Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Màu sắc Nam Bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.94 KB, 113 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH


Nguyễn Nghiêm Phương


MÀU SẮC NAM BỘ
TRONG NGÔN NGỮ TRUYỆN KÝ
SƠN NAM

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRỊNH SÂM



Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ văn chương là đại diện tiêu biểu của ngôn ngữ văn hóa, dạng thức tồn tại
“toàn vẹn nhất, sáng chói nhất” của ngôn ngữ toàn dân. Nói đến ngôn ngữ văn chương là nói


đến chức năng thẩm mỹ, đến giá trị tạo hình, giá trị biểu trưng, biểu cảm to lớn. Để ngôn từ
nghệ thuật có thể khắc hoạ chân thực, sinh động bức tranh cuộc sống thì việc huy động, sử
dụng nhằm kh
ai thác thật tốt khả năng, tiềm năng của các phương tiện ngôn ngữ là một việc
làm không thể thiếu.
Khu vực Nam bộ - vùng đồng bằng châu thổ sông Mê-Kông - đất đai rộng lớn, phì
nhiêu, hệ thống kênh rạch chằng chịt, đồng thời là vùng đất với lịch sử hơn ba trăm năm
khẩn hoang của người Việt. Cảnh vật thiên nhiên và con người Nam bộ từ lâ
u đã gây được
sự chú ý của nhiều người cầm bút và không ít người trong số đó gặt hái được thành công.
Sơn Nam (tên khai sinh là Phạm Minh Tày, sinh năm 1926 tại Kiên Giang), nhà văn Nam
Bộ, người được mệnh danh là “nhà Nam Bộ học” hay “ông già Ba Tri” của văn học hiện đại
là một trong những tác giả tiêu biểu.
Những sáng tác của Sơn Nam, cố nhiên được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Tiếp
cận sáng tác của ông, các nhà lý luận phê bình văn học thường có chung một n
hận xét về sự
giàu có “sắc thái địa phương”, hay “đậm đà màu sắc Nam Bộ”.
Tuy nhiên, nghiên cứu về Sơn Nam chủ yếu dừng lại ở những bài viết tản mạn. Có thể
thấy rõ điều này thông qua sự kiện: tháng 12 năm 2008, Hội nhà văn Thành Phố Hồ Chí
Minh thông báo quyết định lùi thời gian tổ chức hội thảo về Sơn Nam. Ông Lê Văn Thảo,
chủ tịch Hội nhà văn Thành Phố Hồ Chí Minh cho biết: "Được phát động từ cuối năm
ngoái
nhưng đến nay chúng tôi không nhận được tham luận như ý muốn mà thay vào đó là nhiều
bài viết do các cây bút không chuyên gửi về. Vì thế, đành phải tạm hoãn hội thảo để có thêm
thời gian chuẩn bị cẩn thận hơn". Và: “Hội thảo về nhà văn Sơn Nam càng chậm càng tốt.
Từ trước tới nay, có nhiều bài viết về ông, do đó, khi m
uốn nói thêm về Sơn Nam cần những
nghiên cứu sâu sắc, mang tính khái quát cao và những nhận định, phát biểu mới, mang tính
khoa học” [71]. Mặt khác, những bài viết này cũng chỉ tập trung ở bình diện lý luận phê
bình văn học. Chính vì vậy, vấn đề về “màu sắc Nam Bộ” trong tác phẩm của ông chưa

được tìm hiểu, phân tích thấu đáo. Trường hợp của Sơn Nam không phải là một ngoại lệ.
Hoàng Thị Châu trong Giáo trình Phương ngữ học tiếng Việt đã nhận định: “Trong thực tế
tiếng Việt rất đa dạng và luôn luôn biến đổi, uyển chuyển với những sắc thái địa phương
khác nhau (…). Những sắc thái đó thông thường chỉ được cảm nhận mà không được phân
tích, lý giải tường tận.” [12,tr 16].
Như vậy, yêu cầu có tính khách quan là: cần khảo sát một cách đầy đủ và toàn diện
những yếu tố vật chất làm nên giá trị màu sắc địa phương trong ngôn bản nghệ thuật của tác
giả. Trong đó, một công việc quan trọng là xem xét những phương tiện ngôn ngữ được lựa
chọn trên cơ sở đối lập giữa các phương ngữ, giữa phương ngữ với ngôn ngữ to
àn dân ở cả
ba bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp để chỉ ra những khác biệt trong tương quan với
môi trường địa lý, môi trường lịch sử xã hội, soi rọi chúng trên cơ sở đặc trưng ngôn ngữ
văn chương, dưới góc độ phong cách học, ngữ nghĩa học nói chung và ngôn ngữ tri nhận nói
riêng.
Với những lý do trên, tại thời điểm này, việc làm sáng rõ đặc điểm mà
u sắc Nam Bộ
trong ngôn ngữ nghệ thuật của Sơn Nam thông qua một số tác phẩm tiêu biểu, dưới cái nhìn
ngôn ngữ học là một việc làm có ý nghĩa.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài là tìm hiểu, phân tích những yếu tố làm nên giá trị “màu sắc
Nam bộ” trong truyện ký Sơn Nam, chỉ ra những thành công và kể cả những hạn chế có thể
có trong việc khai thác, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ của tác giả.
Ngoài ra, trên cơ sở ngữ liệu được thu thập, thông qua kết quả nghiên cứu, đề tài còn
góp phần tìm hiểu:
- Đặc trưng về màu sắc, sắc thái của phương ngữ Nam
bộ (ở cả ba bình diện: ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp) trong ngôn ngữ nghệ thuật cũng như những giá trị tạo hình, giá trị biểu
cảm của chúng.
- Áp lực văn hoá, cách phân chia hiện thực hay cơ sở tri nhận phản ánh trong phương
ngữ Nam bộ.

- Những vấn đề có tính chất nguyên tắc khi sử dụng phương ngữ xét ở bình diện sáng
tác văn học.
- Tính đa dạng và thống nhất ngôn ngữ. Những khả năng và đóng góp của phương ngữ
Nam bộ đối với ngôn ngữ to
àn dân.
3. Lịch sử vấn đề
Chiếm một số lượng lớn trong những sáng tác của Sơn Nam là những tác phẩm thuộc bộ
phận văn học hợp pháp miền Nam giai đoạn 1954 - 1975. Sau khi đất nước thống nhất, vì nhiều
lý do khác nhau, dòng văn học này chưa thể có ngay sự quan tâm thích đáng. Nằm trong bối
cảnh đó, những nghiên cứu về sáng tác của Sơn Nam là chưa nhiều, chưa thật sự tương xứng
với những đóng góp của ông.
Sau đây là những bài viết, công trình nghiên cứu chủ yếu về tác giả.
Về sách
Có hai luận văn thạc sĩ:
Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn 1954-1975: Tác giả Lê Thị Thùy Trang,
Trường Đại học sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, 2003. Với phương pháp lịch sử, hệ thống,

so sánh, miêu tả, luận văn trình bày những đặc điểm của truyện ngắn Sơn Nam trên phương
diện nội dung và nghệ thuật như: cảm hứng chủ đạo của tác giả; những đặc điểm về nghệ thuật
xây dựng nhân vật; phương thức kết cấu; ngôn từ; vị trí của Sơn Nam trong văn học đô thị miền
Nam giai đoạn 1954-1975.
Đặc trưng truyện ngắn Sơn Nam
: Tác giả Trần Phỏng Diều, Trường Đại học sư phạm
Thành Phố Hồ Chí Minh, 2004. Thông qua khảo sát 84 truyện ngắn, tác giả đưa ra những nhận
xét về cảm hứng sáng tác (cảm hứng về thiên nhiên, cảm hứng về con người) - trong đó có
những phân tích về quan niệm con người, về không thời gian nghệ thuật, ý nghĩa của c
húng
trong khắc họa tính cách Nam Bộ, thiên nhiên, cảnh vật Nam Bộ. Ngoài ra, luận văn còn trình
bày những vấn đề về kết cấu, từ vựng, các biện pháp tu từ, giọng điệu người kể chuyện, hình
tượng tác giả, phong cách tác giả...

