Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

đề tài NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM VINAMILK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 95 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2011-2012



TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM
XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA
VIỆT NAM VINAMILK

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Ngọc Thắng
Sinh viên thực hiện : Đỗ Đình Nam
Nguyễn Như Ngọc
Nguyễn Thành Tư





-HÀ NỘI, 5/2012-



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2011-2012



TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM
XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA
VIỆT NAM VINAMILK



GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Ngọc Thắng
GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN:






-HÀ NỘI, 5/2012-





“Trách nhiệm xã hội trong công việc kinh doanh không nên là một
sự ép buộc; đó là một quyết định tự nguyện mà các nhà lãnh đạo
của mỗi công ty đều phải làm cho chính doanh nghiệp của mình”
John Mackey, doanh nhân người Mỹ, đồng sáng lập và CEO
Tập đoàn Whole Foods Market
1

LỜI CẢM ƠN

Nhóm nghiên cứu chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả những người
đã tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành bài nghiên cứu này. Trong mỗi bước thực
hiện bài nghiên cứu, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình, những góp ý và sự
khích lệ của các thầy cô giáo và bạn bè.
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tiến sỹ Nguyễn
Ngọc Thắng, chủ nhiệm bộ môn Quản trị chiến lược, khoa Quản trị Kinh doanh vì đã
hết lòng giúp đỡ cũng như đưa ra những nhận xét và góp ý giá trị cho bài nghiên cứu.
Chính sự tận tụy này của thầy đã giúp chúng tôi có thể hoàn thành bài nghiên cứu này
một cách tốt nhất.
Bên cạnh đó, trong suốt quá trình làm việc, nhóm nghiên cứu cũng nhận được
những chia sẻ, góp ý từ những người bạn thân thiết. Nếu không có họ, chúng tôi đã
không thể hoàn thành bài nghiên cứu này theo đúng tiến độ.
Cuối cùng, chúng tôi muốn tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới trường Đại Học Kinh Tế,
ĐH Quốc Gia Hà Nội, và đặc biệt là khoa Quản trị Kinh doanh vì đã hết sức tạo điều
kiện cho nhóm thực hiện bài nghiên cứu này.

Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2012
Nhóm thực hiện đề tài

2


MỤC LỤC

Danh mục bảng biểu 5
Mở đầu 6
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực hiện CSR 17
1.1. Một số khái niệm liên quan tới trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR). 17
1.1.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 17
1.1.2. Những thành tố của CSR. 18
1.2. Lợi ích của CSR với doanh nghiệp. 21
1.2.1. Lợi ích về tài chính. 21
1.2.2. Lợi ích phi tài chính 26
1.3. Tính cấp thiết của việc thực hiện CSR tại Việt Nam. 30
1.3.1. Yếu tố môi trường kinh doanh. 30
1.3.2. Yếu tố bên trong doanh nghiệp. 32
1.4. Nguồn lực để thực hiện CSR của doanh nghiệp Việt Nam. 33
1.4.1. Nguồn lực bên trong. 33
1.4.2. Nguồn lực bên ngoài. 35
1.5. Kinh nghiệm thực hiện CSR của một số doanh nghiệp nước ngoài 36



3

Chƣơng 2: Thực trạng vấn đề thực hiện CSR của Vinamilk 41
2.1. Sơ lược về công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. 41
2.2. Thực trạng vấn đề thực hiện CSR tại công ty Vinamilk. 44
2.2.1. Sự cần thiết của việc thực hiện CSR tại Vinamilk. 44
2.2.2. Quan điểm thực hiện CSR của Vinamilk. 45
2.2.3. Tình hình thực hiện CSR của Vinamilk. 46
2.2.4. Ngân sách thực hiện CSR của Vinamilk. 63

2.2.5. Đánh giá việc thực hiện CSR của Vinamilk. 64
Chƣơng 3: Giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả CSR đối với Vinamilk 76
3.1. Nguyên tắc hình thành các nhóm giải pháp. 77
3.1.1. Khung khổ lý thuyết. 77
3.1.2. Mục đích hình thành. 77
3.2. Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật. 78
3.2. Nhóm giải pháp về con người. 79
3.3. Nhóm giải pháp về tài chính. 80
3.4. Tăng cường vai trò của lãnh đạo với CSR tại Vinamilk. 82
Kết luận 83
Danh mục tài liệu tham khảo 89

4

DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
CBNV
Cán Bộ Nhân Viên
CNH-HĐH
Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa
CDM
Clean Development Mechanism
CoCs
Code of Conducts
CSR
Corporate Social Responsibility
ĐHQGHN
Đại Học Quốc Gia Hà Nội
DN

Doanh Nghiệp
FDI
Foreign Direct Investment
IR
Investors Relations
ISO
International Organization of Standardization
KLD
Kinder, Lydenberg, Domini Research & Analytics
KPI
Key Performance Indicators
MBA
Master of Business Administration
NPP
Nhà Phân Phối
PRI
Principles of Responsible Investment
ROA
Return on Assets
ROE
Return on Equity
TMC
Toyota Motor Corporation
WTO
World Trade Organization
5

