BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________
Lê Thò Thủy
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
CỦA NGÔN NGỮ CỬ CHỈ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________
Lê Thò Thủy
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
CỦA NGÔN NGỮ CỬ CHỈ
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN ĐỨC DÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành ngoài sự nỗ lực của chính bản thân còn có sự
chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của các thầy cô, các anh chị và các bạn học cùng khóa.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc thầy Nguyễn Đức Dân, người đã
hết lòng hướng dẫn khoa học, giúp đỡ và động viên tôi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn qúi thầy cô đã nhiệt tình đóng góp ý kiến và truyền
đạt cho tôi những kiến thức vô cùng qúi báu. Xin cảm ơn Phòng khoa học cô
ng
nghệ & sau đại học, Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh,
Thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh,
Thư viện khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tôi thực
hiện và bảo vệ luận văn.
Sau cùng, tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
cỗ vũ, khích lệ để tôi có thể yê
n tâm học tập và nghiên cứu.
Một lần nữa, tôi xin gửi đến tất cả lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2009
Lê Thị Thủy
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
PL : Phụ lục
tr. : Trang
& : và
/ : Hoặc/hay
N1a : Nhóm học sinh - sinh viên nam
N1b : Nhóm học sinh - sinh viên nữ
N2a : Nhóm người lao động nam
N2b : Nhóm người lao động nữ
N3 : Nhóm người nội trợ
TB : Trung bình
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội loài người càng phát triển thì ngôn ngữ âm thanh càng hoàn thiện và
nó thực sự đã là thành tựu vô giá của con người. Tuy vậy, cử chỉ điệu bộ vẫn không
bị tước đoạt giá trị giao tiếp vốn có của nó. Cử chỉ điệu bộ được coi là phương tiện
giao tiếp thuận tiện nhất, tiết kiệm nhất và có hiệu quả nhất sau ngôn ngữ âm thanh.
Tác động qua lại giữa cử chỉ điệu bộ và ngôn ngữ âm thanh tạo nên cấu tr
úc của
một hành động giao tiếp cụ thể. Nói cách khác, cử chỉ điệu bộ là hành vi không thể
thiếu để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngôn ngữ lời nói (giao tiếp bằng lời).
Nguyễn Văn Lê cho rằng: “Trong giao tiếp, kênh lời nói và chữ viết là kênh
ngôn ngữ, còn các kênh nét mặt, tư thế, cử chỉ, trang phục, cự li l
à các thành phần
của sự giao tiếp phi ngôn ngữ” [19, tr. 42]. Thật vậy, giao tiếp phi ngôn ngữ (hay
giao tiếp không lời) bao gồm những dấu hiệu cơ bản sau đây: nét mặt, tư thế, cử chỉ,
khoảng cách, trang phục, khung cảnh tự nhiên, khung cảnh xã hội… Những kênh
này “không nói bằng lời” cụ thể nhưng lại hàm chứa những thông tin rất chuẩn xác,
chân thật … giúp ta nhận diện và hiểu được những thông điệp, tình cảm
, tính
cách… của người đối thoại một cách trọn vẹn hơn.
Albert Maerabian nhận định: “Trao đổi thông tin diễn ra qua các phương
tiện bằng lời (chỉ bằng lời) là 7%, qua các phương tiện âm thanh (gồm giọng điệu,
giọng nói, ngữ điệu và âm thanh) là 38%, còn qua các phương tiện không bằng lời
là 55%” [Dẫn theo 24, tr. 9].
Cùng quan điểm trên, Giáo sư Berdwissel nhấn mạnh: “Giao tiếp chỉ bằng
lời trong k
hi trò chuyện chiếm chưa đến 35%, còn hơn 65% thông tin được trao đổi
nhờ giao tiếp không lời” [Dẫn theo 24, tr. 9].
Phần lớn các nhà nghiên cứu cho là kênh bằng lời dùng để truyền đạt thông
tin, trong khi các kênh không bằng lời dùng để “thảo luận”. Vì vậy khi một tín hiệu
bằng lời không trùng khớp với kí hiệu không lời thì người ta trông đợi vào những
thông tin không lời nhiều hơn để nhận biết ý định và thông tin thực sự của n
gười
đối thoại.
Trong hệ thống giao tiếp không lời, cử chỉ là một phương tiện đặc trưng, tập
trung phản ánh nhiều thông tin sinh động nhất của con người. Thậm chí, có những
tình huống cử chỉ là công cụ giao tiếp duy nhất
1
.
Khi xét về ngôn ngữ cử chỉ, bàn tay là một mã giao tiếp phong phú nhất.
Krout [31, tr. 149] đã xác định được khoảng 5.000 kiểu cử chỉ khác nhau của bàn
tay diễn tả các cung bậc rất tinh tế của tình cảm và thái độ con người. Do vậy, việc
nghiên cứu ý nghĩa của các cử chỉ nói chung và cử chỉ bàn tay nói riêng là lĩnh vực
thu hút nhiều nhà nghiên cứu.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Những vấn đề cơ bản của ngôn
ngữ cử chỉ”. Như vậy,
đề tài sẽ mang những ý nghĩa sau:
- Về mặt lí luận: Đề tài vận dụng lí thuyết của Kí hiệu học để giải thích về
mặt kí hiệu của cử chỉ và lí thuyết Tâm lý học giao tiếp làm rõ các sắc thái biểu cảm
của con người trong mỗi cử chỉ.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn hi vọng sẽ là tài liệu
tham khảo có ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu vần đề
2.1. K
hái quát
Trong lịch sử của loài người, các nhà nghiên cứu nhận thấy vai trò của cử
chỉ, điệu bộ trong giao tiếp là vô cùng quan trọng.
Tác giả Marr [Dẫn theo 11, tr. 28] khẳng định ngôn ngữ cử chỉ tồn tại cách
đây một triệu đến một triệu rưỡi năm còn ngôn ngữ âm th
anh chỉ có cách đây năm
vạn đến năm mươi vạn năm. Theo ông, ngôn ngữ cử chỉ có thể biểu thị tư tưởng,
khái niệm hình tượng hóa, có thể dùng làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên
trong cùng một bộ lạc và với cả các bộ lạc khác, có thể là công cụ phát triển khái
niệm của mình.
