Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.49 KB, 29 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 Doanh nghiệp xây lắp
1.1.1 Khái niệm và vai trò của DNXL
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp là những doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật có đăng ký kinh
doanh về xây lắp. Các công trình xây dựng được phân loại như sau: công trình dân
dụng (nhà ở chung cư và riêng lẻ, công trình văn hóa, giáo dục, y tế...); công trình
công nghiệp (công trình khai thác than quặng, dầu khí, hóa chất, công trình cơ khí
chế tạo, công nghiệp năng lượng...); công trình giao thông (đường bộ, đường sắt,
cầu phà, bến cảng, sân bay...); công trình thủy lợi (hồ chức nước, đập cống trạm
bơm, ống dẫn nước...); công trình hạ tầng kỹ thuật (công trình nhà máy xử lý nước
thải, bãi chứa chôn lấp rác, công trình chiếu sang đô thị...)
Sản xuất xây lắp là một ngành sản xuất mang tính công nghiệp tạo ra những
sản phẩm là cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Vì vậy, các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xây lắp có vai trò quyết định đối với việc thay đổi cơ cấu nền
kinh tế quốc dân mỗi nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của đất nước.
Khuyến khích sự hoạt động của các DNXL sẽ huy động được một lượng vốn đáng
kể nằm trong dân cư, tạo điều kiện cho năng lực của con người được giải phòng và
phát huy. DNXL còn thu hút một số lượng lao động đông đảo, góp phần giảm tỷ lệ
thất nghiệp đồng thời đóng góp một phần chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Thêm
vào đó, nhiệm vụ của xây lắp là xây dựng mới, mở rộng khôi phục và sửa chữa cơ
sở hạ tầng của đất nước, hoạt động xây lắp lại nâng cao trình độ của công nhân và
cập nhật những công nghệ sản xuất hiện đại trên thế giới, vì vậy nó góp phần thúc
đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở các nước đang phát triển .
Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp cũng phải đối
mặt với những khó khăn vốn có đặc trưng của ngành xây lắp xuất phát từ tính đặc
thù của sản phẩm xây lắp và quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp. Những đặc điểm
riêng của ngành và đặc điểm sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công tác tổ chức quản
lý, điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này, giúp ngân hàng đưa ra
những quyết định chính xác, nắm rõ được những rủi ro và đề ra những phương án


khắc phục rủi ro nhằm tiến hành cho vay, bảo lãnh có hiệu quả.
1.1.2 Đặc điểm của DNXL
 Đặc điểm của sản xuất kinh doanh
Địa điểm sản xuất không cố định. Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng là
đơn chiếc, quy mô lớn, thời gian sử dụng dài... dẫn đến đặc điểm sản xuất của
ngành xây dựng khác với các ngành sản xuất khác. Sản xuất nông nghiệp thì gắn
liền với đồng ruộng, sản xuất công nghiệp thì gắn liền với nhà máy.... nhưng đối
với xây lắp, mỗi công trình được tiến hành ở một địa điểm khác nhau. Sau khi hoàn
thành công trình, con người và công cụ lao động đều phải chuyển đến địa điểm
mới. Các phương án về xây dựng, về kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng luôn phải
thay đổi theo từng địa điểm. Như vậy, sản phẩm và nơi tiêu thu sản phẩm là cố
định; nơi sản xuất, địa điểm sản xuất thì luôn di động. Đặc điểm này làm cho sản
xuất xây lắp hay bị gián đoạn (có thời gian chết), vì công nhân máy móc phải di
chuyển địa điểm làm cho việc tổ chức sản xuất không ổn định, khó cải thiện cho
người lao động. Từ đó làm nảy sinh nhiều chi phí khác cho khâu di chuyển lực
lượng thi công và chi phí để xây dựng các công trình tạm phục vụ thi công.
Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường lâu. Sản phẩm của
xây dựng là công trình xây dựng hoàn chỉnh mang tính chất là tài sản cố định nên
thời gian sản xuất ra chúng thường dài (theo tháng, theo năm). Thời gian xây lắp
do bị chi phối bởi quy mô và mức độ phức tạp về kỹ thuật, công trình, dự án, và
đối tượng sinh học của đối tượng dự án. Từ đặc điểm này làm cho công tác thanh
toán vốn đầu tư gặp khó khăn. Nếu chờ xây xong công trình mới thanh toán sẽ làm
cho các DNXL không có vốn hoạt động. Vì vậy phải có phương thức thanh toán
vốn phù hợp nếu không sẽ làm cho các DNXL dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo
thời gian như thời tiết, lãi suất, tỷ giá... Bên cạnh đó tiến độ hoàn thành công trình
cũng là một vấn đề quan trọng. Nếu công trình hoàn thành đưa vào sử dụng không
đúng tiến độ không những làm thiệt hại về kinh tế do vốn “chết” trong thời gian
xây dựng mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành có liên quan.
Sản xuất xây lắp mang tính đơn chiếc theo đơn đặt hàng. Sản phẩm của
ngành khác thường được sản xuất hàng loạt theo một thiết kế thống nhất để bán,

nhưng sản phẩm xây dựng thì mỗi sản phẩm đều phải có một thiết kế riêng, mỗi
công trình riêng biệt đều có khối lượng theo đồ án thiết kế riêng đều phải đảm bảo
thời gian hoàn thành, đều có yêu cầu riêng về công nghệ, về tiện nghi, về mỹ quan
an toàn... ngay cả việc xây lắp theo thiết kế mẫu thì mỗi công trình đều phải được
bổ sung thay đổi cho phù hợp với điều kiện, khí hậu, điệu kiện cung cấp nguyên
vật liệu tại địa điểm xây lắp công trình cụ thể. Do vậy, sản phẩm xây lắp sản suất
từng chiếc theo đơn đặt hàng thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng
thầu, hoặc chỉ định thầu. Người mua và người bán được xác định trước khi có sản
phẩm: đối tượng sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm, hình thức và kết cấu sản
phẩm... Vì vậy rất khó khăn khi doanh nghiệp muốn chuyển đổi mục đích sử dụng
của sản phẩm
Hoạt động xây lắp chủ yếu ngoài trời, chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố
tự nhiên, điều kiện làm việc nặng nhọc. Điền kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, mưa
gió, bão lụt... đều ảnh hưởng đến quá trình xây lắp. Ảnh hưởng này thường làm
gián đoạn quá trình thi công, năng lực của các doanh nghiệp không được điều hòa.
Từ đó ảnh hưởng đến sản phẩm dở dang, đến vật tư thiết bị thi công... ảnh hưởng
đến sức khỏe của người lao động. Đặc điểm này đòi hỏi các DNXL khi tiến hành
xây lắp các dự án đầu tư phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết xấu,
giảm tổn thất do thời tiết gây ra, phải có các giải pháp an toàn lao động và chế độ
chính sách thích hợp đối với người lao động, đồng thời tổ chức tốt hệ thống kho
bãi bảo quản vật tư, sản phẩm dở dang...
Công tác tổ chức quá trình sản xuất xây lắp rất phức tạp. Quá trình thi công
thường gồm nhiều đơn vị tham gia, nhiều thành phần kinh tế tham gia thực hiện
phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian trên một
mặt bằng thi công chật hẹp. Đặc điểm này đòi hỏi các DNXL phải có trình độ phối
hợp cao trong sản xuất để đảm bảo tiến độ thi công và chất lượng công trình. Với
đặc điểm này khi xảy ra sự cố do một đơn vị thi công gây ra làm ảnh hưởng tới
chất lượng và thời gian hoàn thành công trình. Như vậy gây ra sự tranh cãi giữa
các đơn vị tham gia về khoản bồi thường, vì theo nguyên tắc thì các đơn vị sẽ phải
cùng bồi thường theo tỷ lệ. Vì vậy các đơn vị thường phải thỏa thuận trước những

điều kiện, giới hạn trách nhiệm phòng khi có sự cố xảy ra. Cho dù như vậy thì việc
tìm ra nguyên nhân của sự cố và quy kết trách nhiệm cũng vô cùng phức tạp.