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 1: Mô hình kim tự tháp CSR 19

Biểu đồ 2: Động lượng CSR 22
Biểu đồ 3: Đường giá trị CSR 23
Biểu đồ 4: Cảm nhận về hình ảnh của công ty trong cộng đồng 28
Biểu đồ 5: Đánh giá mức độ quan trọng của CSR 29
Biểu đồ 6: Mối quan hệ giữa các yếu tố CSR cốt lõi của TMC 37
Biểu đồ 7: Sơ đồ “Phương thức Toyota” 37
Biểu đồ 8: Sơ đồ các cơ quan thực thi chính sách CSR của TMC 38
Biểu đồ 9: Sơ đồ so sánh lượng tiêu thụ năng lượng giữa năm 2007 và 2010 40
Biểu đồ 10: Sơ đồ tổ chức và cơ cấu quản lý công ty Vinamilk 42
Biểu đồ 11: Mô hình quan điểm CSR của Vinamilk với các bên liên quan 46
Biểu đồ 12: Mối quan hệ giữa nguồn tài nguyên sử dụng và nước thải của Vinamilk 61
Biểu đồ 13: Ngân sách giành cho hoạt động CSR của Vinamilk 64
Biểu đồ 14: Sơ đồ tăng trưởng doanh thu của Vinamilk qua các năm 66
Biểu đồ 15: Sơ đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng ROA của Vinamilk qua các năm 66
Biểu đồ 16: Sơ đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng ROE của Vinamilk qua các năm 67
Biểu đồ 17: Mô hình các nhóm giải pháp thúc đẩy CSR cho doanh nghiệp 76
Biểu đồ 18: Mô hình khung giải pháp thúc đẩy CSR tại Việt Nam 84
6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trách nhiệm xã hội (CSR) là một yêu cầu đối với doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp không thực hiện được CSR thì rất khó để tiếp cận được với thị trường thế
giới. Kinh nghiệm cho thấy, những công ty đa quốc gia hàng đầu thế giới, những
người khổng lồ rất thành công trong việc kinh doanh cũng đồng thời là những công
ty thực hiện trách nhiệm xã hội cực kỳ tốt. Bên cạnh đó, cũng có không ít bài học
cay đắng xuất phát từ việc thực hiện CSR không tốt như trường hợp của Coca Cola,
Nike hay Mac Donald’s những năm trước đây.
Trên thế giới, khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không

hề mới; đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về CSR cũng như các công ty nước
ngoài từ lâu đã thực hiện CSR một cách nghiêm túc và bài bản. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, CSR vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư, với người tiêu dùng và toàn xã hội nói chung.
Đặc biệt, sau khi Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào năm
2007, việc thực hiện CSR đối với các doanh nghiệp Việt Nam trở nên đặc biệt quan
trọng. Mặc dù vậy, việc thực hiện CSR ở Việt Nam còn tương đối khó khăn. Điều
này có nguyên nhân bởi chính bản thân doanh nghiệp cũng chưa có hiểu biết đúng
đắn về CSR. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam cho rằng CSR đơn thuần là làm từ
thiện trong khi thực hiện CSR cũng gồm các yếu tố ngay bên trong doanh nghiệp.
Một trở ngại nữa với doanh nghiệp Việt Nam là thiếu nguồn nhân lực, tài chính
cũng như kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực CSR. Điều này lại là đặc biệt khó
khăn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khi nếu xét theo quy định của
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ thì khoảng 95%
doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
7

Quan trọng và cấp thiết như vậy nhưng tại Việt Nam, CSR vẫn chưa nhận
được sự quan tâm đúng mức từ phía nhà nước, xã hội và giới doanh nghiệp; đồng
thời, hiện chưa có nhiều công trình nghiên cứu về CSR tại Việt Nam. Đó chính là lý
do nhóm nghiên cứu lựa chọn CSR làm đối tượng nghiên cứu cho đề tài này. Với
việc lấy công ty cổ phần sữa Việt Nam làm khách thể nghiên cứu chính, đề tài dĩ
nhiên chưa thể thể hiện hết bức tranh toàn cảnh về CSR tại Việt Nam nhưng nhóm
tác giả hy vọng có thể đóng góp một góc nhìn mới và cụ thể hơn về CSR tại Việt
Nam, đặc biệt là CSR trong một công ty lớn và có uy tín như Vinamilk.