Còn Phi Tuyết Hinh [13] cho rằng trước khi “ngôn ngữ âm thanh” bắt đầu
hình thành (khoảng 5000 hay 4000 trước công nguyên) thì cử chỉ điệu bộ chính là
thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người. Những khai quật khảo cổ học đã chứng
1
Ở Úc có một bộ lạc thổ dân mang tập tục một phụ nữ nếu chồng bị chết thì phải im lặng trong bốn năm.
Trong thời gian này, người phụ nữ chỉ có thể dùng cử chỉ để “nói” với người xung quanh
minh điều đó. Ở Mê-hi-cô, người ta đã tìm thấy những bức tranh tường, những đồ
gốm, trên đó, có thể hình dung được cách đây hàng ngàn năm, những người Indien
Maia “nói với nhau bằng điệu bộ” như thế nào: ngón trỏ của tay phải chỉ ra phía
trước để hỏi “mấy?”. Bàn tay trái chỉ vào tai để bảo “hãy cẩn thận”, “hãy chú ý”
hoặc “hãy nghe”. Bên cạnh đó, người ta nêu giả thuyết là lối chữ viết, hình vẽ của
những người Mê-hi-cô xưa rất phức tạp, c
hủ yếu là một thứ ngôn ngữ điệu bộ.Như
vậy, ngôn ngữ cử chỉ có từ rất xa xưa.
Cùng quan điểm với hai tác giả trên, Erika Fischer - Lichte [9, tr.112] nhận
định: “Việc nghiên cứu những kí hiệu động tác (ngôn ngữ cử chỉ - Luận văn) có một
lịch sử dài lâu - nó bắt đầu từ thời Aristoteles”. Trọng tâm các mối quan tâm chủ
yếu là những kí hiệu đư
ợc thực hiện bởi đôi bàn tay, được đề cập một cách hết sức
chi tiết qua môn hùng biện. Người ta đã không ngừng tiến hành những cuộc thử
nghiệm, tìm ra những mã “tự nhiên” của kí hiệu bàn tay và ghi nhận lại. Sau đó, bộ
môn nghiên cứu khoa học các động tác lấy xuất phát điểm chính từ luận đề về tính
hiệu lực chung của ngôn ngữ động tác.
Tuy nhiên, việc chối bỏ luận đề này đã mở đường c
ho nghiên cứu một cách
có hệ thống những kí hiệu động tác, trong tư cách một hệ thống sản sinh ý nghĩa.
Trong công trình Kí hiệu học sân khấu: nghệ thuật và điện ảnh của mình, Fischer
Lichte Erika [Dẫn theo 9, tr. 114 -115] đã đề cập đến 3 tác giả sau:
(1) Người đầu tiên là Wilhelm Wundt (nhà dân tộc học trong khu vực tiếng
Đức) trong tác phẩm 10
tập đồ sộ của ông về Tâm lí các dân tộc. Chương thứ hai về
Ngôn ngữ điệu bộ trong tập một mang tựa đề Ngôn ngữ của tác phẩm này, được
xuất bản năm 1900, thuật lại những cuộc tranh cãi quan trọng nhất về kí hiệu động
tác trong thời gian trước khi xuất hiện môn nghiên cứu ứng xử và giao tiếp hiện đại.
Nó cũng đồng thời thể hiện quá trình thử nghiệm đầu tiên, phân loại và hệ thống
hóa kí hiệu động tác một cách khoa học. Với những luận cứ và dẫn chứng thuyết
phục, Wundt đã cố gắng c
hứng minh sự phụ thuộc của những động tác đối với nền
văn hóa.
(2) Cũng mang tính mở đầu kỉ nguyên như vậy, trong vòng ảnh hưởng của
nền văn hóa Pháp là những kết quả nghiên cứu của Marcel Mauss, được tác giả tóm
tắt và giải thích trong bản thuyết trình về Những kĩ thuật cơ thể, báo cáo năm 1934
và xuất bản năm 1935. Trong tác phẩm này, Mauss đã trình bày rằng, không phải
chỉ những động tác trao đổi và thể hiện mà thậm chí cả những kĩ thuật của cơ thể
như ngủ, nghỉ ngơi, chuyển động, chăm sóc cơ thể, ăn uống, vv… trong mỗi một
nền văn hóa đều được thực hiện khác nha
u bởi vì những động tác thực hiện chúng
đều mang tính đặc thù của nền văn hóa.
(3) Tác phẩm thứ ba, cuối cùng đã chứng minh một cách quyết định tính sai
lầm của luận đề hiệu ứng chung là cuốn sách Gesture, Race and Culture của David
Efron, xuất bản lần đầu năm 1941. Với tác phẩm
tiên phong này, Efron muốn phản
lại những kết luận được bộ máy tuyên truyền phân biệt chủng tộc của chủ nghĩa
phát xít dựng ra và truyền bá rộng rãi, rằng giống người Do Thái chỉ dựa trên những
điều kiện dân tộc của họ đã chuyển động khác. Ông đã nghiên cứu những người dân
xứ Nam I-ta-li-a cũng như những người Do Thái phương Đông tại New Yo
rk những
động tác thông dụng nhất. Cùng kết qủa nghiên cứu này, Efron chứng minh rằng
những động tác có thể được học hỏi giống như những ngôn ngữ, rằng chúng không
hề xuất phát từ xu hướng bẩm sinh hoặc từ những chương trình theo thuyết quyết
định.
Ngoài ra, trong dân gian có chuyện kể rằng: tu sĩ người Pháp Charles Michel
de I’Epée (1712 - 1789) một lần trú mưa trong một ngôi nhà có hai chị em sinh đôi
vừa câm vừa điếc. Ô
ng thấy, bằng những cử chỉ hai chị em trao đổi với nhau rất
chính xác những điều mà họ muốn diễn tả. Điều này đã gây ấn tượng rất mạnh tới tu
sĩ I’Epée. Từ đó, ông mày mò sáng tạo ra thứ ngôn ngữ cử chỉ, dùng bàn tay và
ngón tay cho những người câm điếc [5, tr. 158].