Điểm chung của hai luận văn nói trên là chúng đều thuộc bình diện Lý luận phê bình văn
học, cùng hướng đến việc đánh giá toàn diện giá trị nội dung, nghệ thuật cũng như đặc điểm t
hi
pháp, phong cách cá nhân ở mảng truyện ngắn của Sơn Nam. Về góc độ từ vựng, các tác giả
đều xem xét việc khai thác, sử dụng vốn từ địa phương trong tác phẩm.
Mặc dù không đề cập trực tiếp về màu sắc Nam Bộ, nhưng những khía cạnh khác nhau
của hai bản luận văn này có những tác động tích cực vào quá trình triển khai nghiê
n cứu.
Các bài báo
Là nhà văn gần như suốt đời dành cho đề tài Nam Bộ, với một lối văn phong giản dị, gần
gũi với người lao động, vì thế Sơn Nam chiếm được tình cảm của đông đảo quần chúng độc
giả. Đây cũng chính là lý do khiến ở mảng báo chí, ông được nhiều người quan tâm, chú ý. Đặc
biệt, sau sự kiện ông ra đi (2008), có hàng trăm bài viết, xuất hiện rải rác trên nhiều tờ báo. Nội
dung những bài viết này phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau xung quanh đời sống và sự
nghiệp sáng tác của tác giả. Nó có thể là ghi
chép, phỏng vấn, bút ký hoặc dưới hình thức
chuyện kể. Nó cũng có thể là những bài giới thiệu thân thế sự nghiệp, những cảm nhận, đánh
giá, phê bình... Ở nhóm bài thuộc diện nghiên cứu phê bình, có thể quy chúng vào hai mảng
chính: (i) Nghiên cứu tác giả: hoàn cảnh sống, hoàn cảnh sáng tác, cá tính, phong cách - lối
sống, quan niệm văn chương nghệ thuật... làm cơ sở cho tìm hiểu tác phẩm; (ii) Đánh giá khái
quát vị trí hay những đóng góp của tác giả trong nền văn học (đôi khi đối chiếu, so sánh với tác
giả khác).
Việc đề cập tới đặc điểm t
ruyện ký Sơn Nam như: bức tranh hiện thực Nam Bộ, văn minh
miệt vườn Nam Bộ, lối diễn đạt, sắc thái Nam Bộ... những tác phẩm báo chí này rõ ràng có sự
liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Điển hình là các bài viết: “Nhà văn Sơn Nam –
nhà Nam Bộ học” của Huỳnh Công Tín [63], “Sơn Nam - dề lục bình Nam bộ” của Trần Mạnh
Hảo [26]
, “Sơn Nam, ông già "Ba Tri" của đồng bằng Nam Bộ” của Nguyễn Mạnh Trinh [65],
“Sơn Nam - mấy độ qua đường phố, nghiêng mình nhớ đất quê” của Trần Hữu Dũng [17],

“Sơn Nam cây đại thụ của văn học, văn hóa Nam Bộ” của Nguyễn Văn Thành [52], “Nhà văn
Sơn Nam – cô đơn trong hạnh phúc” của Nguyễn Tý [70], “Nhà văn Sơn Nam: Sẽ trồng lại cây
đước trên châu thổ” của Chu Văn Sơn [47], “Gặp nhà văn Sơn Nam, nghĩ về sự trong sáng của
một tấm lòng” của Diệp Hồng Phương [42]...
Huỳnh Công Tín trong bài viết (khoảng 7 trang khổ A4) đã khái quát ba điểm nổi bật và
cũng là thành công của Sơn Nam
: (i) Những tri thức phong phú về lịch sử, địa lý. (ii) Những
hiểu biết về con người Nam Bộ. (iii) Văn phong mang đặc trưng Nam Bộ. Theo tác giả, đây
chính là điều khiến Sơn Nam xứng danh “Nhà Nam Bộ học”. Tương tự như vậy, Trần Mạnh
Hảo cho rằng: Sơn Nam
là nhà văn của nông thôn, phong tục Nam Bộ, nhà văn của huyền thoại
thời kỳ khai điền lập ấp... Nguyễn Mạnh Trinh thì tìm hiểu về đặc điểm Nam Bộ trong hình
tượng người nông dân trong tác phẩm. Chu Văn Sơn lại quan tâm tới khía cạnh bút pháp: chất
biên khảo trong văn chương nghệ thuật. Trần Hữu Dũng có những bình l
uận ở nhiều góc cạnh:
tư tưởng nghệ thuật (bày tỏ tình yêu nước), quan điểm sáng tác… Theo tác giả thì màu sắc Nam
Bộ của truyện ký Sơn Nam xuyên thấm trong đề tài, trong hình tượng con người, hình tượng
thiên nhiên, cảnh vật cũng như đặc điểm văn phong.
Tuy nhiên, do giới hạn khuôn khổ một bài báo nên những vấn đề trên đây không đủ điều
kiện đi sâu và trình bày có hệ thống. Dẫu vậy, đó vẫn là những ý kiến quan trọng và bổ ích, nó
định hướng, gợi ý cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ đề tài.
Như thế, có thể thấy, tiếp cận dưới góc độ ngôn ngữ học hầu như chưa có một chuyên
luận nào. Nhìn một cách trực giác, ai cũng có t
hể thấy Sơn Nam và mở rộng ra các nhà văn
khác như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng… là những nhà văn mà tác phẩm của họ thấm đẫm
chất Nam Bộ. Thế nhưng, để chỉ ra một cách rạch ròi, sáng tỏ lại là việc không đơn giản, nó đòi
hỏi người nghiên cứu phải tiếp cận dưới góc độ đa ngành.
Tiếp thu những thành quả như đã trình bày, đề tài tiếp tục nghiên cứu vấn đề màu sắc
Nam Bộ một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn nhằm xác định, đánh giá những yếu tố làm nên
chính đặc trưng này trong truyện ký của tác giả.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
“Màu sắc”, phong vị trong một tác phẩm văn học là quan hệ tổng hoà của nhiều yếu tố
- một vấn đề có tính chất ngữ - văn học.
Mục đích của đề tài là khảo sát, phân tích màu sắc Nam Bộ của truyện ký Sơn Nam
trong phạm vi ngôn ngữ học. Vì vậy, đề tài không lấy toàn bộ ngôn từ, hình thức tác phẩm
làm mục tiêu nghiên cứu mà đối tượng khảo sát chỉ ba
o gồm những phương tiện ngôn ngữ
phản ánh đặc trưng Nam Bộ được nhà văn khai thác và sử dụng trong truyện ký. Cũng với
tinh thần ấy, nếu có tiến hành miêu tả những nét riêng trong ngôn ngữ nhà văn ở khía cạnh
nào đó thì điều ấy không có nghĩa là đề tài đặt ra nhiệm vụ đánh giá đầy đủ về phong cách
tác giả.
Trên bình diện nghĩa, dĩ nhiên đề tài không tìm hiểu toàn bộ giá trị nội dung, mà chỉ
cốt làm sáng rõ những yếu tố màu sắc địa phương trong tác phẩm.
4.2 Nguồn ngữ liệu
Th
eo quan sát của chúng tôi, sáng tác của Sơn Nam khá đa dạng. Ngoài phần biên
khảo, truyện ngắn, ký của ông lên tới gần cả ngàn đơn vị.
Trong luận văn, chúng tôi tập trung khảo sát:
a/ Biên khảo
- Bến Nghé xưa, Nxb Trẻ, 1997, 240 trang.
- Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Nxb Trẻ, 2007, 507 trang.
- Cá tính Miền Nam, Nxb Trẻ, 2000, 128 trang.
- Tiếp cận đồng bằng Sông Cửu Long, Nxb Trẻ, 2003, 144 trang.
- Lăng Bà Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian, Nxb Long An, 1994, 76 trang.
Ba cuốn đầu đã xuất bản trước 1975, hai cuốn sa
u mới viết sau 1975.
b/ Văn học
- Chim quên xuống đất, Nxb Trẻ, 2001, 260 trang.
- Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ, 2006, 927 trang.