 Đặc điểm về sản phẩm xây lắp
Xuất phát từ những đặc thù riêng của ngành xây lắp, sản phẩm xây lắp cũng
có đặc điểm riêng, khác với hàng hóa của các ngành sản xuất vật chất khác. Cụ thể:
Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ
sản phẩm, phục thuộc trực tiếp vào điều kiện địa chất, thủy văn khí hậu. Chất lượng
giá cả (chi phí xây lắp) sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện tự
nhiên. Do vậy để giảm thiểu lãng phí, thất thoát do nguyên nhân khách quan bởi
các tác động trên đòi hỏi phải làm thật tốt công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây
dựng đặc biệt là công tác điều tra khảo sát thăm dò các điều kiện tự nhiên. Dự án
không đảm bảo đúng yêu cầu các quy phạm kỹ thuật, kết cấu phù hợp với các điều
kiện tự nhiên, chất lượng công trình kém.
Sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Sản phẩm xây lắp với tư
cách là công trình lắp đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng, đưa ra trao đổi mua
bán trên thị trường bất động sản là tài sản cố định nên không thể là những sản
phẩm bé nhỏ, sản xuất hàng loạt trong sản xuất công nghiệp. Thể tích của sản
phẩm xây lắp có loại cao như tháp truyền hình, tháp nước, có loại ngầm dưới đất
như đường hầm tàu điện ngầm, đường ống nước thải, ống dẫn khí, có loại lại nổi
trên mặt đất như nhà ở, nhà xưởng. Ngay cả trong bản thân sản phẩm cũng có đầy
đủ ba phần: phần ngầm, phần nổi, phần cao. Kết cấu của sản phẩm phức tạp, một
công trình có thể gồm nhiều hạng mục công trình; một hạng mục có thể bao gồm
nhiều đơn vị công trình; một công trình bao gồm nhiều kết cấu công trình. Các bộ
phận công trình có yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Từ đặc điểm này đòi hỏi: khối
lượng vốn đầu tư lớn, vật tư lao động, máy thi công nhiều...
Với đặc điểm này dẫn đến chu kỳ sản xuất dài. Do đó vốn đầu tư bỏ vào dễ
bị ứ đọng, gây lãng phí hoặc ngược lại nếu thiếu vốn dễ làm công tác thi công bị
gián đoạn kéo dài thời gian xây lắp.
Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phảm có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác. Sản phẩm của ngành

sản xuất vật chất khác là vật phẩm tiêu dùng (dùng cho sản xuất hay dùng cho đời
sống sinh hoạt của con người, của xã hội) có thời gian sử dụng rất ngắn như:
nguyên vật liệu dùng vào sản xuất để sau đó nó biến đổi thành bán thành phẩm và
thành phẩm. Sản phẩm xây lắp với tư cách là công trình xây lắp đã hoàn thành
mang tính chất là một tài sản cố định nên có thời gian sử dụng rất dài và tham gia
vào nhiều chu kỳ sản xuất, sử dụng nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban
đầu cho tới khi thanh lý. Do đặc điểm thời gian sử dụng dài, tuổi thọ cao, nên sai
lầm trong xây lắp sẽ gây tổn thất lớn cả về giá trị (chi phí xây lắp dự án) và chất
lượng dự án, công trình, từ đó gây hậu quả trước mắt và lâu dài. Do đó, trong quá
trình thực hiện phải giám sát chặt chẽ mọi chi phí phát sinh ở trong từng giai đoạn
và giám sát chất lượng công trình nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích,
và có hiệu quả.
Về phương tiện sử dụng sản phẩm xây lắp có liên quan đến nhiều ngành,
vùng địa phương như các đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, đường sắt, các cảng
biển, cảng hàng không... Từ đó đòi hỏi phải chú ý cân nhắc ký về chủ chương đầu
tư nhằm thực hiện dự án có hiệu quả tối ưu cả về mặt kinh tế và mặt xã hội.
Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp về kỹ thuật kinh tế, xã hội, văn hóa,
nghệ thuật và quốc phòng. Đặc điểm này có thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn,
mất cân đối trong quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các khâu công tác từ quá trình
chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây lắp cũng như quá trình thi công.
Sản phẩm xây lắp có tính chất đơn chiếc, riêng lẻ. Mỗi sản phẩm đều có thiết
kế riêng theo yêu cầu của nhiệm vụ thiết kế. Mỗi công trình có yêu cầu riêng về
công nghệ, qui phạm, về tiện nghi, mỹ quan và an toàn. Do đó khối lượng, chất
lượng và chi phí của mỗi công trình khác nhau mặc dù về hình thức có thể giống
nhau khi xây trên những địa điểm khác nhau. Đồng thời các công trình, hạng mục
công trình đòi hỏi nhiều chủng loại nguyên vật liệu, sử dụng nhiều máy thi công
gây khó khăn trong công tác tính toán chi phí xây lắp.