Nhìn chung, ngôn ngữ cử chỉ thịnh hành vào thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
Những người chủ trương thuyết này cho rằng ba
n đầu khi mà ngôn ngữ của loài
người chưa phát triển, để giao tiếp với nhau người ta dùng tư thế của thân thể và của
tay. Nhưng về thành tựu nghiên cứu “Giao tiếp không lời” nói chung và “Ngôn ngữ
cử chỉ” nói riêng mang tính chất sâu và rộng thì còn khiêm tốn so với các ngành
khoa học khác. Theo Pease Allan nghiên cứu, cuối thế kỷ 20 đã xuất hiện nhiều nhà
khoa học - xã hội học mới - chuyên gia trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Tác giả
nhận định: “Tưởng chừng như là vô lý là - trong một triệu năm tiến hóa của loài
người, các quan điểm giao tiếp không bằng lời chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu
nghiêm túc mang tính hệ thống khoa học từ những năm
60, và xã hội bắt đầu biết
đến sự tồn tại của chúng chỉ sau khi Julius Fast công bố cuốn sách của mình vào
năm 1970” [24, tr. 8]. Cuốn sách tổng kết những nghiên cứu về các phương diện
giao tiếp không bằng lời do các nhà khoa học - hành vi học tiến hành trước năm
1970.
Hơn ba thập kỷ gần đây, ngôn ngữ cử chỉ đã và đang được giới nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm, tìm hiểu. Theo tài liệu chúng tôi được biết, tính đến
nay, đề tài này đã có những c
ông trình tiêu biểu ở trong và ngòai nước như sau:
2.2. Những nghiên cứu tiêu biểu
2.2.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề ngôn ngữ cử chỉ đã sớm được một số nhà nghiên cứu nổi tiếng ở
nước ngoài quan tâm như: Fast Julius (1971), Gerand J. Nierenbegr & Henry
H.Calero (1971), Pease Allan (1981), Pease Allan & Barbara (2004), Fischer Lichte
Erika (1994), Roger E. Axtell (2003), Harry Collis (2000)… Luận văn xin điểm qua
những nét chính trong lí thuyết của các tác giả trên:
(1
) Fast Julius [41] với công trình Body language - được coi là tác phẩm
tiêu biểu đầu tiên quan tâm đến lĩnh vực ngôn ngữ cơ thể, tác giả đã phân tích các
nội dung khá phong phú gồm 11 chương như: The body is the message, the
wonderful world of touch, the silent language of love, body and language: use and
abuse…
(2) Gerard J. Nierenberg và Heney H. Calero [10] khai thác cử chỉ dưới góc
độ trạng thái tâm lí: cởi mở, tự vệ đánh giá, nghi ngờ, sẵn sàng, dè dặt, hợp tác,
giận dữ…
(3) Pease Allan [24] phân tích mỗi thành tố ngôn ngữ cử chỉ một cách riêng
biệt như: cử chỉ của lòng bàn tay, cử chỉ của bàn tay và cánh tay, cử chỉ của bàn
tay kết hợp với khuôn mặt, dấu hiệu của ánh mắt…Tác giả đã khảo sát những cử chỉ
này chủ yếu là ở những nền văn hóa của cộng đồng châu Âu và được rất nhiều độc
giả đón nhận. Và đến năm 2004, Pease Allan & Barbara [25] đã trở thành hai
chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực giao tế nhân sự và ngôn ngữ cử chỉ.
Họ đã cho ra đời công trình Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể bao gồm 19
chương với nhiều nội dung đa dạng kết hợp hình ảnh minh họa, trình bày rất chi
tiết. Chẳng hạn: quyền lực nằm trong tay bạn, điều kì diệu của nụ cười và tiếng
cười, dấu hiệu của cánh t
ay, những khác biệt về văn hóa, 13 điệu bộ phổ biến mà
bạn nhìn thấy mỗi ngày…
(4) Fischer Lichte Erika [9] dưới góc độ kí hiệu học sân khấu đã miêu tả Kí
hiệu học của những hoạt động không lời bao gồm: kí hiệu nét mặt, kí hiệu động tác
và kí hiệu động tác có chuyển đổi trong không gian. Trong đó, tác giả đánh giá: “Kí
hiệu động tác đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sân k
hấu. Có thể tồn tại sân
khấu không có ngôn ngữ, không có âm thanh, không có hóa trang, không có trang
trí, không có đạo cụ và ánh sáng, song không thể tồn tại một sân khấu hoàn toàn từ
bỏ những chuyển động cơ thể của diễn viên, tức là những kí hiệu động tác” [9, tr.
110].
(5) Roger E. Axtell [34] đã công bố quyển sách “Gesture - The Do’s and
taboos of body language around the world” (Cử chỉ những điều nên làm
và nên
tránh trong ngôn ngữ cử chỉ khắp thế giới). Tác giả đã chia ra thành 6 chương với
những nội dung đi từ khái quát đến cụ thể như sau: sức mạnh của cử chỉ, những cử
chỉ phổ biến nhất, các cử chỉ từ đầu đến chân, cử chỉ tối hậu, những cử chỉ quan
trọng cần nhớ và danh mục cử chỉ từng quốc gia.
(6) Harry Collis [42] trình bày một phần về Body Language (ngôn ngữ hình
thể) trong quyển sách 101 American C
ustoms (101 phong tục Mỹ) với những cử chỉ
như: Shaking Hands (bắt tay), The “OK” Sign (cử chỉ “OK”), Thumbs Up - Thumbs
Down (cử chỉ giơ ngón cái lên và xuống), The High Five (hai người đánh lòng bàn
tay vào nhau)…
2.2.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, bắt đầu từ những năm 90 của thế kỉ trước, vấn đề ngôn ngữ cử
chỉ cũng bắt đầu được nghiên cứu. Sau đây, người viết xin giới thiệu những nét cơ
bản của các tác giả: Trần Tuấn Lộ (1993), Nguyễn Văn Lê (1996), Nguyễn Thiện
Giáp (2005, 2007), M
inh Đức và Nam Việt (2007),… Đặc biệt là hai nhà nghiên
cứu Nguyễn Đức Dân (2006) và Nguyễn Quang (2008).
(1) Trần Tuấn Lộ [20] đã giới thiệu tới người học giáo trình “Tâm lý học
giao tiếp”. Trong tài liệu này, tác giả có trình bày khái lược về “Ngôn ngữ, cử chỉ,
cử động và hành động trong giao tiếp”.
(2) Nguyễn Văn Lê [18] trong tài liệu Giao tế nhân sự - Giao tiếp phi ngôn
ngữ chủ yếu chọn lọc, biên tập và giới thiệu 14 bài làm
hay của thí sinh thuộc
trường Đại học Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh. Sau đó, đến năm 1999, trong Nhập
môn khoa học giao tiếp [19], ông đã dành trọn một chương viết về Sự giao tiếp phi
ngôn ngữ. Ông phân loại giao tiếp phi ngôn ngữ bao gồm: nét mặt, tư thế, cử chỉ,
khoảng cách, trang phục, giao tiếp bằng đồ vật, khung cảnh tự nhiên và khung cảnh
xã hội.
