Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 211 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




Đặng Thị Kim Phượng


ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA
CỦA PHẦN PHỤ CHÚ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT




Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN



Thành phố Hồ Chí Minh - 2009





LỜI CẢM ƠN

Em xin kính gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến
PGS.TS Dư Ngọc Ngân – người đã hết lòng động viên, dẫn dắt
trong quá trình thực hiện đề tài.
Em trân trọng cảm ơn quý
thầy cô đã truyền đạt kiến thức
cùng những kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua.
Cuối
cùng, xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội
đồng, gia đình, nhà trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều
kiện học tập, nghiê
n cứu.
Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/12/2009
Tác giả

Đặng Thị Kim Phượng







DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lí do chọn đề tài
Phần phụ chú là một vấn đề ngữ pháp thuộc thành phần câu. Về mặt
ngữ pháp, phần phụ chú là một thành phần biệt lập, nằm ngoài cấu trúc cú
pháp của câu. Tuy nhiên xét về mặt ý nghĩa trong câu, phần phụ chú lại có
quan hệ nội hướng, nó dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên
quan đến sự tình nêu trong câu, giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về
nội dung của câu hay dụng ý của người chú giải.
Vấn đề phân định thành phần câu nói chung là một vấn đề không đơn
giản, nhất là khi nó vượt ra ngoài hai thành phần chí
nh của câu là chủ ngữ và
vị ngữ. Vì vậy phần phụ chú, với tư cách là một “thành phần phụ”,“thứ yếu”,
“biệt lập”, được nhìn nhận rất khác nhau ở nhiều nhà nghiên cứu. Nhìn chung
có hai cách hiểu về phần phụ chú:
Cách thứ nhất cho đó là thành phần phụ nằm
trong câu được dùng để
giải thích hay bổ sung ý nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó và có cùng
chức năng ngữ pháp với bộ phận được chú thích (Hoàng Trọng Phiến).
Cách thứ hai cho rằng đây là thành phần có thể cùng chức năng hoặc
không đồng chức năng với bộ phận ngữ pháp được nó chú giải bởi nó không
chỉ là thành phần phụ giải thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó
của câu mà nó còn được dùng để g
iải thích, bổ sung một điều cần chú thích
cho toàn câu.
Ngoài ra, phần phụ chú trong câu tiếng Việt, mặc dù là một vấn đề ngữ
pháp đã xuất hiện từ lâu nhưng ít được các nhà nghiên cứu quan tâm. Chính
vì vậy, khi bàn về vấn đề này, các tác giả cũng chỉ mới đưa ra khái niệm, nêu
quan hệ nghĩa chung của phần phụ chú với phần câu còn lại, chưa bao quát
được vấn đề. Có thể nói rằng, cho đến nay việc nghiên cứu về phần phụ chú



trong câu tiếng Việt vẫn chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn có rất ít
công trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề này (ngoài công trình nghiên cứu của
Đào Thị Vân). Trong khi đó, về nguyên tắc, có thể tìm hiểu phụ chú ở nhiều
phương diện nghĩa như: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái,… để làm rõ vai trò,
tác dụng của phụ chú trong câu, văn bản.
Vì tính đa dạng, phức tạp trong cách nhìn nhận vấn đề và sự cần thiết
khai thác đề tài nên chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề lí thú, một mảng
nghiên cứu giàu tiềm năng. Trong luận văn này, chúng tôi m
uốn đi tìm hiểu
sâu hơn về Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt, hy
vọng sẽ có thêm những đóng góp cho loại thành phần câu này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của người đi trước, luận
văn sẽ khảo sát đặc điểm n
gữ nghĩa của phần phụ chú trên một số loại văn
bản như văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản chính luận và văn bản
báo chí.
Hướng đi của chúng tôi là tập hợp các câu có phần phụ chú trong một
số văn bản thuộc những phong cách ngôn ngữ khác nhau để khảo sát và khái
quát hoá các đặc trưng về chức năng ngữ nghĩa của phụ chú trong khung câu.
Từ đó có thể có được cách nhìn nhận đầy đủ hơn về vai trò, tác dụng của phần
phụ chú trong câu và trong văn bản tiếng Việt.
Về mặt lý luận, luận văn hy vọng góp phần làm rõ thêm
về khái niệm,
cách nhận diện phần phụ chú và đặc biệt là làm rõ những đặc điểm về ngữ
nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng của phần phụ chú trong câu tiếng
Việt. Đó là những vấn đề đã được đề cập đến nhưng chưa được quan tâm
đúng mức và chưa đư

ợc lí giải đầy đủ.


Về mặt thực tiễn, xuất phát từ thực tế viết câu của học sinh, có thể cung
cấp cho các em một số kĩ năng để phát hiện, sửa lỗi câu, cải biến câu… làm
cho nghĩa của câu không chỉ chính xác mà còn phong phú, đa dạng hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Phần phụ chú là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu ngữ pháp trên
thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm
từ lâu.
2.1. Việc nghiên cứu phần phụ chú trên thế giới
Theo một số tài liệu mà chúng tôi có được, từ đầu thế kỉ XX, các nhà
ngôn ngữ học thế giới đã đề cập đến phần phụ chú với hai tên gọi là cú giải
thích (comment clause) và phần trong ngoặc (parenthesis). Cách gọi “trong
ngoặc” là cách gọi hình ảnh, không nhất thiết phải đặt trong ngoặc đơn.
Đến năm 1985, R.Quirk, S.Greenbaum, G.Leech, J.Svartvik t
rong công
trình “A Comprehensive Grammar of the English Language” đánh dấu bước
chuyển mới trong việc nghiên cứu phần phụ chú: cú giải thích được coi là
“phần biệt lập kiểu trong ngoặc” (Comment clause are parenthetical
disjuncts). Chúng có thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế
nói chung mang một âm điệu tách rời [61: 106-107].
Năm 1995, Asher R.E trong “The Encyclopedia of language and
linguistics” cho rằng phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở
rộng trong một văn bản, loại như I saw him – John that is – yesterday” (tôi đã
gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm
qua).
2.2. Việc nghiên cứu phần phụ chú ở Việt Nam
Ở nước ta, một trong những tài liệu đầu tiên bàn về vấn đề liên quan
đến phụ chú có lẽ là “Việt Nam văn phạm” của các tác giả Trần Trọng Kim,

Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm (in lần thứ tư, tủ sách giáo khoa Tân Việt, không đề
năm in). Trong quyển sách này, tuy không nhắc đến phụ chú nhưng khi bàn
về dấu câu
, các tác giả viết như sau: “Dấu ngoặc đơn [( )]dùng để phân những


tiếng có nghĩa riêng ở giữa câu và để giải thích cái nghĩa cả câu” [31:36]
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, giới nghiên cứu Việt ngữ học đã đề
cập đến phụ chú trong tiếng Việt.
Năm 1963, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê dùng khái niệm giải
từ (tức phụ chú) để chỉ hiện tượng ngữ pháp này. Các tác giả đã phân biệt giải
từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ bậc câu.
Bàn
về phần phụ chú, tác giả Nguyễn Kim Thản trong “Nghiên cứu về
ngữ pháp tiếng Việt”, tập II (1964) dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú
ngữ . Ở đây ông đã xem xét hai khái niệm này với tư cách là thành phần biệt
lập (hoặc còn gọi là thành phần thứ yếu biệt lập). Tuy nhiên đến 1997, trong
cuốn “Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt”, ông đã dùng một thuật ngữ khác để gọi tê
n
hiện tượng ngữ pháp này: gia ngữ, ông cho rằng gia ngữ là một thành phần
phụ bên cạnh những thành phần khác như trạng ngữ, khởi ngữ, hô ngữ.
Đến năm 1980, Hoàng Trọng Phiến, trong công trình nghiên cứu “Ngữ
pháp tiếng Việt, câu”, đã nhắc đến hiện tượng ngữ pháp này với thuật ngữ
đồng vị ngữ.
Cùng năm ấy, Hữu Quỳnh trong “Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại” đã đề
cập đến phần phụ chú với tên gọi thành phần xen. Cách hiểu về thành phần
xen của t
ác giả Hữu Quỳnh có quan niệm rộng hơn so với tác giả Hoàng
Trọng Phiến về hiện tượng ngữ pháp này.
Theo quan niệm của các tác giả của cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”- Uỷ

ban Khoa học xã hội Việt Nam (1983), thành phần phụ chú là “thành phần bổ
sung một điều chú thích kịp thời hoặc ch
o cả nòng cốt câu hoặc cho một yếu
tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó [49: 43,191].
Như vậy, cách hiểu của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam có phần gần
gũi với các tác giả Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê, Hữu Quỳnh.


Cũng trong năm 1983, Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng
Văn Thung trong quyển “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt”, tập II, đã nhắc đến
hiện tượng ngữ pháp này với tên gọi thành phần biệt lập (biệt lập ngữ). Theo
quan niệm của các tác giả này, thành phần biệt lập là một bộ phận “không cấu
tạo nên nòng cốt câu”, không bổ sung ý nghĩa cho câu, không có quan hệ về ý
nghĩa và về ngữ pháp với câu” [8: 204].
Tác giả Diệp Quang Ban trong “Câu đơn tiếng Việt” (1987) đã phân
biệt giải ngữ của câu với giải n
gữ của từ. “Giải ngữ của câu thường đứng
giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau nòng cốt câu, cũng có kiểu có thể đứng
trước nòng cốt câu. Còn giải ngữ của từ được coi là phần phụ của từ “được
dùng để thuyết m
inh thêm nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó
của từ mà nó phụ thuộc về nghĩa. Theo ông điểm chung của hai thành phần
này là “tuy biệt lập về mặt ngữ pháp (không có quan hệ về mặt ngữ pháp) với
các yếu tố khác trong câu một cách hiển nhiên nhưng về mặt ý nghĩa lại giải
thích cho toàn câu, hoặc một yếu tố nào đó trong câu, tức là có quan hệ nội
hướng”.
Trong một công trình khác [5], Diệp Quang Ban cho rằng phần phụ chú
là một bộ phận có t
ính chất trung gian. Theo ông, có những trường hợp phần
phụ chú nằm trong cấu trúc cú pháp của câu một cách rõ rệt. Nhưng trong

không ít trường hợp khác, ông cũng thừa nhận rằng phần phụ chú nằm ngoài
cấu trúc cú pháp của câu chứa nó.
Sau đó, Hồ Lê trong “Cú pháp tiếng Việt” quyển II (1992) gọi thành
phần này là phụ chú ngữ. Quan điểm của ông gần với quan điểm của Nguyễn
Ki
m Thản. Ông đề nghị gọi đồng vị ngữ của Nguyễn Kim Thản là đồng danh
ngữ và phụ chú ngữ của Nguyễn Kim Thản là đoạn chú thích. Ngoài ra, tác
giả Hồ Lê cũng nêu những điều kiện khống chế để thiết lập hai kiểu nhỏ phụ
chú này.