2. Tình hình nghiên cứu về CSR trên thế giới.
 Lịch sử phát triển của CSR
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã trở thành một chủ đề gây
nhiều tranh luận cho tất cả các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế học, và

cả các chính trị gia trên toàn thế giới trong nhiều năm qua.
Trong cuốn sách Kinh Doanh có trách nhiêm: Làm thế nào để quản trị thành
công một chiến lược CSR, tác giả Manfred Pohl và Nick Tolhurst đã dẫn ra nghiên
cứu của Weyne Visser về cuộc cách mạng của CSR. Ông chỉ ra rằng khái niệm về
CSR đã được tranh luận và thực hành từ dạng này sang dạng khác khoảng 4,000
năm trước. Trong đạo Hinđu và đạo Phật đã có những lời răn dạy đạo đức xoay
quanh việc cho vay nặng lãi, và đạo Hồi thì ủng hộ cho chính sách “Zakat” (Zakat là
khoản tiền mà mỗi người khỏe mạnh đóng góp để giúp đỡ cho một số đối tượng nhất
định).
Quan điểm hiện đại về “Trách nhiệm xã hội” của doanh nghiệp – CSR có thể
nói được đánh dấu từ giữa những năm 1800s với tên tuổi của John H. Patterson
1
khi


1
Thượng nghĩ sỹ bang Nam Carolina, Hoa Kỳ

8

ông làm dấy lên làn sóng về phúc lợi xã hội trong ngành công nghiệp và John D.
Rockefeller
2
lập nên một quỹ từ thiện, là hình mẫu của quỹ từ thiện Bill Gates hơn
một trăm năm sau (Carroll, 2008). Mặc dù vậy, thuật ngữ “CSR” chỉ được dùng phổ
biến từ những năm 1950, với sự đánh dấu cuốn sách “Trách nhiệm xã hội của người
làm kinh doanh” (Bowen 1953). Học thuyết càng được củng cố mạnh mẽ bởi làn
sóng về vấn đề môi trường những năm 1962 và làn sóng quyền lợi người tiêu dùng
những năm 1965.
Thập niên 70 của thế kỷ XX đã chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các định

nghĩa và học thuyết xoay quanh thuật ngữ “CSR”. Archie Carroll đã lồng ghép vào
đó bốn khái niệm là Kinh tế, Đạo đức, Luật pháp và Từ thiện. Sau đó ông phát triển
thành mô hình Kim tự tháp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR Pyramid)
(Carroll, 1979), cũng như đưa ra những điều luật về CSR đầu tiên trên thế giới
(Sullivan Code). Năm 1980, điều luật về đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động
được giới thiệu tới công chúng (Responsible Care).
Vào những năm 1990, CSR đã được tổ chức hóa thành các tiêu chuẩn như ISO
14001 và SA 8000, những bản hướng dẫn như Hướng dẫn chủ động báo cáo toàn
cầu (Global Reporting Initiative – GRI), hay những điều lệ quản trị công ty như
Cadbury và King.
Sang thế kỷ XXI, một loạt các hướng dẫn, quy định, điều lệ, tiêu chuẩn về
CSR được ban hành, hơn 100 trong số đó có thể tìm thấy trong cuốn: “Từ A đến Z
những điều cần biết về CSR” (The A to Z of corporate social responsibilities).
Thậm chí hiện nay trên thế giới đã bắt đầu xuất hiện khái niệm CSR mới - CSR
2.0 (Corporate Sustainability Responsibility) trên cơ sở kế thừa và phát triển khái
niệm CSR 1.0.


2
John D. Rockefeller: sáng lập tập đoàn dầu lửa Standard Oil, sáng lập trường ĐH Chicago và Rockefeller, sáng
lập quỹ từ thiện Rockefeller
9

Như vậy có thể xem CSR như một làn sóng mạnh mẽ đang trỗi dậy trên thế
giới trong suốt nhiều thập kỷ qua. Nó đã trở thành một trong những đề tài nghiên
cứu gây nhiều chú ý và tranh luận nhất cho các học giả. Chúng ta hãy thử nhìn nhận
những hướng nghiên cứu chính về CSR của các học giả nước ngoài và trong nước
sau đây
 Những hướng nghiên cứu chính .
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

được công bố trên thế giới. Các đề tài liên quan trực tiếp đến các học giả nước ngoài
có thể được chia thành 4 nhóm như sau:
Nhóm 1: Nhóm chủ yếu nghiên cứu, đưa ra những lý luận cơ bản về trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp. Tuy nhiên những lý luận này là khác nhau, tùy thuộc vào
từng góc độ đánh giá của các học giả. Nhưng nhìn chung, các bài lý luận thuộc
nhóm này có sự kế thừa và phát triển từ những bài nghiên cứu trước đó. Nhóm này
là một trong hai nhóm có số lượng bài nghiên cứu nhiều nhất. Một số bài tiêu biểu
của nhóm này gồm có:
- “The social responsibility of business is to increase its profit”, Fredman Milton
(1970), đăng trên tạp chí the New York Times, ngày 13 tháng 9, năm 1970. Bài báo
cho rằng doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm xã hội là làm sao để tối đa hóa lợi
nhuận, tăng giá trị cổ đông trong khuôn khổ luật chơi của thị trường là cạnh tranh
trung thực và công bằng. Ông cho rằng trách nhiệm xã hội là của nhà nước, nên
người chủ doanh nghiệp, đại diện cho các cổ đông, chỉ thực hiện các trách nhiệm xã
hội mà anh ta mong muốn, đã có sự thông qua của cổ đông.
- “Corporate Social Responsibility – Evolution of a definitional construct”, của tác
giả Carroll Archie (1999), đăng trên Business Society. Ông cho rằng CSR có một
phạm vi lớn hơn, “là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và những lĩnh vực
khác mà xã hội trông đợi ở doanh nghiệp trong mỗi thời điểm nhất định”.
10