- Hương quê, Tây Đầu Đỏ và một số truyện ngắn khác, Nxb Trẻ, 2006, 448 trang.
- Hồi ký Sơn Nam: Từ U Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu, Hai mươi năm giữa lòng
đô thị, Bình An, Nxb Trẻ, 2005, 542 trang.
- Một mảnh tình riêng, Nxb Văn Nghệ, 2000, 180 trang.
- Biển cỏ Miền Tây, Hình bóng cũ, Nxb trẻ, 2003, 379 trang.
Có một số truyện ngắn được in trong nhiều ấn phẩm khác nhau, đối tượng này, chúng
tôi chỉ khảo sát một lần.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu những đặc điểm về màu sắc địa phương trong tác phẩm văn học, đề tài sử
dụng những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Trên cơ sở đối lập vốn từ vựng chung và từ vựng địa phương thuộc các bình diện: cấu
tạo, ngữ nghĩa, ngữ pháp để xác định những điểm giống và khác nhau giữa chúng.
Phương pháp so sánh còn sử dụng đối ch
iếu ngôn ngữ giữa Sơn Nam với tác giả khác.
5.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được vận dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận văn. Miêu tả dựa
vào sự tương tác của ngữ cảnh.
Miêu tả những đặc điểm của phương ngữ, tác động của môi trường sống, hoàn cảnh xã
hội làm nên nững khác biệt phương ngữ. Mối quan hệ ngôn ngữ với tư duy được ph
ân tích
trên cơ sở tập hợp những từ đồng nghĩa, gần nghĩa của tác phẩm trong tương quan với từ
vựng chung.
Miêu tả ý nghĩa của từ, vị trí của từ địa phương đối với nhu cầu phản phản ánh hiện
thực.
Việc xử lý số liệu được tiến hành thông qua thủ pháp thống kê ngôn ngữ: tần số, hạng

và độ phân bố. Hỗ trợ cho công việc này, chúng tôi sử dụng công cụ phần mềm tin học được
viết bằng ngôn ngữ Visual Basic 6.0, hệ quản trị dữ liệu Microsoft Access phiên bản 2003

nhằm đảm bảo tính chính xác, truy vấn đa dạng ngữ liệu được cập nhật.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn không có tham vọng giải quyết những vấn đề lý thuyết. Trái lại, thông qua
ngữ liệu sưu tập, góp phần khắc họa rõ hơn một số đặc điểm ngôn ngữ Nam Bộ trong tác
phẩm của Sơn Nam. Từ đó, giải thích vì sao Sơn Nam trước tới nay vẫn được coi là nhà văn
của người bình dân, cụ thể là bình dân Nam Bộ.
7. Bố cục
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, nội dung chính của luận văn tập trung ở hai chương.
Chương 1: Một số vấn đề chung – trình bày những kiến thức tổng quát có liên quan
đến nội dung nghiên cứu. Đây là cơ sở lý luận để luận văn đi vào miêu tả những vấn đề cụ
thể ở chương tiếp theo.
Chương 2: Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị màu sắc Nam Bộ trong truyện ký.








Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Tóm tắt tiểu sử Sơn Nam
Sơn Nam sinh vào khoảng tháng 8, năm 1926. Nơi ông sinh thuộc rừng U Minh
Thượng: làng Đông Thái, Huyện An Biên, Tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang). Thuở
nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, sau đó học trung học tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham
gia Thanh niên tiền phong, giành chính quyền ở địa phương.
Từ 1945 đến 1954, cũng như nhiều thanh nhiên tiến bộ khác, Sơn Nam đi theo kháng
chiến, làm công tác văn nghệ ở Quân khu 9. Hòa bình lập lại, ông được giao nhiệm vụ ở lại

miền Nam, tham gia đấu tranh đòi thực h
iện Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Năm 1955, Sơn Nam lên Sài Gòn cộng tác với các báo có xu hướng tiến bộ: Nhân
Loại, Tiếng Chuông, Lẽ Sống. Đến 1960 ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt, giam ở
nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu 1- Bình Dương). 18 tháng sau, ông được thả tự do. Ra tù, Sơn
Nam tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ cho đến ngày đất nước thống nhất.
Sau 1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - văn nghệ. Ông là hội viên
Hội nhà
văn Việt Nam.
Về sự nghiệp sáng tác
Sáng tác của Sơn Nam rất đa dạng. Tuy nhiên, dù là truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút,
ký hay biên khảo thì nội dung cũng xoay quanh vùng đất Nam Bộ, từ miệt vườn cực Nam U
Minh, Cà Mau đến chốn đô thị Sài Gòn - Gia Định xưa. Sinh ra và lớn lên tại mảnh đất này,
yêu và suốt đời
dành tâm huyết cho quê hương mình, vì thế, ông là người am hiểu lịch sử,
văn hóa, biết rõ tính cách, tâm lý con người Nam Bộ. Đó là lý do khiến ông được mệnh danh
là “pho từ điển sống miền Nam”, là “ông già Ba Tri”, là “nhà Nam Bộ học”. Các sáng tác
của ông vì thế giúp ích trên phương diện: lịch sử, văn hóa - phong tục tập quán, lễ hội, nghệ
thuật, ngôn ngữ…
Văn học
Sơn Nam có một khối lượng tác phẩm dồi dào: Chuyện xưa tình cũ, Hương rừng Cà
Ma
u (tập 1), Chim quyên xuống đất; Hương rừng Cà Mau (tập 2,3), in chung 3 tập năm
2006; Hồi ký: Từ U Minh đến Cần Thơ (tập 1), Ở chiến khu (tập 2), 20 năm giữa lòng đô
thị (tập 3), Bình an (tập 4), in chung 4 tập năm 2006; Bà chúa Hòn; Một mảnh tình riêng;
Biển cỏ Miền Tây, Hình bóng cũ; Ngôi nhà mặt tiền; Truyện ngắn của truyện ngắn; Hương
quê, Tây Đầu Đỏ và một số truyện ngắn khác…
Biên khảo
Bao gồm các tác phẩm chính: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Bến Nghé xưa, Cá tính
Miền Nam, Danh thắng miền Nam, Người Sài Gòn, Đất Gia Định xưa, Văn Minh miệt vườn,

Lịch sử An Giang, Tìm hiểu đất Hậu Giang, Lăng Bà Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian, Tiếp
cận Đồng Bằng Sông Cửu Long…
Lĩnh vực văn học - nghệ thuật,
có lẽ thành công nhất đối với ông thuộc về mảng
truyện ngắn. Tiêu biểu là tác phẩm Hương rừng Cà Mau, tập 1 xuất bản năm 1962 và hai tập
được viết sau đó bao gồm 66 truyện.
Về những cống hiến của Sơn Nam, Nguyễn Anh Động nhận xét: “Hơn nửa thế kỷ gắn
bó với sự nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần l
à những giải trí cho
độc giả mà còn là khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính
gốc nên Sơn Nam am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng tác của ông mang
lại hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ được thể hiện qua giọng văn
giản dị, mộc mạc” [19].
Hơn 60 năm cầm bút và để lại gần 50 đầu sách, một con số đáng khâm phục. Sơn Nam
xứng đá
ng là niềm tự hào của miền đất châu thổ sông Cửu Long.
Ông mất ngày 13-08-2008, hưởng thọ 82 tuổi.
1.2. Sơ lược lịch sử hình thành và vấn đề văn hóa Nam
Bộ
Như đã đề cập, các nhà ngôn ngữ học hiện đại có sự xác nhận về mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và văn hoá. Ở đó, văn hoá được định nghĩa là toàn bộ di sản vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo, tích luỹ trong tiến trình lịch sử. Ngôn ngữ là một bộ phận và hơn nữa là bộ phận
quan trọng nhất, là sự thể hiện sâu sắc nhất những đặc trưng văn hoá của một dân tộc. Với quan
niệm ấy, trong giới ngôn ngữ học, hướng nghiên cứu ngôn ngữ - văn hoá ngày càng được chú ý
và tiếp tục đạt được những t
hành tựu nổi bật. Điều này đặt ra, muốn tìm hiểu một đặc điểm nào
đó mang tính địa phương trong ngôn ngữ nghệ thuật, trước tiên cần phải đề cập đến những đặc
điểm văn hóa, lịch sử của vùng đất đó.
Nam Bộ là một vùng đất rộng lớn, bao gồm hai tiểu vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Miền đông Nam Bộ bao gồm 6 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương: Thành Phố Hồ

Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Đồn
g Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu. Diện tích 23.563 km
2
, dân
số 14.025.378. Đông Nam Bộ nằm trên vùng bình nguyên và đồng bằng, là nơi chuyển tiếp từ
cao nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng Cửu Long. Đất đai chủ yếu là đất đỏ bazan và đất
phù sa cổ, khí hậu tương đối điều hòa, có lượng mưa dồi dào thuận lợi cho chăn nuôi, trồng
trọt.
Tây Nam Bộ gồm 14 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Long An, Tiền Giang, Đồng
Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, Bạc Liêu, An
Giang, Kiên Giang, Cà Mau. Diện tích là 39.734 km
2
, dân số 17.178.871. Tây Nam Bộ là vùng
châu thổ sông Mê - Kông (Cửu Long), là một trong những vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn
của Đông Nam Á và thế giới. Với hệ thống sông ngòi dày đặc, lượng mưa trung bình cao nhất
cả nước, đất đai phì nhiêu, sinh thái đa dạng, vì thế khu vực này rất thuận tiện cho việc canh tác
cây lương thực, cây ăn trái, cũng như đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và giao thông đường thủy.
Thời kỳ cổ trung đại, Đông Nam Bộ đã có con người cư trú. Họ là chủ nhân của nền văn
hóa Đồng Nai bao gồm văn hóa đá mới (cách nay khoảng 5000 năm)
và văn hóa đồng (cách
nay khoảng 3000 - 4000 năm). Ra đời muộn hơn, khoảng thế kỷ II đến thế kỷ VII sau công
nguyên, ở khu vực Tây Nam Bộ, là sự tồn tại của quốc gia Phù Nam với sự phát triển của nền
văn hóa Óc Eo.
Tuy nhiên, từ khoảng thế kỷ VI, nơi đây bước vào những cuộc tranh chấp liên m
iên. Sau
sự diệt vong của vương quốc Phù Nam kéo theo sự tàn lụi nhanh chóng của nền văn hóa Óc Eo,
mảnh đất này “đã diễn ra một quá trình hoang hóa”.
Ngày đầu khi cư dân Việt đến đây, Nam Bộ gần như một vùng đất chưa được khai phá.
Cư dân Khơ me, Chăm và một vài dân tộc ít người khác phân bố lẻ tẻ, rải rác trên những giồng
đất cao, những vùng đồi núi. Số lượng ít ỏi, trình độ kỹ thuật thấp kém nên lúc này “đất Sài

Gòn – Gia Định vẫn là đất tự do của các dân tộc và hầu như vô chủ” [Lời giới nhà xuất bản-
Lịch sử khẩn hoang Nam Bộ, tr.9]. Châu Đạt Q
uan (thế kỷ 13) - sứ thần nhà Thanh - khi qua
đây đã miêu tả: “Bắt đầu vào Châu Bồ, gần hết cả vùng là bụi rậm của rừng thấp, những cửa
rộng của sông lớn c
hảy hàng ngàn dặm, bóng mát um tùm của những gốc cây cổ thụ và cây
mây dài(...). Khắp nơi vang tiếng chim hót và thú kêu (...). Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ
họp từng bầy”. Hay theo lời Lê Quý Đôn thì: “Từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa
Đại trở lên toàn là rừng rậm hàng nghìn dặm” [Sđd tr.7-8]. Đây chính là thử thách lớn lao mà
nhiều thế hệ người Việt phải đối diện, phải khắc phục suốt cả chặng đường dài sau đó.
Cuối thế kỷ 17, cùng với công cuộc Nam tiến, chúa Nguyễn cho phép một vài tập đoà
n
người Trung Quốc có tư tưởng bài Mãn, phục Minh vào khu vực này cư trú. Theo Sơn Nam,
công cuộc khai phá Nam Bộ thời kỳ này có sự xuất hiện đan xen các nhóm lưu dân Việt - Hoa:
“Trần Thắng Tài (Đồng Nai), Dương Ngạn địch tại Mỹ Tho, Nguyễn Hữu Cảnh (Hậu Giang),
Nguyễn Cửu Vân (Vàm Cỏ), Mạc Cửu (Hà Tiên) đã đi những bước tiên phong trong thời gian
ngắn” [Lịch sử khẩn hoang, tr.32].
Như vậy, song hành với quá trình khai phá đất phương Nam là cuộc gặp gỡ lịch sử Việt,
Hoa và cư dân bản địa mà hệ quả là sự giao thoa văn hóa. Tuy nhiên, xét về vị thế, người Việt
có tính chất hạt nhân. Họ không chỉ giữ vai trò quyết định trong công cuộc khai phá m
à còn
nắm thế chủ động trong thụ đắc, tiếp biến, làm giàu giá trị văn hóa, khẳng định bản thể văn hoá
Việt, chủ quyền lãnh thổ Việt.
Nói đến Nam Bộ, các nhà nghiên cứu nhắc nhiều đến nền văn minh thực vật hay văn
minh miệt vườn, văn minh lúa nước. Sức lao động, sức sáng tạo của các t
hế hệ người Việt cùng
với tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc anh em đã biến một vùng đất hoang dã thành những
cánh đồng bất tận, những khu vườn rộng lớn, bạt ngàn cây trái, khiến những cánh rừng, những
dòng sông mang lại sự trù phú, thịnh vượng. Theo Sơn Nam - có sự đồng tình của nhiều nhà
nghiên cứu - thì văn minh miệt vườn chính là trung tâm điểm của văn minh Nam Bộ. Đó là kết

quả phấn đấu liên tục của nhiều thế hệ nhằm x
ây dựng môi trường sống hòa hợp giữa con
người, giữa nhu cầu phát triển xã hội với quy luật và sự vận động của tự nhiên. Như vậy, văn
minh miệt vườn Nam Bộ chính là những giá trị văn hoá sinh thái – nhân văn của người Việt
được tạo lập, định hình trên cơ sở nối tiếp truyền thống ở một m
iền đất mới.
Đề cập truyền thống văn hóa, không thể không nhắc tới văn hóa làng. Có nhà nghiên cứu
cho rằng, văn hóa dân tộc suy cho cùng là văn hóa làng mở rộng.
Mỗi làng có một địa phận riêng, được bố trí theo kiểu xương cá, lấy đường làng làm trục
kết nối, thường được bao bọc bằng các lũy tre. Cổng làng là nơi thông ra địa phận khác, nơi con
người có thể mở rộng giao tiếp nhưng cũng là công cụ ngăn chặn những tác động xấu từ thế
giới bên ngoài, bảo vệ cuộc sống bình yên của làng. Ở những nơi có địa thế cao ráo, người ta

thường trồng các loại cây có kích thước to lớn, sống lâu năm nhằm đánh dấu không gian tồn tại,
khẳng định chủ quyền đồng thời biểu thị cho sức sống trường tồn.
Là sự chuyển tiếp từ công xã nguyên thủy sang công xã nông thôn, vì t
hế làng ở Bắc bộ,
Trung bộ thường có vài dòng họ sinh sống. Do quan hệ huyết thống hoặc cùng quan hệ sở hữu
đất đai khiến cho làng dễ dàng xây dựng được những thiết chế thống nhất. Từ lâu, chúng ta đã
biết đến hương ước làng và sức mạnh của nó trong việc tổ chức, ràng buộc, cố kết các thành
viên trong cùng cộng đồng.
Tất cả những điều này khiến cho “làng” trở thành một đơn vị khép kín, có sự độc lập
tương đối với bộ máy hành chính.
Khi di cư về phương Nam, cố nhiên người Việt mang theo cái thiết chế ấy để xây dựng
mối quan hệ cộng đồng. Tuy nhiên, so với khu vực Bắc Bộ, Trung Bộ thì “làng” Nam Bộ có
nhiều điểm khác biệt. Tận dụng môi trường, để thuận tiện cho việc đi lại và làm
ăn sinh sống,
người dân Nam Bộ định cư dọc theo các con sông (hoặc những tuyến lộ) tạo nên một điểm
riêng trong đời sống văn hóa. Từ biệt không gian làng xã thân thuộc, dấn thân chinh phục miền
đất mới, họ cùng nhau dựng ấp, lập làng. Do nguồn gốc từ nhiều địa phương khác nhau nên tính