Điểm chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Hồ
Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn Thung là đều coi phụ chú là thành phần
biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có phần khác. Mặc dù vậy, quan niệm về phần
phụ chú vẫn còn có những điểm khác biệt, chưa thống nhất ở nhiều nhà
nghiên cứu, thậm chí chúng ta cũng có thể thấy những quan niệm khác nhau ở
cùng một nhà nghiên cứu.
Gần đây nhất, Đào Thị Vân trong công trình nghiên cứu về “phần phụ
chú trong câu tiếng Việt” (2003) đã xem
xét phần phụ chú ở các phương diện:
phương diện cấu tạo hình thức, phương diện hành động nói, phương diện
quan hệ nghĩa với phần văn bản hữu quan . Tuy vậy, ở mảng đề tài này, chúng
tôi nhận thấy có thể khai thác sâu hơn nữa về mặt ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ
nghĩa ngữ dụng để là
m rõ hơn nữa vai trò, tác dụng của phần phụ chú trong
câu tiếng Việt.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Xem xét một số ý kiến tiêu biểu về phụ chú nói chung và phụ chú trong
tiếng Việt nói riêng, vận dụng chúng vào việc nhận diện phụ chú, đồng thời

xác lập một cách nhìn về phụ chú trong câu tiếng Việt.
- Xem
xét vai trò của phần phụ chú trong khung câu ở hai bình diện: ngữ
nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng. Cụ thể, xem xét phần phụ chú trong
khung câu ở các phương diện: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và các hành
động nói.
- Đối chiếu tần số sử dụng của các kiểu phụ chú trên bốn loại văn bản:
văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản hành chính và văn bản báo
chí. Từ đó luận văn khái quát hóa đặc điểm
và cách thức sử dụng của phần
phụ chú trong câu, văn bản tiếng Việt.



4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu, ngoài những
phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung như: thu thập ngữ liệu,
phân loại, khảo sát, nhận xét…, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các
quan hệ giữa phần phụ chú và nội dung câu ở bình diện ngữ nghĩa (ngữ nghĩa
biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng).
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học: Phương pháp này được sử dụng
thường xuyên để phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa
ngữ dụng của phần phụ chú, là
m rõ vai trò và tác dụng của chúng trong khung
câu.
- Phương pháp thống kê: Luận văn dùng phương pháp này để định lượng
đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong các loại văn bản tiếng Việt.
4.2. Nguồn ngữ liệu

Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các văn bản thuộc các phong
cách ngôn ngữ như: phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách khoa học,
phong cách chính luận và phong cách b
áo chí.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập và phần Kết luận, phần Nội dung chính của
luận văn được phân thành 3 chương.
Chương 1: Chương này trình bày những vấn đề lí luận cơ sở như khái
niệm p
hần phụ chú trong câu, những phương diện nghĩa của câu bao gồm
nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và lí thuyết hành động ngôn từ. Đây là chương
làm tiền đề cho việc khảo sát và phân tích ngữ nghĩa biểu hiện, ngữ nghĩa ngữ
dụng của phụ chú trong các chương sau.


Chương 2: Chúng tôi tiến hành khảo sát mặt ngữ nghĩa biểu hiện của
phần phụ chú với những ngữ liệu được thu thập trong các văn bản thuộc nhiều
phong cách ngôn ngữ khác nhau. Thông qua kết quả khảo sát ngữ liệu, trong
chương này, luận văn nêu bật những ý nghĩa của phần phụ chú trong quan hệ
với cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu.
Chương 3: Chương này khảo sát phần phụ chú về mặt ngữ nghĩa ngữ
dụng. Từ đó luận văn phân tích và khái quát phần phụ chú trên cơ sở đích

ngôn trung và nghĩa tình thái.




















Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ TỔNG QUAN VỀ PHẦN PHỤ CHÚ

1.1. Khái quát về phần phụ chú
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1 Giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới
Khái niệm về thành phần phụ chú phụ thuộc khá nhiều vào tên gọi của
nó. Trong tiếng Anh, phụ chú được gọi là cú giải thích (comment clause) và
phần trong ngoặc (parenthesis).
*Theo R. Qurik, Cú giải thích được coi là “phần biệt lập kiểu trong
ngoặc” (comment clause are parenthetical disjuncts), “một cú dùng để chú
thích cho một cú khác trong câu” (comment clause: a clause which comments
on another clause in a sentence); ở một chỗ khác, tác giả viết Cú giải thích là
“một lời chú thích thêm
, thường theo kiểu đặt trong ngoặc đơn, cho một cú
khác” (A comment added, often parenthetically, to another clause). Chúng có

thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế nói chung mang một
âm điệu tách rời. Cú giải thích cũng là phần biệt lập về mặt nội dung, dùng để
diễn đạt những lời giải thích của người nói đối với nội dung của câu chứa
chúng, hoặc là biệt lập về mặt phong cách, dùng để kèm thêm cách nhìn của
người nói đối với cách nói đang được dùng [61: 112].
Ví dụ:
- He is, I believe, an American.
(Anh ấy, tôi tin vậy, là người Mĩ).
-Coming from you, that sounds surpri
sing.
(Theo anh nói, điều đó nghe có vẻ bất ngờ quá).