- “Corporate Social Responsibility: Three Key Approaches”, Duane Windsor
(2006) đăng trên Journal of Management Studies. Ông đã kế thừa và phát triển
những lý luận của các học giả trước đó để đúc kết ra ba phương pháp chính tiếp cận
với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Ông định nghĩa khái niệm “công dân
doanh nghiệp” là sự giao thoa của 2 lợi ích: sự giàu có của cá nhân và lợi ích cộng
đồng. Từ đó ông cho rằng một “công dân doanh nghiệp” cần có một quyền lực linh
hoạt, danh tiếng của công ty, ảnh hưởng của chính trị và làm từ thiện một cách
chiến lược.
Nói tóm lại tuy các bài nghiên cứu thuộc nhóm này có sự khác nhau qua từng

thời kỳ, nhưng hầu hết là sự kế thừa và phát triển ra các lý luận mới mẻ. Tất cả đều
cho thấy rõ mức độ gắn kết của CSR với doanh nghiệp.
Nhóm 2: Nhóm chủ yếu nghiên cứu về tác động của CSR đối với doanh nghiệp và
các bên liên quan.
Những bài nghiên cứu thuộc nhóm này tập trung làm sự rõ tác động của một
yếu tố hoặc một vài yếu tố trong 6 yếu tố chính của CSR đến doanh nghiệp và các
bên liên quan. 6 yếu tố đó là thực hành kinh doanh trung thực, môi trường, lao động,
người tiêu dùng, hòa hợp và phát triển cộng đồng, điều hành doanh nghiệp và quyền
con người.
Trong nhóm này nổi bật lên một số bài nghiên cứu sau:
- “Innovative CSR: From Risk Management to Value Creation” của các tác giả
Celine Louche, Samuel O. Idogu, Walter Leal Filho . Cuốn sách là tập hợp những
bài nghiên cứu hay có những điểm tương đồng. Nội dung chủ yếu nêu ra những
quan điểm của các tác giả về mối quan hệ giữa CSR và sự đổi mới giá trị và sáng tạo
trong doanh nghiệp.
Sau đó tác giả áp dụng lý luận vào phân tích các trường hợp cụ thể như ngành
y dược, giáo dục hay thậm chí là một doanh nghiệp cụ thể ở Ireland. Qua đó, thấy rõ
được vai trò của CSR đối với hoạt động đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp.
11

- Corporate Social Responsibility: CSR Communication as an Instrument to
Consumer-Relationship Marketing, của tác giả Elena Bueble (2009). Cuốn sách nêu
lên mối quan hệ giữa CSR và sự thể hiện của công ty, và đặc biệt là coi giao tiếp
CSR như một kênh quản trị quan hệ khách hàng. Tác giả còn có những đóng góp
quan trọng trong việc định hình phương pháp tính toán mức độ giao tiếp CSR với
khách hàng. Thông qua đó, tác giả cũng đưa ra những chiến lược để các doanh
nghiệp có thể áp dụng việc thực hiện CSR vào quản trị quan hệ khách hàng.
- “Corporate Social Responsibility: The key role of human resource management”,
của các tác giả Surpan Sarma, Joity Sarma, và Arti Devi (2009). Nhóm các tác giả
đã chỉ ra mối quan hệ hai chiều giữa CSR và hoạt động quản trị nhân sự trong công

ty. CSR có thể làm nền tảng cho việc quản trị nhân sự được hiệu quả, và quản trị
nhân sự được gợi ý mang ý nghĩa quan trọng nhất trong việc thúc đẩy các hoạt động
CSR ở mọi cấp độ trong công ty.
Nhìn chung nhóm này là nhóm có số lượng bài nghiên cứu đông đảo nhất và
cũng đa dạng nhất. Mỗi bài nghiên cứu lại bao gồm một chủ đề nhỏ trong bức tranh
toàn cảnh CSR. Vì vậy muốn hiểu được hầu hết các quan điểm, cần phải có một hệ
thống kết nối cũng như phân loại cụ thể, rõ ràng
Nhóm 3: Nhóm chủ yếu đi tìm các phương pháp để đánh giá vai trò, ý nghĩa, mức
độ hiệu quả của các chương trình CSR đối với doanh nghiệp.
Một số đại diện của nhóm này gồm có:
- “The business case for corporate social responsibility: A company-level
measurement approach for CSR”, Manuela Weber (2008). Ông cho rằng, mặc dù có
nhiều lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn đã chỉ ra mối quan hệ đồng biến giữa CSR
và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những cách tiếp cận để tính toán sự ảnh
hưởng của CSR vẫn còn thiếu trong các tài liệu hiện thời. Bài nghiên cứu tập trung
vào câu hỏi làm thế nào để tính toán được ảnh hưởng của các hoạt động CSR đến
12