Tóm lại, nghiên cứu những đặc thù riêng của sản phẩm xây lắp và tổ chức
sản xuất xây lắp có thể rút ra một số những đặc điểm chủ yếu sau. Thứ nhất, thời
gian sản xuất lâu dài lại chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu. Thứ hai, thời gian sử

dụng sản phẩm lâu dài. Thứ ba, quy mô sản phẩm to lớn phức tạp, đòi hỏi quy mô
vốn lớn, quy trình công nghệ cao. Thứ tư, sản phẩm thường bất động gắn liền với
địa điểm sản xuất, trong khi địa điểm sản xuất lại không cố định. Với những đặc
điểm này thường khiến các DNXL gặp rất nhiều rủi ro hơn so với các loại hình
doanh nghiệp khác như do thời gian xây dựng lâu dài, khối lượng vốn lớn thường
xảy ra tính trạng ứ đọng vốn, hoặc phát sinh thêm những chi phí bất thường, hay
hoàn thành công trình xong chưa được nhà đầu tư thanh toán ngay...Vì vậy, các
DNXL khó tiếp cận nguồn tài trợ của ngân hàng, hoặc nếu có thì phải chịu những
điều kiện rất khắt khe và thủ tục phức tạp. Ngoài ra, do đặc điểm của sản phẩm và
sản xuất nên DNXL thường có tổng dư nợ tương đối lớn, và TSCĐ của doanh
nghiệp lớn. Đây là điểm mà các cán bộ thực hiện cần chú ý khi thẩm định tài chính
doanh nghiệp. Như vậy, khi đánh giá DNXL ngân hàng thường xem xét hai khía
cạnh là năng lực tài chính và năng lực thi công của doanh nghiệp. Khả năng thực
hiện công trình thể hiện ở chất lượng máy móc thi công, đội ngũ công nhân, kinh
nghiệm của doanh nghiệp... Đánh giá về mặt tài chính sẽ rất phức tạp và khó chính
xác, ngân hàng thưòng phải xem xét khả năng thực hiện công trình của DNXL coi
đây là một yêu tố quan trọng đầu tiên để ra quyết định.
Đồng thời, các DNXL muốn được tham gia xây dựng một công trình đều
phải thông qua hoạt động đấu thầu. Điều kiện của quy chế dự thầu là người dự
thầu phải cung cấp bảo lãnh dự thầu. Khi trúng thầu, chủ đầu tư thường xuyên yêu
cầu chủ thầu phải thực hiện bảo lãnh thực hiện hợp đồng nhằm đảm bảo hoàn
thành công trình xây lắp đúng như các điều khoản trong hợp đồng cơ sở. Còn sau
khi công trình hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng, đến hạn thanh toán tiền
cho nhà thầu, chủ đầu tư vẫn giữ lại một số tiền để buộc nhà thầu có trách nhiệm
bảo hành sửa chữa khi có sự cố. Nếu muốn được thanh toán số tiền này, chủ thầu
phải có một hợp đồng bảo lãnh của ngân hàng bảo đảm chất lượng công trình....
Bảo lãnh ngân hàng ra đời là một trong những hoạt động quan trọng nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn cho DNXL mà có độ rủi ro thấp hơn so với cho vay.
1.2 Bảo lãnh của NHTM đối với DNXL
1.2.1 Tổng quan về bảo lãnh của NHTM

“Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”
1
. Nghiệp vụ kinh doanh truyền thống của NHTM là các nghiệp vụ nội
1 Giáo trình ngân hàng thương mại, chủ biên PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, NXB thống kê
bảng, nói cách khác với chức năng là trung gian tài chính, các NHTM thực hiện
huy động vốn nhàn rỗi của xãc hội để cho vay lại đối với nền kinh tế. Thu nhập của
NHTM chính là chênh lệch lãi suất giữa “đầu ra” và “đầu vào”. Tuy nhiên, khi thị
trường tài chính - tiền tệ phát triển thì kinh doanh thông qua các hoạt động ngoại
bảng được các NHTM quan tâm hơn và có xu hướng phát triển nhanh. Các hoạt
động ngoại bảng chủ yếu hiện nay bao gồm: bảo lãnh và cam kết, những sản phẩm
dịch vụ liên quan tới hoạt động của thị trường tài chính - tiền tệ và cuối cùng là
hoạt động tư vấn và quản lý tài sản có thu phí.