* Theo Asher, Phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở
rộng trong một văn bản”.
Ví dụ:
I saw him – John that is – yesterday
(Tôi đã gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm qua).
1.1.1.2 Giới nghiên cứu Việt ngữ học
Cách hiểu về phần phụ chú vẫn chưa có sự thống nhất. Dựa vào quan
điểm của các nhà nghiên cứu, có thể chia thành 2 khuynh hướng:
a. Khuynh hướng 1
Khuynh hướng này bao gồm những quan điểm
cho rằng thành phần
phụ chú là một thành phần phụ nằm trong câu, được dùng để giải thích hay bổ
sung nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó (tức nó chỉ có quan hệ với bộ
phận nào đó của câu) và có cùng chức năng ngữ pháp với bộ phận này.
Đại diện cho khuynh hướng này có thể kể đến Hoàng Trọng Phiến,
Hữu Quỳnh…. Hoàng Trọng Phiến gọi thành phần phụ chú là đồng vị ngữ,
ông định nghĩa: đồng vị ngữ là “những từ khác nhau cùng biểu hiện một biểu

vật, có cùng chức năng ngữ pháp của thành phần trước đó” [40: 148]
. “Đó là
thành phần có tổ chức riêng, có cùng vị trí, chức năng của thành phần trước
đó. Chức năng của nó là chú thích thêm cho rõ nghĩa của thành phần trước
nó” [39: 146] và “có thể bỏ đi cũng không phương hại gì đến cấu trúc câu và
ý nghĩa cơ bản của câu” [40: 148]
.
Ví dụ: Hà Nội – thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là
nơi đại diện cho nền văn hóa của dân tộc ta
Còn Hữu Quỳnh [42] gọi đây là thành phần xen và xác định nội dung
của nó như sau: “thành phần có tác dụng nói rõ thêm nội dung của một từ hay
nhóm từ ở trong câu, về ý nghĩa, nó giống như lời chú thích, bổ sung đối với
một điều nào đó trong câu. Về mặt cấu tạo ngữ phá
p, nó không phải là thành


phần trong nòng cốt câu; nó thường được đặt tiếp sau từ hay nhóm từ mà nó
có quan hệ về ý nghĩa” [42: 135].
b. Khuynh hướng 2
Khuynh hướng này được hầu hết các nhà nghiên cứu Việt ngữ học tán
đồng. Đây là quan điểm cho rằng phụ chú không chỉ là thành phần phụ giải
thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó của câu mà nó còn được
dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích cho toàn câu, hoặc những
đơn vị lớn hơn câu, nó không đồng chức năng ngữ pháp với bộ phận được nó

chú thích.
* Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê [12] dùng khái niệm giải từ (tức
phụ chú) và phân biệt giải từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ
bậc câu.
- Giải từ ở bậc cụm từ được xác định “là tiếng dùng để giải thích một

tiếng khác, chứ không thêm
nghĩa. Giải từ đứng sau tiếng chính” [12: 252].
Trong các ví dụ, tác giả có dẫn ra ví dụ lấy từ tác phẩm của Trần Tế Xương:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời,
Chúc cho khắp hết cả trên đời,
Vua quan sĩ thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.
- Giải từ bậc câu “là tiếng dùng để giải thích một việc hay nhiều việc”
[12: 583]. Ví dụ:
Tối ba mươi nghe pháo nổ đùng: òa! tết!
Sáng mồng một đụng nêu kêu cộp: ủa! xuân!
* Nguyễn Ki
m Thản [44] dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú ngữ
theo hai cách hiểu: Đồng vị ngữ được định nghĩa là “khác ngữ đồng vị ở chỗ
nó đứng biệt lập, không nhập vào từ tổ với từ mà nó giải thích. Đồng vị ngữ
trong tiếng Việt bao giờ cũng là danh từ đứng sau từ m
à nó giải thích, và có


thể xen vào sau bất kì thành phần nào [44: 222]. Để minh họa cho khái niệm
này, tác giả đã đưa ra ví dụ: Đích bèn chung vốn với Oanh, một bạn gái đồng
sự của y.
Còn phụ chú ngữ thì giải thích thêm một từ nào đó hoặc dùng để tỏ
thái độ chủ quan của người nói đối với sự vật, hoạt động hay trạng thái nêu ra
trong câu [44: 225].
Như vậy, theo cách giải thích của Nguyễn Kim Thản thì phụ chú vừa
hẹp hơn (l
oại trừ cái gọi là “đồng vị ngữ” ra khỏi phụ chú), vừa rộng hơn
(cộng thêm cái mà một số tác giả khác coi là “phần tình thái”) so với quan
niệm của nhiều tác giả khác.

Sau này, Nguyễn Kim Thản lại dùng thuật ngữ “gia ngữ” [45] và định
nghĩa: Gia ngữ là phần phụ có tác dụng giải thích thêm nội dung của một từ,
một cụm từ nào đó, hoặc chú thích thái độ tình cảm của người nói, người viết.
Gia ngữ bao giờ cũng đặt ở sau từ, cụm từ được giải thích thêm
, hoặc được
chú thích thêm, và thường xen vào giữa lời nói. Gia ngữ thường đặt sau một
quãng ngắt nhỏ thể hiện trên chữ viết bằng một dấu phẩy hay một dấu gạch
ngang (-) và kết thúc bằng một quãng ngắt nhỏ [45: 53].
Ví dụ: Thưa ông – người lạ mặt hỏi – có phải ông l
à ông Hai không ạ?
Các tác giả của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam [49] cho rằng thành
phần phụ chú là “thành phần bổ sung một điều chú thích kịp thời hoặc cho cả
nòng cốt câu hoặc cho một yếu tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó
[49:191].
Thành phần phụ chú còn được gọi bằng hai thuật ngữ: giải thích ngữ
và chú thích ngữ dựa vào vào ý nghĩa, cấu tạo và đặc trưng ngữ pháp. Theo
quan niệm của các nhóm
tác giả Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban,
Hoàng Văn Thung [8]:


- Giải thích ngữ là thành phần biệt lập dùng để giải thích thêm cho nội
dung của từ hoặc cụm từ làm thành phần câu hay thành tố phụ trong cụm từ
[8: 204]; có vị trí ngay sau từ mà nó giải thích, được ngăn cách với từ này
bằng một quãng ngắt, được biểu thị bằng dấu phẩy, dấu ngang hoặc dấu
ngoặc đơn và có cấu tạo thường do danh từ hoặc cụm danh từ đảm nhiệm.
- Chú thích ngữ là “thành phần biệt lập dùng để chú thích thêm tình cảm,

thái độ, cảm tưởng, ý nghĩ của người nói về một ý nào đấy do một bộ phận
nào đấy trong câu biểu thị; có vị trí thường đứng liền sau bộ phận mà nó chú

thích, tách khỏi bộ phận này bằng một quãng ngắt được đánh dấu bằng vạch
ngang hoặc bằng một dấu ngoặc đơn”; có cấu tạo do cụm từ, câu, hoặc có khi
cả một đoạn văn gồm nhiều câu biểu thị [8: 207]. Như vậy, nội dung của
“thành phần biệt lập” cũng không có gì khác “t
hành phần xen” và “thành
phần phụ chú” đã nói ở trên.
Diệp Quang Ban [1] phân biệt giải ngữ của câu với giải ngữ của từ như
sau: “Giải ngữ của câu thường đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau
nòng cốt c
âu, cũng có kiểu có thể đứng trước nòng cốt câu. Giải ngữ của câu
được dùng làm sáng tỏ thêm về một phương diện nào đó có liên quan gián
tiếp đến câu làm cho người nghe hiểu câu nói đúng hơn, rõ hơn. Thông
thường nội dung của giải ngữ câu là sự bổ sung các chi tiết, là sự bình phẩm
về việc nói trong câu, làm rõ xuất xứ câu, làm rõ thái độ, cách thức đi kèm khi
câu được diễn đạt [1: 200]
.
Giải ngữ của từ được coi là phần phụ “được dùng để thuyết minh thêm
nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó của từ mà nó phụ thuộc về
nghĩa (…). Giải ngữ thường đứng sau từ nó có quan hệ nghĩa, Tuy nhiên cũng
không hiếm trường hợp không có sự liên hệ trực tiếp về không gian tuyến tính
như vậy. Trên chữ viết, giải ngữ thường được tách biệt bằng hai dấu chấm,
dấu ngang, dấu phẩy, hoặc dấu ngoặc đơn. Khi đọc, giải ngữ thường được


phát âm nhỏ hơn và nhanh hơn [1: 239-240].
Gần đây, Diệp Quang Ban [5] lại cho rằng phần phụ chú là một bộ
phận có tính chất trung gian. Theo ông “phần phụ chú có thể nằm trong hoặc
không nằm trong hoặc không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu chứa nó,
với chức năng nghĩa là làm sáng tỏ thêm phương diện nào đó có liên quan đến
nghĩa cả câu, giúp cho người đọc người nghe hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội

dung của câu hoặc ý định của người nói.
- Còn Hồ Lê [36]
nói về phụ chú với cách gọi: phụ chú ngữ. Theo ông
phụ chú ngữ có hai dạng: Đồng danh ngữ (“từ tổ danh từ dùng để nói rõ hơn
về đối tượng do danh từ hoặc đại danh từ đứng trước nó biểu thị”[36: 405]) và
Đoạn chú thích (“một ý riêng” nào đó được “xen vào” “để giải thích hoặc lưu
ý thêm một điều gì đó. Ý riêng này được biểu đạt bằng một từ tổ động từ hoặc
bằng cú và không đồng thành phần, đồng chức năng với bất cứ thành phần
nào, bộ phận nào trong câu)
Ví dụ: Vội
vàng (ấy, cũng cái kiểu vội vàng cố hữu đó mà), ông ba kéo tay
mấy ông bạn già vào giữa phòng.
Đoạn chú thích trên có tác dụng lưu ý thêm về cách thức vội vàng của
ông Ba. Theo tác giả, bỏ nó đi câu vẫn nguyên vẹn là câu cách thức – hành
động.
Điểm
chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban
(trong quan niệm truyền thống), Hồ Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn
Thung… là đều coi phụ chú là thành phần biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có
phần khác nhau.
Qua ý kiến của các tác giả đã được trình bày, có thể thấy rằng cách hiểu
về phụ chú vẫn còn có chỗ chưa thống nhất, thậm chí có những quan niệm
khác nhau ở cùng một nhà nghiên cứu ở những thời điểm
khác nhau. Tuy
nhiên ở đây ta vẫn có thể thấy những điểm giống nhau cơ bản:


- Về thành phần câu, các tác giả đều cho đây là thành phần biệt lập, nằm
ngoài nòng cốt câu, có thể bỏ đi mà không ảnh hưởng gì đến cấu trúc cú pháp
của câu.