doanh nghiệp. Sử dụng mô hình các bước đánh giá có thể giúp các nhà quản trị
trong công việc này.
- "An empirical Examination of the Relationship between Corporate Social
Responsibility Disclosure and Financial Performance in an Emerging Market",
Mustaruddin Saleh, Norhayah Zulkifli, Rusnah Muhamad. (2008). Nhóm tác giả đã
dùng phương pháp khảo sát và lượng hóa các số liệu thu thập tại các doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Malaysia. Kết quả đã chỉ ra mối quan hệ đồng biến giữa CSR và các
lợi ích tài chính.
Nhóm 4: Nhóm những gợi ý, chính sách liên quan đến việc phát triển hoạt động
CSR cho từng khu vực, từng quốc gia, hay từng ngành cụ thể.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu thuộc nhóm này đó là:
- “Priorities for Corporate Social Responsibility: a Survey of Businesses and their

stakeholders”, của nhóm tác giả Richard Welford, Clifford Chan, và Michelle Man.
Bài báo đã phát phiếu điều tra tới 491 tổ chức ở Hồng Kong với bảng hỏi và các
thang điểm đánh giá để so sánh. Sau khi xử lý số liệu, các tác giả này đã tìm ra các
nhóm nhân tố của CSR mà các doanh nghiệp Hồng Kong cho là quan trọng và đặt
ưu tiên lên hàng đầu. Tuy nhiên sự đánh giá này là khác nhau dưới các góc nhìn của
chính phủ, nhà đầu tư, cổ đông, ban giám đốc và nhân viên trong công ty.
- “Corporate Social Responsibility: Strategic Implications”, McWilliams, Abagail;
Siegel Donald S; Wright Patrick, M (2005), đăng trên tạp chí Journal Management
Studies. Nhóm các tác giả đã phát triển một khuôn mẫu cho việc nhận định các hàm
ý chiến lược về CSR trong doanh nghiệp. Sau đó các tác giả nghiệm thu những kết
quả nghiên cứu trước đó, phân loại và đưa vào áp dụng cho phù hợp với những
khuôn mẫu sẵn có. Nhờ vậy mà, nhóm các tác giả đã đưa ra được một bộ các chiến
lược về việc thực hiện CSR dựa trên kế thừa quan điểm của khá nhiều học giả khác.

13

 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, nhắc đến CSR là nhắc đến một khái niệm còn rất mới mẻ và mơ
hồ đối với một số không ít các doanh nghiệp. CSR được giới thiệu tới Việt Nam bởi
các công ty đa quốc gia có nhà máy tại Việt Nam, thông qua các quy tắc ứng xử.
Các công ty may mặc và da giầy, điển hình là May 10 là những công ty đầu tiên ở
Việt Nam thực hiện chính sách về CSR. Chính vì lẽ đó mà số lượng các bài nghiên
cứu về CSR ở Việt Nam là chưa nhiều. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu có
thể kể đến:
- Báo cáo về CSR ở Việt Nam”, Nigel Twose và Tara Rao (2003) tổng kết tình
hình thực hiện CSR trong ngành dệt may và da giầy của Việt Nam, đã chỉ ra
những động lực thúc đẩy thực hiện CSR trong 2 ngành và này nhấn mạnh vai trò
của chính phủ trong việc thúc đẩy thực hiện CSR trong cộng đồng doanh nghiệp.
Theo các tác giả, chính phủ Việt Nam nên quan niệm rằng thực hiện CSR chính
là cơ chế quan trọng để đạt được lợi thế cạnh tranh quốc gia trên thị trường thế

giới.
- “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp – CSR: một vấn đề lý luận và yêu cầu đổi
mới trong quản lý nhà nước đối với CSR ở Việt Nam” của nhóm tác giả Nguyễn
Đình Cung và Lưu Minh Đức, đăng trên viện khoa học xã hội Việt Nam. Bài viết
đã tóm tắt một số vấn đề lý luận về CSR, các vấn đề tranh cãi xoay quanh chủ đề
này, cũng như đã nêu ra được thực trạng hoạt động CSR ở Việt Nam. Nhóm tác
giả đồng thời cũng nêu ra khuyến nghị sự cần thiết của việc đổi mới chính sách
quản lý của nhà nước, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc thực
hiện CSR.
- Phạm Văn Đức (2010) đã chỉ ra rằng việc các doanh nghiệp thực hiện tốt trách
nhiệm xã hội không chỉ giúp bản thân doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn
14

góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội. Tác giả cũng đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây chưa làm rõ được việc thực hiện CSR tại
công ty cụ thể tại Việt Nam. Chính điều này đã cho chúng tôi thấy được khoảng
trống trong nghiên cứu tình huống việc thực hiện CSR trong một doanh nghiệp cụ
thể.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu của nghiên cứu là tìm ra những vấn đề cơ bản trong thực trạng và giải
pháp cho vấn đề thực hiện CSR tại công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. Qua
đó, đưa ra một một số khuyến nghị về giải pháp cho vấn đề thúc đẩy việc thực hiện
và nâng cao chất lượng CSR tại doanh nghiệp Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài phải giải quyết hai câu hỏi nghiên cứu trọng
tâm sau:
- Thực trạng của việc thực hiện CSR tại Vinamilk có những đặc điểm cụ thể, chi
tiết như thế nào?
- Giải pháp nào cho việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả thực hiện CSR của
Vinamilk?


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Vấn đề thực hiện CSR tại công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk.
- Phạm vi:
 Không gian: Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk.
 Thời gian: từ năm 2000 trở lại đây.


15

5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở các tài liệu thứ cấp, đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp – phân
tích, phương pháp toán để phân tích, nhận định để đưa có được những đánh giá về
vấn đề và đưa ra các gói giải pháp.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để có
được nguồn tài liệu sơ cấp phục vụ cho bài nghiên cứu và tăng tính khách quan cho
công trình.
6. Đóng góp mới của đề tài.
- Làm rõ toàn diện tính cấp thiết, nguồn lực cũng như lợi ích của việc thực hiện
CSR đối với doanh nghiệp Việt Nam.
- Cung cấp những luận chứng khoa học về thực trạng và một khung giải pháp toàn
diện cho việc thực hiện CSR tại Vinamilk.
- Khuyến nghị một khung giải pháp toàn diện từ phía “Nhà nước – Xã hội –
Doanh nghiệp”, phục vụ cho việc thúc đẩy sự phát triển của CSR tại các doanh
nghiệp Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài.
Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp.
Chương 1 đưa ra những lý luận cơ bản liên quan tới CSR, những yếu tố cơ bản cấu

thành CSR và lợi ích của CSR đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chương 1 cung
cấp thông tin về tính cấp thiết và nguồn lực để thực hiện CSR tại doanh nghiệp Việt
16

Nam. Đồng thời, chương này cũng phân tích kinh nghiệm thực hiện CSR của một số
doanh nghiệp nước ngoài như tập đoàn Toyota và công ty KPMG Trung Quốc.

Chƣơng 2: Thực trạng vấn đề thực hiện CSR của công ty cổ phần sữa Việt
Nam Vinamilk.
Chương 2 đưa ra cái nhìn cụ thể, rõ ràng về thực trạng của vấn đề thực hiện CSR
của công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. Những vấn đề được phân tích trong
chương này là hệ thống quan điểm, chính sách, chương trình và ngân sách dành cho
CSR. Thêm vào đó các đánh giá về việc thực hiện CSR (thành quả, hạn chế, thuận
lợi, khó khăn) sẽ làm rõ hơn bức tranh về CSR tại Vinamilk.

Chƣơng 3: Giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả CSR đối với công ty cổ
phần sữa Việt Nam Vinamilk.
Chương 3 dựa trên phân tích ở chương 2 để đưa ra các nhóm giải pháp cho việc mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng thực hiện CSR trong trường hợp Vinamilk. Các
nhóm giải pháp bao gồm: nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật (1), nhóm giải pháp về
con người (2), nhóm giải pháp về tài chính (3) và nâng cao vai trò của lãnh đạo (4).
17

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được biết đến như một trong những yếu
tố làm nên rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như tăng doanh số, lợi nhuận, giảm tỉ lệ
thôi việc hay mở rộng cơ hội phát triển thị trường. Trên thực tế kinh doanh, trách

nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một khái niệm không mới và ở trên bình diện thế
giới thì từ những năm của thập niên 1980, CSR đã trở thành một chiến lược quan
trọng trong quá trình phát triển của mỗi công ty. Từ đó tới nay, CSR đã dần chứng tỏ
được vai trò lớn lao của mình đối với sự phát triển chung của doanh nghiệp cũng như
sự hài hòa với lợi ích của xã hội. Chính vì thế, khái niệm CSR đang ngày một được sự
quan tâm, cũng như được đầu tư nhiều hơn từ phía các doanh nghiệp.
1.1. Một số khái niệm liên quan tới trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
(CSR).
1.1.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thời gian gần đây, có một số vụ việc gây xôn xao dư luận như công ty Vedan
Việt Nam bức tử sông Thị Vải, nước tương nhiễm 3-MCPD hay sữa nhiễm độc chất
melamine. Kể từ đó, dư luận ngày một quan tâm và bàn bạc nhiều hơn về cụm từ
trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc kinh doanh đối với môi trường cũng như
người tiêu dùng. Để nói tới vấn đề liên quan tới trách nhiệm trong kinh doanh của
doanh nghiệp, cộng đồng thế giới cùng thống nhất một cụm từ chung, đó là
“Corporate Social Responsibility – trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”.
18