(3) Nguyễn Thiện Giáp [11, tr. 26-29] đã xem T
huyết ngôn ngữ cử chỉ là
một trong những giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ. Nội dung này đã được mở
rộng thành Những yếu tố phi lời trong hội thoại [12, tr. 90-93]. Ông đánh giá:
“Những yếu tố phi lời xuất hiện song song với các tín hiệu bằng lời, hòa lẫn với các
tín hiệu bằng lời, cùng với các tín hiệu bằng lời hình thành nên một hệ thống gi
ao
tiếp trọn vẹn” [12, tr. 93]. Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới là một vấn đề mới, bước
đầu được quan tâm xem xét trong những công trình nghiên cứu của tác giả.
(4) Minh Đức và Nam Việt [7] trong tác phẩm Ngôn ngữ của bàn tay có đề
cập tới: lịch sử bàn tay, vai trò giao tiếp của tay…nhưng nội dung trọng tâm chủ
yếu là trình bày nhận biết vận mệnh của con người căn cứ vào cấu tạo của bàn tay,
đư
ờng chỉ tay.
(5) Nguyễn Đức Dân [5] trong công trình nghiên cứu Kí hiệu học - một số
vấn đề cơ bản đã trình bày phần Ngôn ngữ cử chỉ trong chương Biểu tượng và
những kí hiệu phi ngôn ngữ là một đối tượng của Kí hiệu học. Tác giả đề cao sức
mạnh của ngôn ngữ cử chỉ - thứ ngôn ngữ không lời trong giao tiếp nói chung, phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến cử chỉ và xác định có những ngôn ngữ cử chỉ khác
nha
u…Công trình này đặt nền móng cho việc đưa kí hiệu trở thành một môn khoa
học thực sự ở Việt Nam.
(6) Nguyễn Quang [31] trong quyển sách Giao tiếp phi ngôn từ qua các
nền văn hóa” đã phân tích khá chi tiết Giao tiếp phi ngôn từ thông qua cận ngôn
ngữ và ngoại ngôn ngữ. Tác giả chia ngoại ngôn ngữ thành 3 loại: ngôn ngữ thân
thể, ngôn ngữ vật thể và ngôn ngữ môi trường. Tr
ong Ngôn ngữ thân thể bao gồm:
nhãn giao, diện hiện, đặc tính thể chất, cử chỉ, tư thế, hành vi động chạm….Có thể
nói, tại Việt Nam, Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa của Nguyễn Quang là
công trình nghiên cứu rất đáng ghi nhận. Nguyễn Thiện Giáp đánh giá: “Công trình
này cần được truyền bá rộng rãi và cần được sử dụng làm tài liệu cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh ngành ngôn ngữ học. Đồng thời, nó cũng là tài liệu t
ham
khảo rất bổ ích cho tất cả những ai quan tâm đến ngôn ngữ, giao tiếp và văn hóa”
[31, tr. 15].
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trực tiếp, còn có những tác phẩm đề
cập đến một các gián tiếp như:
- Thế nào là cử chỉ văn minh của AĐôrôkhốp [1] năm 1982 (Nguyễn Tam
Cường dịch) miêu tả và định hướng cho con người những cử chỉ nào là đúng và sai
để hà
nh xử cho phù hợp nơi công cộng.
- Ngôn ngữ bí ẩn của cơ thể (Decoding the secret language of your body) của
Rush Martin [35] trình bày với 4 chương cơ bản sau: lời than thở thì thầm của cơ
thể, những tiếng rên rỉ lớn hơn, cơ thể của phụ nữ nói thay cho tâm trí họ, những
tiếng kêu thét của phụ nữ…Tác giả đã mô tả cách thành công chữa trị bằng tâm lý ở
những bệnh nhân của m
ình. Nhưng ông còn muốn khái quát rộng hơn với thiện chí
đề ra phương cách phòng ngừa chung các bệnh tật, thậm chí cách tự nâng cao sức
khỏe nói chung.
Ngoài ra, còn một số bài viết được đăng trên các tạp chí, trang web đã nghiên
cứu nhiều khía cạnh khác nhau của ngôn ngữ cử chỉ:
- Trên các tạp chí:
+ “Lời chào với cái bắt tay với nụ cười”, Hoàng Tuệ , Ngôn ngữ (2), năm
1984.
+ “Bước đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ, điệu bộ ở người Việt
trong giao t
iếp”, Thục Khánh Ngôn ngữ, (3), năm 1990.
+ “Từ những cái bắt tay ở Giơnevơ tháng 7/1954”, Thạch Anh, Quan hệ
quốc tế, (21), năm 1991.
+ “Thử tìm hiểu về ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ”, Phi Tuyết Hinh , Ngôn ngữ,
(4), năm 1996.
+ “Ngôn ngữ cử chỉ trong dạy học ngoại ngữ”, Nguyễn Qúy Mão, Nghiên
cứu giáo dục, (299), năm
1997.
+ “Ánh mắt có thể gây chết người”, Quang Duy, Việt Nam và Đông Nam Á
ngày nay, (13), năm 1999.
+ “Cử chỉ - thứ ngôn ngữ không lời”, Nguyễn Đức Dân, “Kiến thức ngày
nay” (353), năm 2000.
+ “Hình dáng điệu bộ của cấp dưới cũng là điều quan trọng”, P.H, Khoa
học và công nghệ, (17), năm 2004.
+ “Cử chỉ trong giao tiếp”, Nguyễn Quang, Kh
oa học xã hội và nhân văn,
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn TPHCM, (42), năm 2008.
+ v.v …
- Trên các trang web:
+ “Thử đọc ý nghĩ qua ngôn ngữ cơ thể”, trên ,
ngày 25/4/2006.
+ “Ngôn ngữ cơ thể mạnh hơn cả lời nói”, trên ,
ngày 12/3/2007.
+ “Giao tiếp phi ngôn ngữ”, trên nhnhansg, ngày 2/4/2008.
+ “Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp”, trên http://www.
muabancongty.com, ngày 15/4/2008.
+ “Bị từ chức vì có cử chỉ cắm sừng”, trên , ngày
6/7/
2009.