- Về chức năng, các tác giả cũng đã khẳng định phần phụ chú có tác
dụng làm rõ những yếu tố ngôn ngữ mà nó phụ thuộc về nghĩa hoặc bổ sung
thêm một điều gì đó (như nội dung, ý nghĩa, thái độ, tình cảm,…) cho
phần
câu được nó giải thích.
- Về vị trí, nó thường đứng sau phần câu được nó chú thích.
- Về hình thức, nó thường được ngăn cách với phần câu còn lại bằng các
dấu câu như: dấu hai chấm, dấu phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu ngang cách.
Đến đây, luận văn tạm tiếp thu quan điểm của Đào Thị Vân trong luận
án khoa học về “Phần phụ chú trong câu tiếng Việt” (2003) để xác định khái
niệm của phần phụ chú như sau:
Phần phụ chú không nằm
trong cấu trúc cú pháp của câu. Nó chỉ là một
bộ phận chêm xen với chức năng thực hiện một số hành động nói nào đó,
như: giải thích, minh họa, quy ước, chuyển chú, biểu cảm…nhằm giúp người
nghe, người đọc hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội dung của câu hay một ý định
nào đó của người chú
thích.
Về nội dung, phụ chú có quan hệ với văn bản hữu quan theo những
kiểu nghĩa nhất định.
Về hình thức, nó có thể được cấu tạo từ từ, câu, chữ số hoặc kí hiệu quy
ước…
Về vị trí, nó thường đứng liền sau phần câu được chú thích và ngăn
cách với bộ phận này bằng các dấu câu, như: dấu ngang cách, dấu phẩy, dấu
ngoặc đơn, dấu hai chấm, dấu m
óc vuông,…


1.1.2. Phân loại
Về cách phân loại phụ chú, ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng có

những điểm không giống nhau.
*Hoàng Trọng Phiến (1980) với tên gọi “đồng vị ngữ” đã phân loại dựa
vào chức năng cú pháp của đối tượng mà phụ chú giải thích như sau:
- Thành phần đồng vị chủ ngữ: Đại đội trưởng, Huy, ra lệnh cho anh em
tiếp tục lên đường.
- Thành phần đồng vị vị ngữ: Chúng ta là thế hệ thanh niên Hồ Chí
Minh, thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng.
- Thành phần đồng vị định ngữ: Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu
nhi Việt Nam
, lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (TM)
- Thành phần đồng vị bổ ngữ
Nước non đau xót như lòng mẹ
Mất một người con: Nguyễn Chí Thanh. (HT)
Theo tác giả, “Thành phần đồng vị ngữ cũng có thể bao gồm hơn hai bộ
phận để làm chú giải cho thành phần nào đó trong câu”.
*Hữu Quỳnh (1980) đã chia thành phần xen (phụ chú) thành hai loại
lớn dựa vào nội dung chú thích của thành phần này.
Thành phần xen n
ói rõ thêm về nội dung của từ hay nhóm từ trong kết
cấu chủ ngữ, vị ngữ hoặc thành phần phụ của câu.
Thành phần xen chú thích ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người nói,
người viết.
*Các tác giả cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983) của Ủy ban Khoa học
xã hội Việt Nam đã phân biệt hai trường hợp:
- Thành phần chú thích thuộc bậc cấu tạo câu và không có quan hệ riêng
với thành phần nào hay yếu tố nào trong nòng cốt.
Ví dụ: Em học sinh ấy – thật là gan dạ - đã nổ mì
n diệt cả tốp địch



- Thành phần chú thích có thể coi là thuộc bậc cấu tạo thành phần câu và
có tác dụng chú thích một yếu tố ở trước nó và yếu tố này thuộc cấu tạo của
một thành phần trong nòng cốt.
Ví dụ: Thành phố Huế, quê tôi, thật đẹp.
Như vậy, theo quan niệm của tác giả Hoàng Trọng Phiến, phần phụ chú
(cách gọi của tác giả luận văn) chỉ giải thích cho một số bộ phận của câu
. Đến
tác giả Hữu Quỳnh việc phân loại chủ yếu dựa vào nội dung ý nghĩa của phụ
chú. Theo đó, phần phụ chú ngoài việc làm rõ nội dung ý nghĩa của một thành
phần câu, đôi khi nó còn chú thích cho ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người
nói, viết. Với các tác giả của “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983), thành phần phụ
chú không chỉ chú thích cho một thành phần nào đó của câu mà có khi nó chú
thích cho cả câu.
Ngoài ra, các tác giả khác như Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban,
Nguyễn Kim Thản… cũng đã có những cách phân l
oại tương tự.
Qua ý kiến phân loại của một số tác giả đã được trình bày và ý kiến của
nhiều tác giả khác, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã phân loại phụ chú theo
nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, ở đó các tác giả chưa đưa ra các tiêu chí
cụ thể để làm cơ sở cho việc phân loại.
Theo chúng tôi, việc phân loại phụ chú có thể dựa trên các tiêu chí sau
đây:
1. Dựa vào đặc điểm cấu tạo của đối tượng (thành tố) phụ chú
2. Dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa phần phụ chú và đối tượng phụ chú
Dựa vào (1), ta thấy về chức năng phần phụ chú có thể giải thích cho
một yếu tố nào đó trong câu, một thành phần câu, cho cả câu, hoặc một chuỗi
câu. Vì vậy có thể phâ
n loại như sau:
- Phụ chú cho từ hoặc cụm từ.
- Phụ chú cho câu.