huyết thống không phải là yếu tố phổ biến và quan trọng. Đây là lý do khiến người ta thường sử
dụng t
hành ngữ “anh hùng tứ chiến” như là để biểu thị tính “mở”, biểu thị cách tổ chức của
làng xóm Nam Bộ.
Tất cả những đặc điểm trên đây không thể không có những tác động đến đời sống ngôn
ngữ. Vì vậy, khảo sát màu sắc địa phương thông qua ngôn ngữ tác phẩm, trong mối tương quan
với những yếu tố, đặc điểm văn hóa riêng, mang tính đặc thù của chính vùng đất ấy là một cách
làm
cần thiết.
1.3. Những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn chương
Xung quanh đặc trưng ngôn ngữ văn chương, tuy còn những ý kiến khác nhau, những
kiến giải khác nhau nhưng về cơ bản có thể trình bày bởi những điểm có tính quan yếu sau
đây:
1.3.1 Tính cấu trúc (tính hệ thống)
Văn bản nghệ thuật không phải là sự xuất hiện ngẫu nhiên, không phải là phép cộng
đơn thuần của những yếu tố. Giữa thành tố nội dung, tư tưởng, tình cảm, hình tượng cùng
các thành tố ngôn ngữ biểu đạt luôn tồn tại mối quan hệ hữu cơ, phụ thuộc, gắn bó mật thiết
với nhau, phù hợp với nh
au, hỗ trợ nhau trong một nhiệm vụ chung. Ngôn từ nghệ thuật
“không sống đơn độc, tự nó, vì nó(…)” [34, tr.141]. Điều này là tất yếu, bởi lẽ, chỉ có như
vậy tác phẩm nghệ thuật mới trở thành một chỉnh thể toàn vẹn, mới thực h
iện được chức
năng tư tưởng, chức năng thẩm mỹ to lớn. Nói cách khác, chính chức năng thẩm mỹ, chức
năng tư tưởng quy định sự lựa chọn, cách thức cấu tạo và tổ hợp các yếu tố ngôn ngữ.
Viết về đề tài Nam Bộ, hiển nhiên Sơn Nam phải huy động vốn sống, vốn hiểu biết về
tiếng nói địa phương từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp trong xây dựng tác phẩm. Đây

nhân tố quy định ngoài ngôn ngữ mang tính khách quan và cũng là con đường để tác giả có
thể tái hiện trung thực bức tranh đời sống như vốn dĩ của nó. Màu sắc địa phương trong
trường hợp này được hiểu là tập hợp các yếu tố ngôn ngữ cùng thể hiện một cách nhất quán

về đề tài thuộc địa phương đó. Chính sự “lặp lại” này là cơ sở để đề tài tập hợp và phân tích
chúng nhằm xác định màu sắc ngôn ngữ trong tác phẩm.
1.3.2 Tính hình tượng
Tính hình tượng là một trong những đặc trưng quan trọng của ngôn ngữ văn chương.
Tính hình tượng gắn liền với chức năng thẩm mỹ. Thông qua nó người đọc cảm nhận được
cái đẹp, cá
i tinh tế của thế giới nghệ thuật.
Ngôn ngữ văn chương chẳng những giàu hình ảnh, giàu tính biểu trưng mà còn có sức
biểu cảm to lớn. Chính sắc thái biểu cảm của ngôn từ là nội dung bổ sung, đánh dấu thái độ
tình cảm của con người đối với đối tượng được đề cập. “Một từ trong tác phẩm
nghệ thuật
không thể được coi ngang bằng như từ của ngôn ngữ thực hành, vì trong văn bản nghệ thuật,
từ thi ca (từ nghệ thuật) có hai bình diện theo khuynh hướng của mình, có mối tương quan
đồng thời cả với những từ của ngôn ngữ văn hóa chung, cả với những yếu tố của cấu trúc
ngôn từ của văn bản nghệ thuật.” [34, tr.146]
Những đặc điểm ngôn ngữ văn chương như: tín
h đa nghĩa, gợi hình, gợi cảm, khả
năng diễn đạt tinh tế về sự đa dạng, đa sắc thái của bức tranh đời sống là những căn cứ để
xác định màu sắc trong tác phẩm nghệ thuật.
1.3.3 Tính tổng hợp
Chức năng văn chương là tái hiện sinh động, chân thực đời sống. Điều này đòi hỏi
ngôn ngữ văn chương phải có những đặc điểm ri
êng, sức biểu hiện riêng. Tính riêng biệt ở
đây không có nghĩa loại trừ những hình thức, phong cách chức năng khác mà ở chỗ nó có
quyền huy động, quyền sử dụng mọi khả năng, tiềm năng của ngôn ngữ. Trong tác phẩm văn
chương, chúng ta thấy sự có mặt của những phong cách chức năng: phong cách khẩu ngữ,
phong cách hành chính, phong cách khoa học…
tạo nên tính đa phong cách hay tính tổng
hợp phong cách.
Đặc trưng của ngôn ngữ văn chương nói chung và tính tổng hợp đa phong cách nói

riêng, đặt ra không chỉ cho người viết mà cả với người nghiên cứu thao tác phân biệt giữa
ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật.
Với tư cách là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới, nhân vật có một vị trí
cực kỳ quan trọng trong tác phẩm. Muốn hiện thực hóa được điều ấy,
nhân vật phải được nói
bằng ngôn ngữ của họ. Đó là thứ ngôn ngữ của giàu tính cụ thể, giàu yếu tố chủ quan và
cảm xúc. Chất khẩu ngữ chính là dấu hiệu nhận biết màu sắc địa phương của tác phẩm. Lựa
chọn này có thể xảy ra với cả ngôn ngữ tác giả và sự “lệch chuẩn” ấy cũng là một trong
những dấu hiệu xác định giọng điệu, phong cách ngôn ngữ. Tuy nhiên, bất luận trong trường
hợp nào thì tác giả vẫn là phải là đại diện tiêu biểu cho ngôn ngữ văn hóa.
Tính tổng hợp đa phong cách và sự phân biệt giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác
giả cho ta quan điểm tiếp cận yếu tố “m
àu sắc” địa phương trong tác phẩm nghệ thuật: một
mặt, nó chỉ ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong sử dụng ngôn ngữ, một mặt nó phản
ánh những gì thuộc về cá tính, phong cách, năng lực vận dụng ngôn ngữ cá nhân. Tất nhiên,
để nói điều này, chúng ta luôn phải nó đặt bên cạnh những yêu cầu có tính khách quan: đề
tài, chủ đề hay hiện thực tác phẩm phản ánh.
1.4. Những vấn đề về phương ngữ
1.4.1 Khái niệm về phương ngữ
Phương ngữ theo cách gọi khác là tiếng địa phương. Với tư cách ấy, phương ngữ gắn
liền trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội của cộng đồng người thuộc địa phương đó.
Khái niệm “phương ngữ” có sự phân biệt với khái niệm “ngôn ngữ”. Nhấn mạnh điều
này, Hoàng Tuệ đã chỉ rõ: “Đó là một hình thái nhất định của một ngôn ngữ. Hình thái ấy c
ó
những đặc điểm riêng trong hệ thống ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và được sử dụng ở một môi
trường địa lý hẹp hơn môi trường của ngôn ngữ” [67, tr.249]. Quan hệ giữa ngôn ngữ toàn
dân và phương ngữ là quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái bất biến và cái khả biến. Cái
chung là cái thống nhất không loại trừ ai vì chỉ có như thế ngôn ngữ mới thực hiện được
chức năng xã hội to
lớn của nó. Ngược lại, ngay trong phạm vi bất biến, ta vẫn xác định độ

xê dịch ở những yếu tố, tuỳ theo từng người với trình độ học vấn của họ, theo từng vùng với
chịu sự chi phối môi trường địa lý – xã hội.
Cần thấy rằng: một khi nói đến sự khác biệt của phương ngữ thì điều ấy không có
nghĩa
là tách phương ngữ ra khỏi ngôn ngữ toàn dân, phá vỡ tính thống nhất của một ngôn
ngữ.
1.4.2 Những bình diện nghiên cứu cơ bản của phương ngữ và màu sắc địa
phương trong tác phẩm văn học
Nhiệm vụ của phương ngữ học là khảo sát các biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân dưới
hình thức biến thể địa phương, xác định có hay không mức độ liên quan cái mã chung của
những đối tượng được xét đến. Xuất p
hát từ những đặc điểm của phương ngữ trong mối
quan hệ với ngôn ngữ toàn dân cũng như những phương ngữ khác trong một ngôn ngữ, việc
khảo sát phương ngữ thường được tiến hành trên ba bình diện: ngữ âm, từ vựng và ngữ
pháp.
Trong nhận thức của chúng tôi, màu sắc Nam Bộ trong là một tập hợp bao gồm nhiều
đặc điểm về con người, thiên nhiên, văn hóa – kinh nghiệm ứng xử của con người với thiên
nhiên, của con người với con người trong môi trường Nam Bộ - được biểu đạt bằng các
phương tiện ngôn ngữ.
Hiển nhiên, cùng nguồn cội sinh ra, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, văn hóa Nam Bộ
có những nét riêng. Xét thuần túy về văn học, cách diễn đạt có cái gì đó rất gần gũi và dung
dị, tạo nên một mạch riêng khó lẫn lộn từ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Hồ Biểu
Chánh… đến Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi… Sơn Nam - nhà văn chúng ta
đang khảo sát - cũng năm trong dòng chảy này.
Màu sắc địa phương quả nhiên là một vấn đề không mới.
Từ góc độ văn học, các nhà
lý luận thường đánh giá cao chức năng của nó trong việc thể hiện cá tính nhân vật. Nói cách
khác, từ địa phương sẽ là nhân tố khiến cho nhân vật hình tượng này khác với nhân vật hình
tượng khác. Tất cả những điều đó tạo nên cái gọi là điển hình.
Tuy nhiên, khi đi vào thực tế, việc khảo sát từng yếu tố cụ thể lại không đơn giản như

vậy.