+ v.v…
Ở trên, luận văn đã điểm qua một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
giao tiếp không lời, ngôn ngữ cử chỉ và ngôn ngữ của bàn tay. Nhìn chung, các
công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài là những người đặt nền móng cho
đề tài Ngôn ngữ cử chỉ nói chung với nhiều nội dung và dẫn chứng sinh động nhưng
chưa cung cấp một cách có hệ thống những quan điểm lí luận. Cùng đề tài này, các
tác giả Việt N
am đã tiếp thu kế thừa, bước đầu miêu tả trên bình diện Kí hiệu học và
Tâm lý học giao tiếp. Qua những công trình nghiên cứu đó, chúng tôi nhận thấy
những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ nói chung và của người Việt nói riêng
vẫn còn quá khiêm tốn. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển thành tựu đã có,
luận văn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ,
gắn liền với giao tiếp hàng ngà
y của người Việt.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi muốn làm sáng tỏ những quan điểm lí luận về một
loại hình của ngôn ngữ không lời và những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng
ngày của người Việt, đặc biệt tìm hiểu những cử chỉ của bàn tay.
Như vậy, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Xác định khái niệm, tầm
quan trọng và phân loại giao tiếp không lời và
những cử chỉ giao tiếp.
- Khảo sát những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người
Việt.
- Tập trung khai thác về ngôn ngữ cử chỉ bàn tay.
Do điều kiện có hạn nên luận văn chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản của
ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp của người bình thường, chỉ đi sâu vào phần trọng
tâm của những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người Việt và khai
thác các cách thức và ý nghĩa biểu hiện những cử chỉ của bàn tay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống: Người viết đọc tài liệu, các bài
viết có liên quan
trực tiếp và gián tiếp đến đề tài. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ cử chỉ, người viết rút ra những luận điểm, luận cứ nhằm làm sáng tỏ vấn
đề cần trình bày.
- Phương pháp miêu tả: Dựa vào nguồn gốc, đặc điểm và kết qủa khảo sát
của những cử chỉ để miêu
tả cách thức và nội dung biểu hiện của chúng.
- Phương pháp đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu
những nét tương đồng và dị biệt trong các hình thức và ý nghĩa thể hiện của các
ngôn ngữ cử chỉ mang tính văn hóa, nghề nghiệp, vị thế xã hội, độ tuổi, giới tính…
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, người viết sẽ sử dụng thêm các phương
phá
p hỗ trợ khác: giải thích, điều tra, khảo sát …tùy theo yêu cầu của từng nội dung
cụ thể.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu tiêu biểu
trong và ngoài nước như Gerand J. Nierenbegr & Henry H.
Calero, Pease Allan và Barbara, Fischer Lichte Erika, Roger E.
Axtell, Trần Tuấn Lộ, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Quang … về vấn đề giao tiếp không lời và ngôn ngữ cử
chỉ. Đây là chương làm tiền đề cho việc miêu tả và khảo sát về
những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người Việt.
Chương 2: Chúng tôi đề cập đến những cử chỉ thường gặp trong giao tiếp
hàng ngày của người Việt, đã ổn định về giá trị biểu thị và đã trở
thành chuẩn mực giao tiếp trong những tình huống cụ thể, bằng
cách khai thác nội dung và hình thức thể hiện của chúng. Dựa
vào kết qủa khảo sát thực tế và những lớp cử chỉ cơ bản đối lập,
người đọc có thể thuận lợi trong việc so sánh, tìm ra những điểm
tương đồng và khác biệt rất đa dạng và phong phú của ngôn ngữ
cử chỉ. Đó là những cử chỉ hợp tác và bất hợp tác, những cử chỉ
thương yêu và giận dữ, những cử chỉ vui vẻ, hài lòng và buồn
chán, thất vọng.
Chương 3: Chương này khai thác về bàn tay - phương tiện biểu hiện tiêu
biểu nhất của ngôn ngữ cử chỉ. Những cử chỉ tiêu biểu l
iên quan
đến các bộ phận của bàn tay như bàn tay, cánh tay và ngón tay.
Chúng tôi kết hợp việc miêu tả hình thức thể hiện, nội dung ý
nghĩa và hình ảnh để làm sáng tỏ thêm nhiều giá trị thông tin
giao tiếp của ngôn ngữ bàn tay.
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NGÔN NGỮ CỬ CHỈ
1.1. Giao tiếp không lời (non - verbal communication)
1.1.1. Giao tiếp không lời là gì?
Có thể nhận định rằng giao tiếp không lời là một loại hình giao tiếp rất quan
trọng trong quá trình giao tiếp của con người. Xuất phát từ nhiều góc độ tìm hiểu,
các nhà nghiên cứu đưa ra một số định nghĩa liên quan hoặc đề cập đến các bình
diện của giao tiếp không lời như sau:
Knapp phân tích: “Giao tiếp phi ngôn từ bao gồm các hành động hoặc các
biểu hiện ngoài ngôn từ. Các hành động hoặc biểu hiện vốn có ý nghĩa được chia sẻ
về mặt xã hội đó hoặc gửi đi một cách có chủ đích hoặc được diễn giải như là có
chủ đích và được gửi đi hoặc tiếp nhận. [
…] Giao tiếp phi ngôn từ là một thuật ngữ
để miêu tả tất cả các sự kiện giao tiếp vượt lên trên ngôn từ khẩu ngữ và bút ngữ”
[Dẫn theo 31, tr. 60].
Định nghĩa trên chỉ quan tâm đến những yếu tố phi ngôn từ được sử dụng
một cách có ý thức và chủ đích.
Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu hiện nay nhìn
chung đều thống nhất rằng giao tiếp phi ngôn từ bao gồm cả các yếu tố hữu thức và
vô thức, chủ định và vô tình. Đó cũng là một trong những lý do gây ra sự tranh cãi
hoặc hiểu lầm trong giao tiếp phi ngôn từ giữa các nền văn hóa của các quốc gia
khác nha
u và trong cùng một quốc gia.
Levine và Adelman cho rằng: Giao tiếp phi ngôn từ là ngôn ngữ “im lặng”
(silent language), bao gồm việc sử dụng cử chỉ, nét mặt, ánh mắt và khoảng cách
đối thoại [Dẫn theo 31, tr. 61].
Cách nhận diện này phần nào mới chỉ nhấn mạnh vào ngôn ngữ thân thể và
một phần nhỏ của ngôn ngữ môi trường; và điều đó có lẽ chưa đủ để tạo ra một hình
ảnh r
õ nét về giao tiếp phi ngôn từ. Hơn nữa, các yếu tố cận ngôn ngữ
2
thuộc giao
tiếp phi ngôn từ không phải là ngôn ngữ “im lặng”.