Trên thực tế, có rất nhiều khái nhiệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
(CSR). Điều này phụ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi công ty, chính phủ dựa trên
điều kiện, đặc điểm và trình độ phát triển của mỗi đối tượng. Keith Davies (1973)
đưa ra một khái niệm khá rộng: ”CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp
với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu, pháp lý, công nghệ”.
Còn A. Carroll (1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hơn “là tất cả những vấn đề
pháp lý, kinh tế, đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi ở doanh
nghiệp trong những thời điểm nhất định”. Trong khi đó, theo Matten và Moon
(2004): “CSR là một khái niệm bao trùm các khái niệm khác như đạo đức kinh
doanh, doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách
nhiệm môi trường. Đó là một khái niệm động và luôn được thử thách trong từng
hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”.

Như vậy, chúng ta phần nào thấy được bản chất của CSR và trong bài nghiên
cứu, nhóm tác giả quyết định lấy quan điểm chính thức của Hội đồng doanh nghiệp
vì sự phát triển bền vững – World Business Council for Sustainable Development
(WBCSD) làm để làm bật lên bản chất của CSR, đó là: “CSR là cam kết liên tục
của doanh nghiệp đối với đạo đức kinh doanh và đóng góp vào tăng trưởng kinh
tế, trong khi đó cải thiện chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ
cũng như của cộng đồng và xã hội”. Lý do nhóm nghiên cứu chọn quan điểm này
để minh họa cho khái niệm CSR vì WBCSD là một tổ chức nghiêm túc trong thúc
đẩy CSR trong các doanh nghiệp thành viên và quan điểm này cũng được giới khoa
học đánh giá cao.
1.1.2. Những thành tố của CSR.
Mặc dù CSR đã trở nên phổ biến, hiện vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm, nội dung, và phạm vi của CSR. Trong số những lý thuyết liên quan tới
vấn đề này, mô hình “kim tự tháp” của A. Carroll có tính toàn diện và được sử dụng
rộng rãi nhất.
19


Biểu đồ 1: Mô hình kim tự tháp CSR
(Nguồn: Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008, p8))

Dựa theo mô hình này, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức
và từ thiện. Cụ thể như sau:
- Trách nhiệm kinh tế: tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả
kinh doanh và tăng trưởng là những điều kiện tiên quyết. Điều này là đương nhiên
bởi doanh nghiệp được thành lập trước hết vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của doanh
nhân. Bên cạnh đó, doanh nghiệp là một thành tố cấu tạo nên xã hội, do vậy chức
năng kinh doanh cần được ưu tiên và đặt lên hàng đầu. Cũng có thể nói rằng trách
nhiệm kinh tế là yếu tố nền tảng và các trách nhiệm còn lại đều phải dựa trên trách
nhiệm kinh tế của doanh nghiệp.

- Trách nhiệm pháp lý: hay còn được gọi là trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính
là một phần của bản cam kết giữa doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước có trách nhiệm
mã hóa những quy tắc, chuẩn mực đạo đức, xã hội vào các văn bản pháp luật. Doanh
nghiệp, dựa trên cơ sở đó, sẽ theo đuổi các mục tiêu về kinh tế của mình dựa trên
những chuẩn mực, quy tắc trong các bộ luật được ban hành. Cùng với trách nhiệm
kinh tế, trách nhiệm pháp lý là hai bộ phận nền tảng, cơ bản nhất và không thể thiếu
đối với CSR.
20