Ta biết, do nhiều lý do khác nhau, xét về mặt biến thể ngôn ngữ, văn hóa vùng Nam
Bộ có những nét riêng. Từ góc độ dân tộc học, có thể kể ra một số đặc điểm nhưng từ góc độ
ngôn ngữ học và kể cả văn chương nữa, để làm được việc này phải có cách tiếp cận liên
ngành. Bởi tiếng Việt là một ngôn ngữ tồn tại thống nhất trong đa dạng, sự phân vùng Bắc,
Trung, Nam chỉ là
tương đối còn trong thực tế giao tiếp thì chúng nhòe vào nhau, đan cài lẫn
nhau.
Tất nhiên, đi tìm màu sắc địa phương trong văn học nói chung, màu sắc Nam Bộ nói
riêng không thể không chú ý đến bình diện ngữ âm. Bởi lẽ như ta biết, mặc dù tiếng Việt là
một ngôn ngữ có tính thống nhất cao nhưng tiếng Việt lại tồn tại trong những phương ngữ
cụ thể. Sự khác biệt giữa phương ngữ với phương ngữ và
cả với tiếng Việt toàn dân, trước
hết là ở hệ thống ngữ âm.
Thứ đến là từ vựng. Đây là bình diện thể hiện rõ nhất đặc điểm phương ngữ nhưng
cũng là vấn đề khá phức tạp. Có thể kể ra đây loại từ ngữ chỉ sản vật có ở vùng này mà
không có ở vùng khác như: cà na
, điển điển, bòn bon… hoặc mội số đặc sản: mắm ba khía,
cá thèo lèo
… hoặc loại sản phẩm gắn liền với nghề thủ công: đương đệm, cần xé, cà ràng…
hoặc để chỉ cùng một sự vật, hiện tượng mà ở mỗi phương ngữ có cách khác nhau: heo/lợn,
cá lóc/cá tràu/cá quả
, thồ đâu/sầu đâu/sầu đông… Có khi phải kể đến sức sản sinh của một
kiểu cấu tạo từ nào đó như: đỏ lừ/đỏ ké/đỏ hói/đỏ hỏn…
Nhưng có lẽ bao trùm lên và phức tạp hơn cả là các biểu thức biểu đạt. Hãy quan sát:
Nam Bộ: Ăn như xáng xúc

Mần
như lục bình trôi.

Trung Bộ: Ăn như còng
chạy
Làm như mài mại
bơi.
Bắc Bộ: Ăn như thuyền
chở mã
Làm như ả
chơi trăng.
Rõ ràng, nếu dừng lại phân tích thật chu đáo, các thành ngữ nói trên đều ít nhiều chứa
màu sắc địa phương. Cụ thể:
Ở Nam Bộ về hiện thực đó là xáng xúc
(máy múc bùn), những dề lục bình. Về định
danh, đó là mần
.
Ở Trung Bộ, hai sản vật quan trọng ở vùng sông nước là còng
(biển) và mài mại (cá
nước lợ).
Ở Bắc Bộ, đó là dấu vết thời kỳ phong kiến, chuyện cúng bái: thuyền chở mã
(thuyền
làm bằng giấy dùng để cúng tế) và cách định danh thuyền
, ả.
Dễ thấy, nội dung biểu đạt là như nhau, phương thức so sánh xuất hiện ở trong cả ba
văn bản. Tuy nhiên, đọc kỹ chúng ta sẽ thấy được màu sắc địa phương khác nhau giữa
chúng.
Đặt vấn đề khảo sát các phương tiện ngôn ngữ biểu thị màu sắc địa phương nói chung
và phương tiện từ vựng nói riêng trong tác phẩm văn học như đã đề cập trên đây lẽ dĩ nhiên
không thể tách rời bình diện ngữ nghĩa. Là một hiện tượng xã
hội - lịch sử, sự hình thành
của phương ngữ gắn liền với quá trình vận động và phát triển không ngừng của ngôn ngữ, sự
tách biệt về không gian địa lý, hoàn cảnh sống, đặc điểm kinh tế xã hội, quá trình tiếp xúc

văn hóa - ngôn ngữ… Vì thế, hiểu tiếng địa phương không chỉ giới hạn bởi những yếu tố có

tính hình thức mà còn bao hàm cả yếu tố nội dung.
Quan điểm đối lập phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân hoặc một phương ngữ khác là
một trong những cơ sở xác định màu sắc địa phương trong tác phẩm văn học.
1.5. Ngôn ngữ học tri nhận và nghĩa học tri nhận
1.5.1 Khái niệm về ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận là một khuynh hướng, một trào lưu của ngôn ngữ học hiện đại.
Sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận có nguồn gốc từ việc tiếp thu tư tưởng mới trong
lĩnh vực tâm lý học. Những nhân vật có ảnh hưởng đến sự ra đời của khuynh hướng này
không thể không nhắc tới W.Humboldt (Đức, thế kỷ 19) và B.Whorf (Mỹ, đầu thế kỷ 20).
W.Humboldt là người tiếp cận ngôn ngữ dưới bình diện văn hóa, tâm
lý. Ông từng
đưa ra những luận điểm nổi tiếng: ngôn ngữ làm nên linh hồn một dân tộc; thế giới ngôn
ngữ là một thế giới trung gian giữa thế giới khách quan bên ngoài và thế giới con người; sự
phản ánh trong ý thức con người không đơn thuần là con đường trực tiếp, một đối một với
hiện thực mà bao giờ cũng bị ảnh hưởng của thế giới ngôn ngữ…
B.Whorf đề cập tới tính tương đối của ngôn ngữ. Thế giới là một thể liên tục, không
chi
a cắt. Tuy nhiên, để nhận thức và biểu thị kết quả nhận thức con người phải chia cắt thế
giới thành những tế phần khác nhau. Những cộng đồng ngôn ngữ khác nhau có thể chia cắt
hiện thực một cách khác nhau, tạo nên “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”
một cách khác
nhau. Nói cách khác, thế giới xung quanh ta được cấu trúc hóa một cách khác nhau trong
mỗi ngôn ngữ. Vì thế, về nguyên tắc sẽ không có sự đồng nhất ý nghĩa giữa các ngôn ngữ.
Sự chuyển hướng của tâm lý học trong những năm 60 của thế kỷ 20 tiếp tục có những
tác động to lớn đối với đời sống ngôn ngữ học. Cái công thức nhị nguyên “kích thích-phản
ứng” (S-R) của trường phái hành vi luận đã không đề cập đến trạng
thái tinh thần hay những
hiện tượng tâm lý tác động đến quá trình đó. Quan điểm này đề nghị phải nghiên cứu con

