phá xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”.
Ở Việt Nam, nguyên tắc “ Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có lich sử hình thành và phát triển từ lâu.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, ngày 24/1/1946 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán,
trong đó có quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính, các
quy định thẩm phán sẽ chỉ trong pháp luật và công lý. Các cơ quan khác
không được can thiệp vào tư pháp. Mỗi thẩm phán quyết định theo pháp luật
và lương tâm của mình không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián
tiếp vào công việc xử án”. Mặt khác, Sắc lệnh số 13/SL còn quy định “Các
phụ thẩm nhân dân có bổn phận lấy lý trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng
ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một các công bằng, không vì nể, vì sợ một
thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực hay làm hại ai”
Điều 69 Hiến pháp năm 1946 cũng quy định “Trong khi xét xử các thẩm phán
chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Những quy
định trên ít nhiều đã thể hiện được phần nào nội dung của nguyên tắc “ Khi
xét thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp
3
năm 1959 ra đời nguyên tắc này chỉ được ghi nhận một cách rõ nét hơn: “Khi
xét xử tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều
100 Hiến pháp năm 1959 và điều 4 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960).
Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất về mặt nhà nước, năm 1980 Hiến
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Trên cơ sở hiến
pháp năm 1980, luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981 và Bộ luật tố tụng
hình sự được ban hành. Nguyên tắc này được khẳng định cụ thể hơn: “ Khi
xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12
năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Hiến pháp năm 1992 ra đời, một lần nữa nguyên tắc này được khẳng định một
cách rộng rãi hơn ( Điều 130 Hiến pháp 1992, Điều 5 luật tổ chức tòa án nhân
dân năm 1992 và Điều 3 pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm nhân dân).
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC
Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khi xét xử tòa án không nhân danh mình mà nhân danh Nhà nước để tuyên
một bản án kết tội hay không két tội bị cáo. Vì thế Điều 10 Bộ luật tố tụng
hình sự quy định: “ Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Hoạt động xét xử
là hoạt động có tính đặc thù và chỉ do tòa án thực hiện, quyết định của tòa án
được đặc trưng bởi tính “dứt điểm” của nó. Do đó yêu cầu tối cao và cũng là
cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn
diện đầy đủ; đúng người đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm,
không xử oan người vô tội.
Nguyên tắc “ Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” được thể hiện ở các khía cạnh sau:
4
1. Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc
vào các quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Tức
là độc lập với hồ sơ vụ án độc lập với bản cáo trạng và quyết định truy tố
của Viện kiểm sát.
Thẩm phán và hội thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ
đã được xem xét tại phiên tòa thông qua điều tra trực tiếp nghe tranh luận của
các bên, đồng thời căn cứ vào các quy địn của pháp luật để quyết định bản
án, không phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về việc
xác định có tội hay không và hình phạt cần áp dụng mà hội đồng xét xử phải
tự mình nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp với những chứng cứ mới

thu được tại phiên tòa xét xử để có kết luận về từng vấn đề một cách khách
quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được làm sáng tỏ.
Thẩm phán và hội thẩm được giao giải quyết vụ án không thể ra ngay quyết
định hay bản án xác địn bị cáo có tội hay không có tội, hoặc dựa theo chứng
cứ và những tình tiết đã được cơ quan điều tra, viện kiểm sát sử dụng để
chứng minh tội phạm và người phạm tội, mà hội đồng xét xử độc lập xem xét,
tiến hành mở phiên tòa xét xử. Thông qua xét xử để điều tra, xác định các tài
liệu, chứng cứ của vụ án, thể hiện quan điểm của hội đồng xét xử mà không
phụ thuộc kết luận điều tra ban đầu của cơ quan điều tra, ý kiến của viện kiểm
sát hay bất cứ một tác động nào khác.
2. Sự độc lập giữa tòa án cấp trên và tòa án cấp dưới.
Tòa án cấp trên không quyết định trước là Tòa án cấp dưới phải xét xử một vụ
án cụ thể như thế nào. Theo các quy định của Hiến pháp năm 1992 và luạt tổ
chức tòa án nhân dân 1992 thì hệ thống cơ quan xét xử của nhà nước ta được
tổ chức theo một hệ thống dọc từ Trung ương tới địa phương ( Điều 127 Hiến
pháp điều 2 luật tổ chức tòa án nhân dân). Trong hệ thống đó tòa án nhân dân
Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Tuy nhiên tính “cao nhất” ở đây không
đồng nghĩa với sự chỉ huy tuyệt đối. Trong tất cả các quy định về tổ chức và
5
hoạt động của hệ thống Tòa án không có bất kỳ một quy định nào về chỉ huy
và phục tùng trong hoạt động nghiệp vụ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp
dưới. Tính “cao nhất” của Tòa án nhân dân Tối cao trong hệ thống cơ quan
xét xử của nước ta thể hiện ở chỗ “ Tòa án nhân dân Tối cao Giám đốc việc
xét xử của các tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự. Tòa án
nhân dân Tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án đặc biệt và các tòa án khác
trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập tòa án đó (Điều 134
Hiến pháp 1992)
3. Sự độc lập giữa thẩm phán và hội thẩm khi xét xử thể hiện giữa các
trình tự xét xử.
Quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn

khác nhau. Mỗi giai đoạn thể hiện một hướng nhất định của hoạt động tố
tụng. Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của từng cơ
quan tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm trong một
quan hệ khăng khít và tạo thành một hoạt động thống nhất.
Nhiệm vụ của cơ quan điều tra là xác định tội phạm và người thực hiện hành
vi phạm tội, đây là vấn đề cơ bản phải làm rõ trong vụ án hình sự. Trong giai
đoạn thu thập phải làm rõ có hay không có sự việc phạm tội, đối chiếu với bộ
luật hình sự xem hành vi phạm tội thuộc vào điều khoản nào. Khi đã xác định
có tội phạm xảy ra, cơ quan điều tra phải làm rõ ai là người thực hiện hành vi
phạm tội. Xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, xác định nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp
khắc phục và ngăn ngừa. Nếu có đủ chứng cứ để chứng minh tội phạm và
người phạm tội thì hoàn thành hồ sơ vụ án chuyển sang viện kiểm sát cùng
với quyết định điều tra.
Khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, viện kiểm sát xem xét
toàn bộ hồ sơ vụ án từ thủ tục tố tụng đến phần các chứng cứ và phần các vấn
đề khác có liên quan đến hồ sơ vụ án, nếu thấy đủ chứng cớ để truy tố bị can
trước tòa bằng bản cáo trạng. Bản cáo trạng giới hạn việc xét xử của tòa án
6
tạo điều kiện để tòa án chỉ xem xét bị cáo, những hành vi theo tội danh đã nêu
trong bản cáo trạng, mà không phải xét xử những người, những tội không có
trong cáo trạng.
Như vậy mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có sự độc lập của nó, trên cơ sở những
chứng cứ và những tình tiết của vụ án để tự mình ra một quyết định theo thẩm
quyền. Tuy nhiên, giai đoạn trước làm tiền đề cần thiết cho việc thực hiện
nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Cứ kết
thúc một giai đoạn lại phải có kết luận đưới hình thức văn bản tố tụng để giải
quyết vụ án hay chuyển vụa án sang giai đoạn kế tiếp. Hồ sơ qua giai đoạn
điều tra, đến khi có quyết định truy tố bị can trước tòa là một quá trình được
làm hết sức chặt chẽ và nghiêm túc, theo đúng quy định của pháp luật, thể

hiện quan điểm của từng cơ quan tố tụng. Đến đây các tài liệu, chứng cứ sử
dụng chứng minh trong vụ án đã đáng tin cậy, nhưng cũng chỉ được coi là kết
quả điều tra ban đầu, còn kết quả điều tra tại phiên tòa mới được coi là chính
thức và được sử dụng cho kết luận của bản án. Vì thế hội đồng xét xử không
được coi tài liệu, chứng cứ đã qua hai cơ quan tiến hành tố tụng là đã được
kiểm tra, xác minh chính xác, nên có thể không cần điều tra tại phiên tòa mà
sử dụng ngay làm căn cứ cho bản án. Sau khi tiếp nhận hồ sơ cùng bản cáo
trạng từ viện kiểm sát chuyển qua, tòa án thụ lý vụ án phân công thẩm phán
chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vu án. Nếu nhạn thấy có thể đưa vụ án ra
xét xử thì phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
cũng phải đảm bảo thời gian nhất định theo quy định của pháp luật, đủ để chủ
tọa phiên tòa nắm chắc về vụ án. Trong thực tế đã từ lâu hình thành một lề lối
làm việc trong các tòa án gọi là duyệt án. Tất cả cá vụ án, trước khi được đem
ra xét xử công khai đều phải được duyệt trước. Thông thường thẩm phán
được giao chủ tọa phiên tòa nghiên cứu kỹ hồ sơ trước và phải chuẩn bị ý
kiến sẽ thẩm vấn như thế nào và sẽ có hướng giải quyết vụ án như thế nào,
sau đó báo cáo trước một tập thể rộng, hẹp khác nhau nhưng bao giờ cũng có
cán bộ lãnh đạo của tòa án. Người lãnh đạo của tòa án này sẽ có ý kiến tổng
7
hợp và hướng dẫn cách xử xự cụ thể đến mức độ nào tùy theo từng người và
cũng tùy từng trường hợp. Việc báo cáo án là để tranh thủ ý kiến tập thể làm
sáng tỏ các tình tiết vụ án giúp thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thêm cơ sở
vững chắc, một niềm tin nội tâm vững vàng khi mà vụ án được quyết định
đưa ra xét xử. Các ý kiên không làm ảnh hưởng tới tính độc lập xét xử của các
thẩm phán và hội thẩm tại phiên tòa, thẩm phán và bồi thẩm tham gia xét xử
vụ án đều được nghiên cứu hồ sơ kỹ càng, hoặc thẩm vấn cho cả vụ án và
từng đối tượng. Giai đoạn chuẩn bị cho xét xử cũng được xác định là rất quan
trọng, tạo cơ sở cho từng thành viên hội đồng xét xử nắm vững về vụ án, có
kế hoạch trong xét xử không bị thụ động, lúng túng trước diễn biến phức tạp
của phiên tòa. Làm tốt mọi công tác chuẩn bị sẽ làm cho hội đồng xét xử yên