2
Cận ngôn ngữ là tổng thể các hiện tố ngôn thanh phi ngôn từ trong giao tiếp. Nó được dùng chủ yếu để diễn
tả cái “Thế nào” thì đúng hơn là “Cái gì” của giao tiếp. [31, tr. 87]
Người có cách nhìn khái quát hơn là Dwyer. Ông sử dụng các ví dụ đi kèm
thể hiện ý thức rõ hơn về các bình diện khác nhau của giao tiếp phi ngôn từ như cận
ngôn và ngoại ngôn. Tác giả đánh giá: “Giao tiếp phi ngôn từ bao gồm toàn bộ bộ
phận của thông điệp không được mã hóa bằng từ ngữ, ví dụ: giọng nói, diện hiện
hoặc cử chỉ và chuyển động” [Dẫn theo 31, tr. 61].
Tuy nhiên, các ví dụ được nêu chỉ giúp ta thấy được các yếu tố cận ngôn và
ngôn ngữ thân thể mà chưa gợi ra được các yếu tố thuộc ngôn ngữ vật thể và ngô
n
ngữ môi trường. Trên thực tế, các yếu tố này đã được chứng minh cả về lý thuyết và
thực tiễn, là không thể thiếu được trong giao tiếp phi ngôn từ.
Tiếp thu những định nghĩa trên thế giới, các nhà nghiên cứu Việt Nam, dưới
các góc độ khác nhau đã đưa ra những nhận định khác nhau.
Căn cứ và
o bình diện “Ngữ dụng học”, Nguyễn Thiện Giáp đề cập: “Giao
tiếp phi lời là giao tiếp bằng toàn bộ cơ thể và các giác quan” [12, tr. 93]. Theo
ông, bên cạnh những phương tiện bằng lời còn có những yếu tố phi lời. Những yếu
tố đó bao gồm như bối cảnh, diện mạo, cách ăn mặc, tư thế, điệu bộ, cử chỉ, khoảng
cách…Tác giả nhấn mạnh, phân tích hội thoại cần nghiên cứu các yếu tố phi lời.
Người ta chỉ có thể hiểu được đầy đủ các cách sử dụng tiếng Việt khi các yếu tố phi
lời được nghiên cứu đầy đủ.
Dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa, Nguyễn Quang trình bày: “Giao tiếp phi
ngôn từ là toàn bộ các bộ phận kiến tạo nên giao tiếp không thuộc mã ngôn từ
(verbal code), có nghĩa là không được mã hoá bằng từ ngữ, nhưng có thể thuộc về
cả hai kênh (channels) ngôn thanh (vocal) v
à phi ngôn thanh (non- vocal). Nó bao
gồm các yếu tố cận ngôn (phi ngôn từ - ngôn thanh) như tốc độ, cường độ, ngữ lưu
…và các yếu tố ngoại ngôn (phi ngôn từ - phi ngôn thanh) thuộc ngôn ngữ thân thể
như cử chỉ, dáng điệu, hiện diện…, thuộc ngôn ngữ vật thể như áo quần, trang
sức,… và thuộc ngôn ngữ môi trường như khoảng cách đối thoại, địa điểm giao
tiếp…” [31, tr. 61].
Định nghĩa trên
đã bao quát được nhiều mặt của vấn đề. Tuy nhiên, chúng ta
có thể tạm mượn cách diễn đạt của Nguyễn Đức Dân để hiểu định nghĩa một cách
đơn giản hơn: “Giao tiếp không lời là giao tiếp qua những cử chỉ và chuyển động
của hình thể. [5, tr. 151]
3
.
1.1.2. Tầm quan trọng của giao tiếp không lời.
Trong giao tiếp, nếu thiếu ngôn ngữ không lời thì quá trình ấy sẽ trở nên tẻ
nhạt. Do đó, việc nghiên cứu nó trong tổng thể giao tiếp là một điều hiển nhiên. Có
thể khái quát thành ba lí do để lí giải tầm quan trọng của giao tiếp không lời như
sau:
- Thứ nhất, người ta dễ dàng ghi nhớ cái người ta nhìn thấy hơn cái người
ta nghe thấy.
- Thứ hai, gi
ao tiếp phi ngôn từ xuất hiện nhiều hơn giao tiếp ngôn từ. Vì
tốc độ suy nghĩ của chúng ta nhanh hơn lời nói (một phút trung bình, con người
nghĩ được khoảng 700 - 1200 từ trong khi chúng ta chỉ có thể nói với tốc độ khoảng
120-150 từ/1 phút) nên khi chúng ta thể hiện bằng lời không đủ, cơ thể tìm một
cách thể hiện khác bằng ngôn ngữ không lời [74].
- Thứ ba, người ta có thể nói dối bằng giao tiếp bằng lời nhưng rất khó nói
dối bằng giao tiếp không lời.
1.1.
3. Phân loại giao tiếp không lời
Như đã trình bày ở trên, giao tiếp không lời có nhiều định nghĩa khác nhau
nên cách phân loại chúng cũng đa dạng.
Dwyer [Dẫn theo 31, tr. 78] cho rằng, xét theo khu vực, giao tiếp không lời
sẽ bao gồm:
(1) Chuyển động thân thể (hành vi thân thể)
(2) Các đặc tính thể chất
(3) Hành vi động chạm
(4) Các phẩm chất ngôn thanh (cận ngôn ngữ)
(5) Không gian (tính cận kề)
(6) Các thao tác
3
Từ đây, người viết sẽ dùng thuật ngữ “Giao tiếp không lời” cho toàn bộ luận văn.
(7) Môi trường.
Xét theo nguồn gốc, tác giả phân chia thành 4 loại:
(1) Giao tiếp không lời mang tính chất cá nhân
(2) Giao tiếp không lời mang tính chất văn hóa
(3) Giao tiếp không lời phổ niệm
(4) Giao tiếp không lời quan yếu.
Dưới góc độ tâm lí học giao tiếp, Nguyễn Văn Lê [19, tr. 46-72] phân tích
thành 8 kênh giao tiếp phi ngôn ngữ như sau:
(1) Kênh nét mặt
(2) Kênh tư thế hay sơ đồ thân thể
(3) Kênh trang phục
(4) Kênh khoảng cách
(5) Cử chỉ và hành động
(6) Giao tiếp bằng đồ vật
(7) Khung cảnh tự nhiên
(8) Khung cảnh xã hội
Các cách phân loại nêu trên, tuy có tạo ra sự đa dạng về tiểu loại nhưng
chúng có phần quá c
hi tiết (chẳng hạn việc phân chia kênh trang phục và kênh đồ
vật), chưa bao quát một cách triệt để các phạm trù của giao tiếp không lời. Vì thế,
luận văn nhận thấy cách phân loại của Nguyễn Qua
ng đã khái quát vấn đề một cách
hệ thống, có liên hệ so sánh, đối chiếu trong giao văn hóa, giữa giao tiếp không lời
và có lời, đồng thời kèm nhiều ví dụ minh họa thuyết phục.