người như một hệ thống xử lý thông tin mà nó tiếp nhận. Neisser cho rằng: “tất cả các quá
trình trong đó các cứ liệu cảm giác đầu vào được cải biến, được giảm bớt, được làm phong
phú thêm, được lưu trữ và được sử dụng” [53, tr.15]. Hay ý kiến của Solso: “nghiên cứu
xem con người tiếp nhận thông tin về thế giới n
hư thế nào, những thông tin đó con người
hình dung ra sao, chúng được lưu trữ và cải biến thành tri thức như thế nào” [53, tr.13]
Về đối tượng, ngôn ngữ học tri nhận xác định: đó chính là ngôn ngữ trong mối quan
hệ với sự tri nhận đồng thời có nhiệm vụ bao quát một cách toàn diện chức năng tri nhận của
ngôn ngữ. Tác giả Trần Văn Cơ cho rằng ngôn ngữ học tri
nhận là “phải trả lời hàng loạt
những câu hỏi có liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và các quá trình tri nhận bao
gồm quá trình nhận thức (trí tuệ hay ý thức), ý niệm hóa, tri giác và các biểu tượng tinh thần
đang diễn ra trong não bộ con người, nhờ đó con người tiếp nhận được những tri thức về thế
giới” [14, tr.62].
1.5.2 Ngữ nghĩa học tri nhận và vấn đề màu sắc địa phương trong tác phẩm văn
học
Tri nhận được hiểu vừa là tri thức vừa là nhận thức của con người cùng với vốn kinh
nghiệm được tích lũy. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại của kinh nghiệm lịch sử - xã hội. Mỗi
dân tộc có kinh nghiệm lịch sử - xã hội của riêng mình. Do đó, những ngôn ngữ khác nhau
có thể tồn tại những nét dị biệt, biểu thị những ý nghĩa ri
êng. Có thể nói, chính chủ trương
“khảo sát một số khả năng tri nhận của con người cái khả năng ngôn ngữ cũng như miêu tả
các tri thức ngôn ngữ được lưu trữ trong đầu óc con người dưới dạng các biểu tượng tinh
thần đặc biệt” [53, tr.14] khiến cho ngôn ngữ học tri nhận đặc biệt quan tâm tới việc nghiên
cứu về nghĩa.
Kh
ác với ngôn ngữ học truyền thống, ngôn ngữ học tri nhận đề cao vấn đề nghĩa
nhưng nhưng không phải là ý nghĩa trong mối quan hệ với thực tại khách quan mà là mối
quan hệ với thế giới tinh thần, phản ánh năng lực tri nhận của con người. Điều này khiến
cho ngôn ngữ học tri nhận đặt ra cho mình nhiều nội dung nghiên cứu: quá trình tạo sinh và

hiểu ngôn ngữ, vấn đề phạm trù hóa, ý niệm h
óa, vấn đề ý niệm cảm xúc của con người, cái
nhìn của con người đối với thế giới hay “bức tranh ngôn ngữ thế giới”, vai trò của cơ thể đối
với ý thức ngôn ngữ… Trong đó, nội dung quan trọng bậc nhất của ngôn ngữ học tri nhận là
nghiên cứu ý niệm hóa và quá trình ý niệm hóa về thế giới. Xin được lược trích ý kiến về
một trường hợp cụ thể sa
u đây của tác giả Trần Văn Cơ:
Các nhà từ điển học thường lấy phương pháp phân tích thành tố ý nghĩa để xác định
nghĩa từ vựng. Tuy nhiên, điều này không làm thỏa mãn nhiều nhà ngữ học. Ví dụ: “Nhà”
được giải nghĩa “công trình xây dựng có mái, có tường vách để ở hay để dùng vào việc nào
đó” [41, tr.699]. Định nghĩa này đã bỏ qua nhiều nét nghĩa quan trọng trong cấu trúc nghĩa
của từ. Dễ thấy, “ngôi nhà” Việt Nam không giống nhà châu Âu, châu Phi… “Nhà” người
Việt không chỉ khác về kiến trúc mà còn ở những tình cảm, q
uan niệm được gửi gắm: “nhà”
là nơi che chở, đùm bọc, bảo vệ, là hơi ấm, sự chờ đợi. Họ gọi vợ mình hoặc chồng mình là
“nhà tôi” với hy vọng về một mái ấm che thân, sự bình an trong cuộc đời. Phải là người Việt
mới hiểu được ý nghĩa sâu xa của “xa nhà”, “nhớ nhà”, “về nhà”, “người nhà”… Đó là lý do
cần bổ sung việc giải nghĩa bằng phương pháp phân tích ý niệm.
Cũng th
eo tài liệu của tác giả này, ý niệm có cấu trúc theo mô hình trung tâm và ngoại
vi. Trung tâm chính là khái niệm mang tính phổ quát. Nằm ở ngoại vi là những nét đặc thù
văn hóa dân tộc. Nét đặc thù ấy bao gồm: văn hóa toàn dân tộc, văn hóa các tộc người, văn
hóa vùng, miền…
Đến đây có thể nói rằng, việc khảo sát từ ngữ địa phương trên cơ sở ngôn ngữ học tri
nhận chính là cách tìm hiểu cơ sở tri nhận, cách thức ý niệm hóa trong sự tương tác với đặc
thù văn hóa của địa phương đó. Đây cũng là một trong những cách thức làm sáng rõ màu sắc
địa phương trong tác phẩm.
Tất nhiên, chúng ta hiểu rằng, cơ sở tri nhận của một cá nhân dù là ai cũng không thể
tách rời khỏi cộng động. Chẳng hạn, do nhiều lý do khác nhau, người Nam Bộ dùng nhiều từ
ngữ về sông nước. Bên cạnh tính phong phú và đa dạng trong định danh, một mặt người

Việt nói chung, người Nam Bộ nói riêng xây dựng các bức tranh ý niệm và các ẩn dụ của
mình thông qua các con đường sa
u:
- Dùng trải nghiệm của chính bản thân mình để tri n
hận thế giới (i).
- Dùng trải nghiệm của chính thế giới để tri nhận lại chính mình (ii).
- Dùng trải nghiệm của một sự vật, hiện tượng trừu tượng thông qua một sự vật hiện
tượng cụ thể (iii).
Thuộc nhóm (i), trước hết có thể kể đến các từ ngữ: lòng
sông, cỏ tóc tiên, mặt nước,
rún
lũ… Nhóm (ii) có thể kể: ngụp lặn trong công việc, công việc ngập đầu, bơi trong công
việc, công việc trôi chảy
, công việc ứ đọng… và (iii): đời người là dòng sông, đời người là
cỏ cây
, đời người là một ngày.
Rõ ràng, các cách tri nhận trên không thể không ít nhiều ảnh hưởng đến việc xây
dựng, miêu tả hình tượng trong truyện ký của Sơn Nam - một nhà văn am hiểu vùng đất
mình sinh ra và trưởng thành.
1.6 Tiểu kết
Như đã trình bày, chương này có tính chất tổng quan. Luận văn đã bàn luận, đề cập
đến:
- Tiểu sử Sơn Nam.
- Lịch sử, văn hóa vùng đất Nam Bộ.
- Đặc trưng của ngôn ngữ văn chương.
- Phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ.
- Màu sắc địa phương - màu sắc Nam Bộ.
- Ngôn ngữ học tri nhận và các cách định danh.
Đây có thể coi là bộ khung lý thuyết, xuất phát điểm để luận văn đi vào miêu tả một
số chủ đề cụ thể trong chương tiếp theo.







Chương 2
CÁC PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ BIỂU THỊ MÀU SẮC NAM BỘ
TRONG TRUYỆN KÝ SƠN NAM

Một trong những cách thức được đề tài sử dụng nhằm tiếp cận với những phương tiện
này - đó là: so sánh, đối chiếu ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp phương ngữ với với ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp trong ngôn ngữ toàn dân nhằm xác định màu sắc địa phương trong tác
phẩm.
2.1. Từ vựng – ngữ âm
Hiện nay, xung quanh vấn đề từ tiếng Việt tồn tại nhiều quan niệm khác nhau. Tuy
nhiên, như đã xác định, ở luận văn này chúng tôi không đi vào những vấn đề có tính lý luận
mà chấp nhận quan điểm về từ của Nguyễn Tài Cẩn làm cơ sở khảo sát, nghiên cứu.
Trên cơ sở phối hợp hai bình diện ngữ âm và ngữ nghĩa, từ địa phương được chia
thành: (i) Nhóm không có từ ngữ tương đương trong ngôn ngữ to
àn dân, (ii) nhóm có từ ngữ
tương đương trong ngôn ngữ toàn dân.
Quá trình khảo sát được thực hiện trên 57 truyện ngắn (trong Hương rừng Cà Mau,
Hương quê Tây Đầu Đỏ và một số truyện ngắn khác) và 02 tập hồi ký (Từ U Minh đến Cần
Thơ, Ở chiến khu).
2.1.1 Từ ngữ địa phương không tương đương
Nhóm từ ngữ không tương đương tiếp tục được chia tách nhỏ hơn - bao gồm: những
từ ngữ phản ánh sản vật có n
guồn gốc tự nhiên của miền đất Nam Bộ, những từ ngữ chỉ đặc
điểm địa hình và sự vận động dòng nước, những từ ngữ phản ánh tập quán lao động sản

xuất, khả năng thích ứng với đặc thù sông nước.