tâm, có lập trường vững vàng để độc lập quyết định theo đúng thực tế vụ án,
đúng pháp luật.
Tại phiên tòa xét xử, hội đồng xét xử tiến hành các hoạt động xét hỏi, xem xét
các chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng
bị cáo đều có quyết định bị cáo có tội hay không có tội và hình phạt. Hội dồng
xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ
án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Nội dung của việc xét hỏi là xác định những
tình tiết chứng minh bị có có phạm tội hay không, và nếu bị cáo bị truy tố về
nhiều tội thì phải xét hỏi để chứng minh từng tội. Những tình tiết cần thiết để
giải quyết việc bồi thường cũng phải được xác minh đầy đủ. Những chứng cứ
buộc tội và những chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ đều phải điều tra xác minh tại phiên tòa.
Trình tự xét hỏi tại phiên tòa do bộ luật tố tụng hình sự quy định, tuy nhiên
khi hỏi về những tình tiết của một việc hoặc một tội, điều luật không quy định
cụ thể, chủ tọa phiên tòa phải xét hỏi theo một trình tự nhất định nào (hỏi ai
trước , hỏi ai sau) mà chỉ quy định là cần phải hỏi theo “thứ tự xét hỏi hợp
lý”. Vì vậy, tùy theo mức độ phức tạp của vụ án va yêu cầu về làm sáng tỏ sự
thật khách quan, có thể xét hỏi theo những cách như: Hỏi người bị hại rồi mới
8
hỏi bị cáo và những người khác, hoặc hỏi bị cáo trước rồi mới hỏi những
người khác….Nếu trong vụ án có nhiều sự việc, nhiều tội, thì hỏi về sự việc
và tội phạm quan trọng trước và hỏi về sự việc và tội ít quan trọng sau. Nếu
vụ án không phức tạp thì sau khi hỏi bị cáo, người bị hại… và những tình tiết
của tội phạm chủ tọa phiên tòa có thể hỏi luôn về việc bồi thường. Nếu vụ án
phức tạp thì sau khi đã xác định xong những dấu hiệu của tội phạm mới xác
định những vấn đề bồi thường. Trường hợp không lấy được lời khai trực tiếp
của một người tại phiên tòa, mà theo quy định của pháp luật không phải dừng
phiên tòa xét xử thì công bố lời khai của họ, lời khai đó được sử dụng như lời
khai được xét hỏi tại phiên tòa.
Sau khi kết thúc xét hỏi thì đến giai đoạn tranh luận tại phiên tòa ở giai đoạn

xét hỏi hội đòng xét xử mới kiểm tra các chứng cứ,do đó, sau khi xét hỏi cần
phải bảo đảm cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện
hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự được phát biểu ý kiến
về việc phân tích đánh giá chứng cứ và xử lý vụ án cho đúng pháp luật,
Trong lời luận tội, kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ đã được
kiểm tra tại phiên tòa mà đánh giá chứng cứ, xác định những chứng cứ buộc
tội, chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, những tình tiết giảm nhẹ để đề
nghị với tòa án quyết định bị cáo có phạm tội hay không, và nếu kết tội bị cáo
thì xét xử về hình sự và giải quyết việc bồi thường thiệt hại. Cũng cần phải
nói rằng, các ý kiến của ngững người tham gia tố tụng nêu trên kể cả ý kiến
đề nghị về hình sự, dân sự của công tố viên khi luận tội cũng không thể buộc
hội đồng xét xử phải theo ý kiến của họ, mà các ý kiến đó chỉ là để tranh
luận làm sáng tỏ vài đề nghị để hội đồng xét xử lưu ý để khi xem xét trong
nghị án. Việc quyết định cuối cùng vẫn thuộc về hội đồng xét xử qua việc
xem xét đánh giá các chứng cứ, các tài liệu được điều tra trực tiếp tại phiên
tòa.
9

×