Xuất phát điểm từ các yếu tố nội ngôn và các yếu tố cảnh huống gián tiếp
trong quá trình giao tiếp, Nguyễn Quang [31, tr. 80-81] phân loại rất chi tiết như
sau:
(1) Cận ngôn ngữ (Paralanguage): các đặc tính ngôn thanh, các yếu tố xen
ngôn thanh, các loại thanh lưu, im
lặng,…
(2) Ngoại ngôn ngữ (Extralanguage): ngôn ngữ thân thể (nhãn giao, diện
hiện, đặc tính thể chất, cử chỉ và chuyển động thân thể, tư thế, hành vi động
chạm…), ngôn ngữ vật thể (quần áo, đồ trang sức, trang điểm, nước hoa, hoa, quà
tặng…) và ngôn ngữ môi trường (địa điểm, khoảng cách đối thoại, thời gian, hệ
thống ánh sáng, màu sắc, nhiệt độ, sự thông thoáng…).
Theo quan điểm trên, ngôn ngữ hình thể (Nguyễn Quang và các nhà nghiên
cứu khác thường gọi là ngôn ngữ thân thể hoặc ngôn ngữ cơ thể) chiếm số lượng
lớn trong ngôn ngữ không lời. Nó là một kênh có thể tạo ra sự hiểu lầm, d
iễn giải
sai trong giao tiếp giao văn hóa bởi tính đa nghĩa của những cử chỉ. Đây cũng là
phần tiếp theo mà luận văn trình bày ở phía sau.
1.2. Ngôn ngữ hình thể (body language)
1.2.1. Ngôn ngữ hình thể là gì ?
Ngôn ngữ hình thể là một phương tiện hữu hiệu để thực hiện giao tiếp không
lời. Vì vậy, khi nói đến giao tiếp/ tương tác không lời (nonverbal communication
/interaction), các nhà nghiên cứu thường đề cập nga
y đến ngôn ngữ hình thể. Họ
phát hiện ra rằng cơ thể con người có thể tạo ra hơn 700.000 chuyển động khác
nhau để diễn tả các sắc thái cực kì tinh tế của trạng thái, thái độ, xúc cảm, và tình
cảm con người.
Từ điển Oxford Advanced Learner’s [38, tr. 121] định nghĩa: “Body
language is the process of communicating by the way one sits, stands, moves, etc…
rather than by words”. (Ngôn ngữ hình thể là sự biểu lộ cảm giác của ta qua cách
ngồi, đứng, di chuyển, v.v c
hứ không phải bằng lời nói).
Và Pease [Dẫn theo 31, tr. 111] cho rằng:
Các đặc tính thể chất như hình đáng thân thể, vẻ hấp dẫn toàn thân, bản
thân cơ thể con người, mùi của hơi thở, trọng lượng, màu da, màu tóc, là những bộ
phận quan trọng của giao tiếp không lời. Bởi vì mọi người phản tác và phản ứng lại
các yếu tố đó nên tất cả các yếu tố này đều quyết dịnh các phản hồi tr
ong những
cuộc gặp gỡ liên nhân. Các hình ảnh và ấn tượng ban đầu về người khác có thể gắn
kết một cách vô thức với các trải nghiệm qúa khứ của con người về các đặc tính thể
chất tương tự.
Còn Richards et al [Dẫn theo 31, tr.111] định nghĩa ngôn ngữ hình thể đơn
giản là:
…. “Việc sử dụng các diện hiện, các chuyển động thân thể v.v. để giao tiếp
một cách có ý nghĩa từ người này sang người khác
”
.
Với những định nghĩa đã nêu trên, người viết trình bày một số cách phân loại
như sau.
1.2.2. Phân loại ngôn ngữ hình thể
Quách Tuấn Khanh
4
[75] phân loại ngôn ngữ hình thể ra 3 phần chính:
(1) Nét mặt (cau có: khó chịu, tức giận; giãn căng: mãn nguyện, hài lòng,
v.v…
(2) Cử chỉ, động tác tay chân, giọng nói...(đứng chống tay: tư thế sẵn sàng
hoặc trạng thái hung hăng, tì tay vào má: mơ mộng, ước vọng gì đó, v.v…)
(3) Dáng cơ thể (ngẩng cao đầu, bước mạnh mẽ: tự tin, thoải mái, .v.v..)
Cách phân loại trên đã dùng những thuật ngữ phổ thông, dễ hiểu, dễ tiếp nhận
nhưng c
hưa bao quát các khía cạnh khác của ngôn ngữ hình thể.
Ray L. Birdwhistell [Dẫn theo 9, tr. 117], đại diện quan trọng nhất của môn
động tác học, đã tìm cách cô lập hóa và xác định những đơn vị động tác phân biệt
nhỏ nhất, tương tự như âm vị trong ngôn ngữ học. Ông đã phát triển một phuơng
thức ghi chú, cho phép ghi lại bất kì một chuyển động nào, dù là nhỏ nhất bằng
những kí hiệu đồ họa. Theo phương thức này, Birdwhistell [dẫn theo 10, tr.
117]
chia cơ thể người ra làm 8 miền, cụ thể là:
(1) Toàn bộ đầu
(2) Khuôn mặt
(3) Cổ
(4) Thân người
(5) Vai, cánh tay, cổ tay
(6) Bàn tay
4
Chuyên gia nghiên cứu về sự phát triển con người và giám đốc trung tâm huấn luyện “Thành công và hạnh
phúc S.H.T.C”.
(7) Hông - đùi - xương mắt cá
(8) Bàn chân
Roger E. Axtell [34, tr. 75-141] sắp xếp theo thứ tự của các bộ phận cơ thể,
khởi sự đi từ trên đầu và đi xuống hết chiều dài thân thể. Đó là:
(1) Đầu và mặt
(2) Mắt
(3) Tai
(4) Mũi
(5) Đôi má
(6) Môi và miệng
(7) Cằm
(8) Cánh tay
(9) Bàn tay
(10) Ngón tay
(11) Chân và bàn chân
(12) Toàn thân
Dựa vào c
hức năng, nguồn gốc, bộ phận cơ thể, Nguyễn Quang [31, tr. 112-
185] phân loại ngôn ngữ hình thể thành 3 nhóm chính như sau.