2.1.1.1 Từ ngữ phản ánh sản vật có nguồn gốc tự nhiên
Có tổng số 108 từ được ghi nhận là không có từ tuơng đương trong ngôn ngữ to
àn
dân, trong đó có 44 từ (chiếm tỷ lệ 41,12%) là những từ chỉ sản vật riêng của miền đất Nam
Bộ với tổng tần số: 238, phân bố 140 trên tổng số 949 trang (14,75%), 36 trên tổng số 59 tác
phẩm (61,01%). Nếu tính trung bình số trang từ này xuất hiện, ta có kết quả cụ thể như sau:
949 (trang)/238 (tần số) = 3,99
Điều này có nghĩa, cứ 3,99 trang thì một trong
số các từ này xuất hiện một lần.
Bảng 2.1 minh họa một số từ tiêu biểu thuộc nhóm từ này (gồm: tần số, số trang và số
tác phẩm từ đó xuất hiện)
Bảng 2.1
Thực vật Động vật
Từ
Tần
số
Trang TruyệnTừ
Tần
số
Trang Truyện
Tràm 48 34 15 Già sói 16 7 3
Mốp 20 14 4 Chằng bè 5 5 4
Mắm 11 9 6 Sặc rằn 4 4 3
Đước 12 9 5 Sặc 3 3 3
Bàng 16 9 3 Vò vẽ 6 5 2
Dừa nước 11 6 5 Cá tra 3 3 3
Gừa 11 7 4 Chó đồng 3 3 3
Mù u 11 6 4 Thầy bói 4 3 2

Bồn bồn 4 2 2 Ri voi 12 10 1
Sậy đế 4 3 3 Cá bông 4 2 1
Sầu riêng 3 3 3 Hổ hành 1 1 1
Dây dớn 27 13 5 Trích 12 7 1
Dây choại 28 21 14 Áo dà 1 1 1
Về ngữ nghĩa, phần lớn đây là những từ biểu thị tên những loài động thực vật thuộc hệ
sinh thái ngập mặn: “tràm”, “đước”, “mắm”, “vẹt”, “dừa nước”... những loài chim di trú to
lớn có nguồn gốc từ Biển Hồ (Căm Pu Chia): “già sói”, “chằng bè”/“thằng bè”, “giang sen”,
“chó đồng”... Đó cũng còn là những từ phản ánh về hình ảnh miệt vườn cây trái Nam Bộ:
“chôm chôm”, “sầu riêng”, “dừa xiêm” ”, “măng cụt”... Sơn Nam dường như luôn cố gắng
tái hiện lại bằng ngôn ngữ về một vùng đất trù phú mà hoang sơ, mà lạ lẫm hiện ra
sau mỗi
bước chân người.
Ví dụ 1:
1a. “Rừng tràm
xanh đậm rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về ban đêm
khi trăng chiếu, đom đóm về đậu khắp nhánh tràm
như họp chợ phiên” [Mùa len trâu –
Hương rừng Cà Mau(HRCM), tr.657].
1b. “Trên ba mươi năm về trước, đó là nơi sầm uất, lau sậy mọc um tùm quanh mấy
gốc bần
to lớn (…) Ngọn nước bạc mát lạnh đổ tuôn qua Rạch Giá mang mấy giề lục bình lá
xanh bông tím trôi phưu lưu từ sông Hậu ra ngoài khơi vịnh Xiêm La xanh thẳm” [Con Bảy
đưa đò – HRCM, tr.235].
1c. “Vài con chim áo dà
bay tới tấp như giựt mình(…) Đến ngọn cây tràm, nàng nằm
yên ôm sát thân cây. Đằng xa, trong bụi lá gồi
như có gió thổi nhẹ vô cớ” [Ruộng lò bom –
HRCM, tr.784].
Trong số những sản vật có nguồn gốc tự nhiên, “tràm” là loài cây được nhắc đến

nhiều nhất. Tần số của nó là 48, xuất hiện trong 34 trang và 15 truyện ngắn (Đoàn Giỏi cũng
lặp lại tên loài cây này tổng số 18 lần trong “Đất rừng phương Nam”).
Kế đó là loài “mốp”: 20 lần, 14 trang, 4 tác phẩm; “đước” 12 lần, 9 trang và 5 tác
phẩm; “mắm” 11 lần, 9 trang, 6 tác phẩm; “bàng” 16 lần, 9 trang, 3 tác phẩm...
Với Tây Nam
Bộ, “tràm” có thể là loài cây điển hình. Nếu như ở nông thôn miền Bắc,
“tre” là hình ảnh thân thuộc thì “tràm” lại là những gì gần gũi, gắn bó - nhất là đối với các
tỉnh cực nam Tây Nam Bộ. Nhiều nơi ở khu vực này, người ta coi “tràm” là biểu tượng của
địa phương mình. Hình ảnh “tràm” xuất hiện trong nhiều đầu sách, xuất hiện trong phim ảnh
như là những biểu trưng. Một đoàn cải lương khá nổi trong tiếng cả nước có t
ên là đoàn cải
lương “Hương Tràm”. Tượng đài tỉnh Cà Mau hiện nay cũng được lấy cảm hứng từ “tràm”,
“đước”.
Có thể nói, sự hiện diện khá đa dạng những sự vật đặc thù trong đời sống tự nhiên
thông qua lớp từ địa phương đã góp phần tạo nên một không gian Nam Bộ trong truyện ký
Sơn Nam.
2.1.1.2 Từ ngữ chỉ đặc điểm địa hình và vận động dòng nước
Trong ngôn ngữ toàn dân th
ì “ao”, “đầm”, “hồ”, “rộc”, “sông” “kênh”, “mương”,
“máng”... là những từ chỉ địa hình lõm khuyết, chứa nước. Ngoài việc sử dụng những từ ngữ
ấy, Sơn Nam còn huy động nhiều từ thuộc lớp từ địa phương trong sáng tác của mình.
Bảng 2.2 miêu tả những từ này.
Bảng 2.2.
STT Từ Tần số Số trang Số tác phẩm
1 Rạch 95 75 24
2 Vàm 17 16 11
3 Vuông 14 7 1
4 Đìa 12 10 5
5 Lung 7 6 4
6 Bàu 2 2 2

7 Láng 2 2 2
8 Vàm rạch 2 2 2
9 Loi 1 1 1
10 Nước ròng 10 10 6
11 Nước lớn 4 4 4
12 Nước rặc 2 2 2
13 Nước cái 2 2 1
14 Nước nổi 1 1 1
Tổng số từ: 14
Tổng tần số : 172
Sự phân bố của chúng:
Số trang: 118/949 (12,43%)
Số tác phẩm: 34/59 (57,62%)
“Rạch” là từ có tần số và phân bố cao nhất trong nhóm (95 lần, 75 trang và 24 tác
phẩm). Đó là những con sông nhỏ, xuất phát từ những nhánh sông lớn, tạo thành một mạng
lưới dày đặc trên dải đất Tây Nam Bộ. Sự lặp lại nhiều lần của “rạch” trong tác phẩm rõ
ràng có cơ sở thực tiễn.

“Vàm” có tần số và độ phân bố xếp thứ hai (17 lần, 16 trang và 11 tác phẩm). Tiếng
Khơ me có từ “péam”, nghĩa của nó là “cửa sông, nơi một con sông nhỏ chảy vào con sông
lớn”. Nhiều địa danh trong tác phẩm bắt đầu từ “vàm”: “Vàm Cống”, “Vàm Tắc Thủ”,
“Vàm Nao”, “Vàm Rạch”…
Một điểm chú ý khác là sự hiện diện của những từ chỉ hiện tượng các dòng nước:
“nước lớn”, “nước ròng”, “nước nổi”, “nước l
ên”, “nước rặc”… Dễ dàng nhận thấy “nước
rặc”, “nước cái” không có từ tương đương trong ngôn ngữ toàn dân. Nó là “đặc sản” của
phương ngữ Nam Bộ.
“Nước rặc” được giải nghĩa: “Là nước chảy đã cạn, chỉ còn một đường nước nhỏ giữa
lòng sông”, “nước cái” là “con nước rong lớn hơn hai con nước rong (nước lớn hơn mọi con
nước, có khả năng tràn bờ) của tháng” [61, tr.956,960]. Tương tự như vậy với “nước nổi”,

“nước ròng”, “nước lớn”
. Nếu như “ngập”, “rút”, “dâng” trong ngôn ngữ toàn dân là những
vị từ, thì “nổi”, “ròng”, “lớn” còn được danh hóa thông qua sự kết hợp với từ tố “nước”.
Cuốn “Tự vị An Nam La tinh” của Bá Đa Lộc Bỉ Như ghi âm tiếng “Đàng Trong” xem

×