- Trách nhiệm đạo đức: đây là những chuẩn mực, quy tắc được xã hội thừa nhận
nhưng chưa có mặt trong các văn bản luật. Trên thực tế, những chuẩn mực xã hội
luôn biến đổi và vì thế những chính sách pháp luật chỉ có thể theo sau trong quá
trình biến đổi này. Do đó, pháp luật không thể phản ánh hết những đòi hỏi về những
quy tắc ứng xử của xã hôi. Vì vậy, trách nhiệm thực hiện đúng luật pháp là đòi hỏi
tối thiểu với doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn cần phải thực hiện những
nghĩa vụ, quy tắc ngoài luật hay chính là trách nhiệm đạo đức. Việc thực hiện trách
nhiệm đạo đức là tự nguyện đối với mọi doanh nghiệp nhưng lại có vai trò trung tâm
đối với CSR (ví dụ như việc thực hiện ngày nghỉ cuối tuần, tiền cho nhân công làm
thêm ca, uy tín đối với đối tác, quan hệ tốt với khách hàng…).
- Trách nhiệm từ thiện: là những hoạt động của doanh nghiệp đã vượt qua sự kỳ
vọng của xã hội. Một số ví dụ như trao quà cho trẻ mồ côi, tài trợ học bổng cho học
sinh sinh viên,… Trách nhiệm từ thiện khác trách nhiệm đạo đức ở chỗ, doanh
nghiệp thực hiện trách nhiệm này “hoàn toàn tự nguyện”. Nếu doanh nghiệp không
thực hiện CSR tới mức độ này thì họ vẫn được coi là đã hoàn thiện đầy đủ trách
nhiệm với xã hội.
Bên cạnh những phân tích về nội dung của mô hình trên, nó cũng được đông
đảo học giả đưa ra rất nhiều đánh giá tích cực:
- Có tính toàn diện và khả thi cao. Mô hình này có thể được áp dụng trong việc
xây dựng khuôn khổ chính sách về CSR của nhà nước.
- Việc đặt trách nhiệm kinh tế làm nền tảng đã làm thỏa mãn nhu cầu về lý thuyết

đại diện trong quản trị doanh nghiệp. Đồng thời, việc làm này còn giúp xóa đi những
hoài nghi về tính trung thực trong những chương trình CSR của doanh nghiệp. Cũng
vì vậy, nó xóa đi ranh giới của việc thực hiện CSR là “vì mình” hay “vì người”,
khiến hai mục đích này là không thể tách rời.
21

- Ranh giới giữa các tầng của kim tự tháp luôn chồng lấn lên nhau, không thể tách
rời và tác động lần nhau.
- Làm rõ mối quan hệ giữa công việc từ thiện và trách nhiệm xã hội. Một cách
hình tượng, có thể nói rằng từ thiện chỉ là bề nổi của tảng bang chìm CSR mà thôi.
- Việc cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia trong việc thực hiện các chuẩn mực
CSR được đề cập tới như một nội dụng then chốt của quản trị doanh nghiệp.
1.2. Lợi ích của CSR với doanh nghiệp.
Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu về quản lý Ashridge, cứ 10 nhà quản
lý điều hành cấp cao thì có đến 9 người tin rằng CSR là rất quan trọng với các hoạt
động kinh doanh của công ty. Hơn 3/4 các nhà quản lý cho rằng công ty cần hoạt
động theo những phương thức có trách nhiệm với xã hội và cộng đồng
3
.
Nhóm tác giả chia lợi ích của CSR với doanh nghiệp theo hai tiêu chí chính. Đó
là lợi ích tài chính và lợi ích phi tài chính. Sau đây là những phân tích kỹ hơn về lợi
ích của CSR đối với doanh nghiệp.
1.2.1. Lợi ích về tài chính.
 Giảm chi phí sản xuất
Với việc áp dụng CSR, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng các công ty có thể tiết
kiệm đáng kể chi phí. Thông thường những công nghệ hiện đại hơn, sạch hơn luôn
đi kèm với đó là giá thành đầu vào cũng rất thấp. Công ty sản xuất gốm sứ Giang
tây, Trung quốc, khi lắp đặt công nghệ mới thân thiện với môi trường đã tiết kiệm
gần 10 triệu USD mỗi năm, với kết quả giảm 6% lượng nước sử dụng, 65% lượng
chất thải nước và 74% chất thải khí

4
.


3

4

22

Một ví dụ khác đến từ tập đoàn PepsiCo với dự án hỗ trợ và thu mua ngô ở San
Gabriel, Mexico. Khoảng hơn 300 hộ nông dân nghèo ở đây không còn phải bán ngô
thông qua trung gian nữa mà bán trực tiếp sản phẩm cho tập đoàn Pepsi. Pepsi đảm
bảo thu mua với cùng một giá mà họ chi trả cho nông dân ở vụ mùa trước. Ngoài ra
họ còn hỗ trợ nông dân về tài chính để mua hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu và
các thiết bị phục vụ mùa màng. Dự án ngô này đã giúp Pepsi tiết kiệm được chi phí
vận chuyển vì các trang trại gần 2 nhà máy của họ. Hơn nữa việc sử dụng các trang
trại địa phương là sự đảm bảo tốt nhất cho chất lượng sản phẩm của Pepsi. “Điều
này đã mang đến cho chúng tôi tác động đòn bẩy tuyệt vời bởi vì giá ngô không biến
động nhiều nhưng giá vận chuyển thì tăng lên liên tục”, Ông Pedro Padierna, Chủ
tịch của PepsiCo ở Mexico, Trung Mỹ và vùng Caribbean cho biết. Rõ ràng khi
thực hiện các chiến lược CSR, PepsiCo không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc
sống của người nông dân ở San Gabriel mà đã giúp chính mình cắt giảm chi phí sản
xuất.

Biểu đồ 2: Động lƣợng CSR
(Nguồn: IBM Institute for Business Valuve)

×