Bảo lãnh là loại hình hoạt động ngoại bảng điển hình, xuất hiện vào giữa
những năm 60 trong thị trường nội địa nước Mỹ. Sau đó vào đầu những năm 70,
bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Kể từ đó
đến nay, với khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao dịch vị trí của bảo lãnh
ngày càng được củng cố một cách vững chắc. Doanh số của nghiệp vụ này gia tăng
một cách đáng kinh ngạc ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, vào
đầu những năm 90, khi nền kinh tế nước nhà bắt đầu hội nhập với kinh tế thế giới
và khu vực, các hoạt động ngân hàng trở nên đa dạng, phong phú, trong đó hoạt
động bảo lãnh và tái bảo lãnh được phát triển như một tất yếu khách quan tuy vẫn
còn nhiều hạn chế.
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Đây được coi là một hình
thức tài trợ băng uy tín của ngân hàng cho khách hàng qua đó khách hàng có thể
tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản

xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Chi phí của hoạt động bảo lãnh thường thấp hơn so với các các hoạt động
cho vay, nhưng thu nhập mang lại đáng kế vì thế rất hấp dẫn các NHTM. Đơn cử
khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh thực hiện hợp đồng (với rủi ro gần như bằng
không) cho một dự án lớn thì phí bảo lãnh thu được cũng rất đáng kể. Phí bảo lãnh
được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí, ngân hàng có thể
yêu cầu khách hàng phải kí quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng với mức
lãi suất rất thấp. Chi phí bảo lãnh trực tiếp thường rất thấp, tuy nhiên ngân hàng
vẫn phải bỏ ra những chi phí gián tiếp khác để thu hút khách hàng tham gia, như
chi phí xây dựng thương hiệu ngân hàng mạnh, chi phí đào tạo cán bộ, chi phí
quảng cáo... Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh doanh
ngoại tệ, tư vấn, thanh toán...
Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi
ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân
hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối
liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải
thực hiện các cam kết. Bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên
thứ ba khi tổn thất xảy ra.
1.2.2 Bảo lãnh của NHTM đối với DNXL
1.2.2.1 Sự cần thiết của hoạt động bảo lãnh đối với DNXL
Như chúng ta đã biết trong kinh doanh để đạt được sự thành công đôi khi
cũng đòi hỏi phải mạo hiểm, mạnh dạn nhưng không có nghĩa là chấp nhận rủi ro.
Mặc dù không thể xóa bỏ hoàn toàn rủi ro, song các doanh nghiệp luôn tìm cách
hạn chế rủi ro xảy ra ở mức thấp nhất. Như vậy vai trò quan trọng nhất của bảo
lãnh đó là hạn chế rủi ro.
Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh, trong nhiều trường hợp, thông qua bảo
lãnh khách hàng không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ
hoặc kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ... Các doanh nghiệp còn
có điều kiện tiếp cận với nguồn tài trợ ngay cả khi không đủ điều kiện để được cấp
tín dụng ngân hàng. Vì vậy mặc dù không trực tiếp cấp vốn nhưng việc phát hành

bảo lãnh ngân hàng đã giúp cho khách hàng của họ được hưởng những thuận lợi về
ngân quỹ như khi được vay thực sự. Như vậy, bảo lãnh được coi là một trong
những dịch vụ ngân hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đáp ứng kịp thời yêu cầu
phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về nguồn
vốn hoạt động của các doanh nghiệp đặc biệt là các DNXL. Hầu hết các hợp đồng
thi công hoặc các hợp đồng mua bán lớn đòi hỏi phải thực hiện trong thời gian dài
mới hoàn tất. Điều này đặt ra một nhu cầu tài trợ. Người thi công (DNXL) sẽ rất
khó khăn về mặt tài chính và chịu nhiều rủi ro khi chủ thầu thanh toán theo từng
hạng mục công trình hoặc hoàn tất công trình. Do đó, nhiều DNXL thường thương
lượng với chủ thầu về một khoản tiền ứng trước, khoản tiền này thể hiện sự tài trợ
của chủ thầu đồng thời cũng nói lên trách nhiệm cùng tham gia và công trình của
hai bên. DNXL sẽ nhận một khoản tiền ứng trước của chủ công trình từ ngân hàng
phát hành bảo lãnh của mình và ngân hàng chịu trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ
sau khi đã nhận tiền ứng trước.