- Phụ chú cho một chuỗi câu hay một đoạn văn.
Dựa vào (2), ta thấy giữa phần phụ chú và đối tượng được phụ chú có
thể có nhiều quan hệ nghĩa khác nhau. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi thấy có thể
phân phụ chú thành hai loại như sau:
- Phụ chú giải thích cho nội dung câu hoặc nghĩa biểu hiện của câu
(nghĩa sự việc).
- Phụ chú giải thích hoặc bổ sung ý nghĩ, thái độ, tình cảm của n
gười
nói, người viết (nghĩa tình thái).
1.2. Những phương diện nghĩa của câu
Xét về phương diện nghĩa của câu, có thể phân biệt hai loại nghĩa:
nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái. Như đã trình bày, phụ chú là phần “dùng để
chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự tình nêu trong câu,
giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của câu hay dụng ý của
người chú giải”. Như vậy có thể thấy rằng phần phụ chú có liên quan chặt chẽ
với nghĩa biểu hiện của câu và bản thân nó cũng có lúc biểu hiện nghĩa tình
thái có liên quan đến nội dung câu. Vì vậy trong giới hạn nghiên cứu của đề
tài, chúng tôi sẽ đề cập đến nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái trong câu.
1.2.1. Nghĩa biểu hiện
1.2.1.1 Khái quát
Nghĩa biểu hiện (còn được gọi là nghĩa mi
êu tả, nghĩa mệnh đề, nghĩa
hạt nhân) là thành phần nghĩa phản ánh sự vật,
hiện tượng khách quan vào
trong lời nói thông qua nhận thức của con người.
Về chức năng, nghĩa biểu hiện là thành phần cốt lõi làm nên nội dung
thông báo để thực hiện chức năng giao tiếp, chức năng tư duy.
Tóm lại, những sự tình được thông báo, các hiển ngôn, hàm ngôn đều

phải trực tiếp hay gián tiếp dựa vào câu mà biểu hiện. Mỗi từ ngữ, mỗi thành

phần chức năng trong câu đều có vai trò của nó, nhưng có thể nói hạt nhân


của câu là cái khung ngữ vị từ gồm có vị từ trung tâm và các tham thể quây
quần xung quanh, biểu thị một vai nghĩa nào đó. Có những vai nghĩa bắt
buộc, nhưng cũng có những vai nghĩa không bắt buộc. Theo lí thuyết diễn trị
của Tesnière, những vai nghĩa bắt buộc được hiện thực hóa thông qua những
ngữ đoạn được gọi là diễn tố (actant), còn những vai nghĩa không bắt buộc thì
được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là chu tố
(circonstant). Việc đánh giá một vai nghĩa bắt buộc hay không bắt buộc phải
đặt trong quan hệ với vị từ trung tâm. Một vai nghĩa có thể có tính không bắt
buộc đối với vị từ này nhưng lại bắt buộc đối với vị từ khác.
Ví dụ: - Anh ấy làm việc ở Sài Gòn (vai nghĩa nơi chốn không bắt
buộc).
- Anh ấy có ở Sài Gòn vào tháng trước. (vai nghĩa nơi chốn
mang tính bắt buộc).
1.2.1.2. Các tham tố của vị từ
Trong
xu hướng chung đi tìm các phổ quát ngôn ngữ, ở những năm 60,
Fillmore đã đưa ra một số vai nghĩa mà ông cho là có tính phổ quát, có thể
tìm thấy trong mọi ngôn ngữ: Agentive (tác thể), Instrument (cách công cụ),
Dative (tặng cách), Factitive (tạo cách), Location (cách địa điểm), Object (đối
thể). Danh sách các vai nghĩa về sau đã được nhiều nhà ngôn ngữ học bổ sung
(Chafe, Dik, Dixon, Parson…
). Cho đến nay số vai nghĩa vẫn chưa có sự
thống nhất. Trong trong luận văn này chúng tôi tiếp thu ý kiến của S.C. Dik
để phân biệt hai loại tham tố là diễn tố và chu tố.
a. Diễn tố (actants)

Diễn tố là loại tham tố cần và đủ, có số lượng nhất định cho từng vị từ
tham gia vào nội dung biểu hiện của khung ngữ vị từ. Đó là những vai nghĩa
được giả định một cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ mà nếu thiếu đi
thì cái sự tình hữu quan không t
hể thực hiện, không còn là nó nữa. Có thể nói,


diễn tố là tham tố quan trọng không thể thiếu của khung ngữ vị từ. chẳng hạn,
một sự tình bơi, chạy, nhảy, phải có diễn tố (người hoặc vật) thực hiện. Thiếu
đi diễn tố này, không thể tồn tại sự tình bơi, chạy, nhảy, Diễn tố có thể vắng
mặt trong câu nhưng vẫn được người đọc, người nghe hiểu ngầm.
Ví dụ : Trong cái sự tình được gọi là “
Mất rồi”, diễn tố không có mặt
nhưng chúng ta vẫn ngầm hiểu là có một cái gì đó hay một người nào đó vừa
ở trạng thái mất.
Diễn tố thường do danh ngữ đảm nhận, cũng có khi diễn tố là đại từ
(nhân xưng).
b. Chu tố (circumstants)
Tham gia vào sự tình còn có những vai nghĩa khác. Chu tố là một loại
tham tố không bắt buộc, không nhất thiết phải có mặt để cho sự tình có thể
được gọi tên bằng vị từ trung tâm
.
Ví dụ : Trong câu phản ánh sự tình “chạy”có thể có những tham tố chỉ
nơi chạy, hướng chạy, chỉ đích, chỉ điểm xuất phát…Những tham tố này
không cần phải có mặt mà sự tình “chạy” vẫn được thực hiện. Những tham tố
đó được gọi là chu tố [Dẫn theo 25]
.
Chu tố là tham tố có thể có (không bắt buộc) bên cạnh các diễn tố, chỉ
các tình huống như thời gian, nơi chốn, phương thức, phương tiện, nguyên
nhân, mục đích, kết quả… của sự tình.