1.2.
2.1. Phân loại theo chức năng
(1) Các hiện tố biểu tượng (Emblems)
Các hiện tố biểu tượng là những cử chỉ thuộc ngôn ngữ kí hiệu. Chúng được
sử dụng để thay thế các thông điệp ngôn từ; nói cách khác, đó là những cử chỉ độc
lập với ngôn từ và
bản thân chúng tạo ra một thông điệp độc lập. Ví dụ: Khi đi xe
đạp và muốn rẽ trái, người ta thường giơ bàn tay trái ra để xin đường.
(2) Các hiện tố minh hoạ (Illustrators)
Các hiện tố minh họa là các cử chỉ đi kèm và bổ sung cho các thông điệp
ngôn từ. Chúng được sử dụng để làm tăng sự sống động cũng như ý nghĩa của ngôn
từ và giao tiếp. Ví dụ: Khi nói về một nội dung nào đó liên quan đến số lượng nhỏ,
người ta thường dùng ngón tay để làm rõ số thứ tự của chúng. Hoặc khi nói: “Lại
đây”, chúng ta hay vẫy đối tác giao tiếp về phía mình.
(3) Các hiện tố điều chỉnh (Regulators)
Các hiện tố điều chỉnh thường được dùng với mục đích khống chế tương tác
ngôn từ; nói cách khác, chúng được sử dụng để duy trì và khống chế dòng nói -
nghe. Các hiện tố điều chỉnh giúp ta biết được liệu c
ó tiếp tục nói, nhắc lại, trình
bày kĩ hoặc đổi vai từ người nói sang người nghe hay không.
Ví dụ: Khi ta đang nói, đối thể giao tiếp định xen lời, ta giơ tay ra, bàn tay
vuông góc với cánh tay, lòng bàn tay hướng về đối thể giao tiếp với thông điệp
“Đừng ngắt lời. Để tôi nói tiếp”.
Hiện tố điều chỉnh cũng được hiểu là những hiện tố đi kèm với dòng ngữ lưu
với chức năng phân cắt các nhóm ngữ nghĩa, giữ nhịp và nhấn mạnh ý.
Ví dụ: Khi
nói, người ta giơ bàn tay chặt vào không khí mỗi khi kết thúc một nhóm ngữ nghĩa:
“Vấn đề này //cần phải được giải quyết // một cách triệt để // một cách quyết liệt //
để lấy lại lòng tin //của những người //đã tin tưởng chúng ta”.
(4) Các hiện tố ẩn cảm (Adaptors)
Các hiện tố ẩn cảm là n
hững hành vi không lời thường được hình thành từ
khi ta còn bé. Nhìn chung, đây là những thói quen có tính cá nhân, chúng là dấu ấn
nhận diện rõ nhất của từng người. Các hiện tố này thường được sử dụng để khống
chế các xúc cảm hoặc giúp ta vượt qua những cảm giác khó chịu. Ví dụ: Có người
khi lúng túng trước một tình huống nào đó, thường liên tục dụi mắt.
(5) Các hiện tố biểu cảm (Affect displays)
Theo Beisler et al. [Dẫn theo 31,
tr. 115], các hiện tố biểu cảm thể hiện các
trạng thái tình cảm của con người trong khi ngôn từ đi kèm không được thốt ra.
Song Dwyer [Dẫn theo 31, tr. 115] lại cho rằng chúng là những biểu hiện vô thức
phản ánh các trạng thái tình cảm trong khi các diễn đạt ngôn từ có chủ đích có thể
che chắn hoặc làm khuất lấp các trạng thái đó. Ví dụ: khi giận bạn trai, một cô gái,
với khuôn mặt xị dài, nhưng lại nói: “Em có giận gì anh đâu”.
1.2.2.2. Phân loại theo nguồn gốc
(1) Các hiện tố xét theo không gian
a) Các hiện tố phổ niệm (Universal)
Các hiện tố phổ niệm là những hành vi không lời phổ biến ở hầu hết các
cộng đồng văn hóa. Chúng là những hành vi giống nhau được sử dụng cùng một
chức năng trong các tình huống tương tự nhau ở các cộng đồng văn hóa khác nhau.
Nó có thể xuất phát từ một nền văn hoá nhất định nhưng đư
ợc quốc tế hóa để trở
thành hành vi chung. Ví dụ: Trong các tình huống trang trọng mang tính quốc tế, ở
hầu hết các nước trên thế giới, hành vi bắt tay giữa các đối tác giao tiếp được coi là
kiểu chào phi ngôn từ thông dụng.
b) Các hiện tố bẩm sinh (Inbom)
Trong khi các hiện tố phổ niệm mang màu sắc văn hóa rõ nét hơn thì các
hiện tố bẩm sinh lại có bản chất sinh học rõ ràng hơn. Chúng là những hành vi
không lời vốn sinh ra đã có và theo ta suốt cuộc đời. Về độ phổ biến, ở một mức độ
đáng kể, chúng cũng có thể được coi là những hiện tố phổ niệm
. Các hành vi như
bú, ngáp, cười, khóc….thuộc về loại này.
c) Các hiện tố di truyền (Genetically transferred)
Các hiện tố kiểu này thường được di truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau,
Nếu thoạt nhìn, người ta có thể lầm tưởng chúng là các hiện tố m
ang tính cá nhân;
nhưng nếu bố mẹ, hoặc thậm chí ông bà, của người sở hữu những hiện tố loại này
cũng có các biểu hiện không lời tương tự thì ta có thể coi đây là các hiện tố di
truyền. Dân gian ta có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”
hoặc “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy”.
d) Các hiện tố cá nhân (lndividual)
Đây là loại hiện tố mà chỉ đối tượng khảo sát có. Loại hiện tố này giúp ta
nhận diện và ghi nhớ đối tượng nhanh và bền nhất. Ví dụ: Bất cứ một vật gì có thể
ăn được mà người đó có trong t
ay, anh ta đều giơ lên mũi ngửi trước khi đưa vào
miệng. Tuy nhiên, nếu loại hiện tố này được nhiều người bắt chước, nó sẽ không
còn là hiện tố cá nhân nữa.