Trong suốt thời gian hiệu lực của bảo lãnh, người thụ hưởng luôn luôn có
quyền yêu cầu phát hành thanh toán bảo lãnh khi người được bảo lãnh vi phạm hợp
đồng (bất kể mức độ nào và thiệt hại cho người thụ hưởng là bảo nhiêu). Do vậy
mà người được bảo lãnh luôn chịu một áp lực của việc phải bồi hoàn hợp đồng.
Trên thực tế, người thụ hưởng cũng luôn mong muốn người được bảo lãnh thực
hiện hợp đồng chứ không muốn phải bồi hoàn tài chính từ ngân hàng đặc biệt là
trong lĩnh vực xây lắp. Vì việc tìm kiếm một công ty khác để thi công tiếp công
trình dở dang là điều không dễ dàng, tốn kém thời gian và chi phí. Vì vậy mà nhờ
có bảo lãnh ngân hàng mà bên được bảo lãnh bị đốc thúc thực hiện hoàn tất hợp
đồng đã ký kết.
Đối với các ngân hàng, hoạt động bảo lãnh không chỉ góp phần tăng doanh
thu cho ngân hàng thông qua hoạt động thu phí mà còn nâng cao uy tín, thương
hiệu của ngân hàng trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Khi khác hàng
ký quỹ để được bảo lãnh, nguồn tiền này trở thành một nguồn vốn huy động với
giá rẻ tương đối ổn định trong một khoảng thời gian có thể dự tính trước. Bên
cạnh đó, hoạt động bảo lãnh chịu một mức rủi ro thấp hơn rất nhiều so với hoạt

động cho vay do ngân hàng không phải xuất quỹ cho doanh nghiệp đồng thời đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng góp phần hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Đối với nền kinh tế, thông qua hoạt động bảo lãnh đáp ứng các yêu cầu kịp
thời về phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về
nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp đặc biệt là DNXL từ đó thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, giải quyết được vấn đề việc làm. Bảo lãnh xuất hiện giải quyết
được vần đề không tin tưởng nhau giữ các bên trong quá trình đàm phán tiến đến
thực hiện hợp đồng. Bằng việc cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra các biến cố vi
phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo
ra một sự bảo đảm chắc chắn cho người thụ hưởng. Chính sự tin tưởng ấy tạo điều
kiện cho hợp đồng được ký kết một cách suôn sẻ thuận lợi. Vì vậy, bảo lãnh ngân
hàng thực sự là chất xúc tác giúp cho các hợp đồng xây lắp được ký kết một cách
thuận lợi.
Cuối cùng, phí bảo lãnh còn được sử dụng như đòn bẩy để hướng nghiệp vụ
bảo lãnh phục vụ cho một số lĩnh vực kinh tế nhất định thúc đẩy ngành kinh tế mũi
nhọn và hạn chế một số lĩnh vực hoạt động kém hiệu quả.
1.2.2.2 Các loại hình bảo lãnh được áp dụng chủ yếu trong xây lắp
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp chủ yếu sử dựng 4 hình
thức bảo lãnh sau: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm
bảo chất lượng sản phẩm và bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước.
• bảo lãnh dự thầu (Tender Guarantee – Bid Bond): thông thường đối
với hợp đồng lớn, đặc biệt là những hợp đồng thiết kế, xây dựng hay cung cấp thiết
bị thì người chủ công trình thường lựa chọn đối tác thi công thông qua đấu thầu.
Mục đích của bảo lãnh dự thầu là đảm bảo người dự thầu không rút lui, hủy bỏ hợp
đồng hay thay đổi ý định khi đã trúng thầu gây mất thời gian và lãng phí trong

×