Ví dụ: Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. (Nguyễn Du)
Khung ngữ vị từ, với vị từ trung tâm và các tham tố của nó là cơ sở để
nghiên cứu nghĩa của câu, xét ở góc độ cấu trúc nội tại: quan hệ giữa các yếu
tố nghĩa tạo câu, các loại câu x
ét theo nghĩa biểu hiện.
1.2.1.3. Phân loại câu theo nghĩa biểu hiện
Theo Cao Xuân Hạo, phân loại câu theo nghĩa biểu hiện (của khung
ngữ vị từ) thực chất là phân loại các sự tình. Các sự tình được phân loại như


sau [Dẫn theo 25]:
SỰ TÌNH

Biến cố Tồn tại Tình hình
(
+ động ) (- động)
Hành động Quá trình Trạng thái Quan hệ
(+chủ ý) (
- chủ ý) (+nội tại) (- nội tại)
a. Câu tồn tại
Là loại câu có nghĩa biểu hiện sự tồn tại của sự vật, hiện tượng (trong
không gian, thời gian hoặc một chiều kích nào đó được hình dung như không
gian/thời gian). Câu tồn tại nhận định rằng có một cái gì ở đâu đó (tức là sự
định vị) có trường hợp là bắt buộc [ví dụ (***), (****)]
, có trường hợp không
[ ví dụ(*), (**)].
Ví dụ: * Có muỗi.
** Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử.
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
*** Sao đầy trời.

**** Trên tường treo một bức tranh.
b. Câu hành động
- Câu hành động diễn tả một sự tình động có chủ ý. Chủ thể của hành
động gọi l
à hành thể. Nếu hành động trong câu có tác động đến một số đối
tượng, hành thể thường được gọi là tác thể. Hành thể là diễn tố thứ nhất, có
khi là duy nhất của vị từ hành động. Ngoài các diễn tố, trong câu hành động
cũng có thể có các chu tố.
+ Câu hành động vô tác
Hành động vô tác là hành động không tác động đến đối tượng nào ở
bên ngoài.


Ví dụ: Em bé bò trên sàn nhà.
(Diễn tố: hành thể) (hành động) (Chu tố: vị trí)
Thằng bé nhìn con hổ
(Diễn tố: hành thể) (hành động) (Diễn tố: mục tiêu)
Các hành động vô tác có thể chia làm hai loại: + di chuyển và – di
chuyển (như bò và nhìn trong hai ví dụ trên).
+ Câu hành động chuyển tác
Hành động chuyển tác là hành động có tác động đến đối tượng làm cho
đối tượng thay đổi trạng thái hay vị trí, hoặc bị hủy diệt, hoặc tạo ra một vật.
Về các h
ành động chuyển tác, có sự phân biệt giữa các hành động
chuyển thái, chuyển vị và các hành động tạo diệt (tạo tác và hủy diệt)
Ví dụ: Liên nấu cơm (chuyển thái)
Liên cho em cái bánh (chuyển vị - chuyển vị trí sở hữu).
Các bác thợ xây nhà (tạo tác).
c. Câu quá trình
Câu quá trình diễn tả một sự tình động (biến cố) không có chủ ý, bao

gồm 2 loại: câu quá trình vô tác và câu quá trình chuyển tác.
+ Câu quá trình vô tác
Câu quá trình vô t
ác là câu có nội dung biểu thị quá trình không
chuyển tới đối tượng bên ngoài. Quá trình được biểu thị có thể là một sự
chuyển biến, một sự nảy sinh hoặc một sự hủy diệt. Chủ thể của quá trình vô
tác có thể là người, động vật, hoặc vật vô tri.
Ví dụ: Mưa rơi.
Cây đổ.
Người chết.
Em bé ngã.



+ Câu quá trình chuyển tác
Câu quá trình chuyển tác biểu thị quá trình trong đó vật vô tri gây ra
một tác động thay đổi trạng thái hay vị trí của một đối tượng hoặc hủy diệt đối
tượng đó. Câu biểu thị quá trình chuyển tác có chủ đề giữ vai lực, vị từ trung
tâm là vị từ chỉ quá trình chuyển tác.
Ví dụ: Gió mở tung cửa sổ.
Sét đánh đổ cây.
d. Câu trạng thái
Câu trạng thái là câu diễn tả tình hình nội tại, tức tính chất hay tình

trạng của sự vật. Chủ thể của tính chất, tình trạng của sự vật hiện tượng có thể
là người, vật, hay động vật, giữ cương vị chủ đề.
Tính chất và tình trạng phân biệt nhau một cách tương đối và có phần
ước định ở chỗ nó thường tồn (tính chất) hay nhất thời (tình trạng).
Câu trạng thái thường có một diễn tố là đương thể của tính chất hay


nghiệm thể của tâm trạng.
Ví dụ: Con chó gầy giơ xương.
(Diễn tố: đương thể)
Chúng tôi rất thương cháu
(Diễn tố: nghiệm thể) (tâm trạng)
Những vị từ tình cảm như thích, yêu, ghét, giận, sợ, kính, nể,… có hai
diễn tố: một nghiệm thể và một là đối thể hoặc nguồn gây ra tình cảm ấy ở
nghiệm t
hể.
Ví dụ: Hắn rất nể anh ấy
(Diễn tố1 (Tình cảm) (Diễn tố 2
nghiệm thể) đối thể/nguồn


×