Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nghề thêu ren An Hòa, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam (1986-2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 102 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN









TRẦN THỊ HƢỜNG










NGHỀ THÊU REN AN HÒA
HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM
(1986 - 2010)






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam








Hà Nội – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







TRẦN THỊ HƢỜNG









NGHỀ THÊU REN AN HÒA
HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM
(1986 - 2010)



LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trƣơng Thị Tiến






Hà Nội – 2014

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân,
tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ các đơn vị và cá nhân. Tôi xin ghi
nhận và bày tỏ lòng biết ơn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng đến cô giáo PGS. TS
Trương Thị Tiến, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu từ việc lựa chọn đề tài, các phương pháp tiếp cận đề tài, tiếp

xúc với các nguồn tư liệu cho đến khi tôi hoàn chỉnh bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy, cô trong khoa Lịch sử.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các bác, chú thuộc
các phòng ban sở Công Thương, sở TN & MT tỉnh Hà Nam, sở Công
Nghiệp, phòng Thống kê huyện Thanh Liêm, ban Thống kê và UBND xã
Thanh Hà đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc cung cấp tư liệu quý báu để
tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến bác, chú, anh, chị, các nghệ
nghệ nhân ở làng nghề thêu ren An Hòa đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện
đề tài này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến gia đình, bạn bè
và những người thân đã luôn cổ vũ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện luận văn.
Hà Nội, ngày 24 tháng 09 năm 2014
Tác giả luận văn
Trần Thị Hƣờng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS. TS Trương Thị Tiến.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khoa
học dựa vào kết quả khảo sát thực tế, các tài liệu được xử lý rõ ràng.

Học viên thực hiện

Trần Thị Hƣờng

1


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
MỞ ĐẦU 5
Chương 1: NGHỀ THÊU REN AN HÒA ĐẦU NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI
(1986- 1995) 13
1.1 Khái quát về nghề thêu ren An Hòa trước đổi mới 13
1.1.1 Khái quát về làng An Hòa 15
1.1.2 Sự hình thành và tồn tại của nghề thêu ren An Hòa trước năm 18
1.2 Sự thăng trầm của nghề trong những năm 1986 - 1995 21
1.2.1 Hình thức tổ chức sản xuất 22
2.1.2 Hoạt động sản xuất 24
2.1.3 Lao động tham gia làm nghề thêu ren 29
2.1.4 Vốn và thị trường tiêu thụ 30
Tiểu kết chương 1 31
Chương 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỀ THÊU REN AN HÒA TRONG
NHỮNG NĂM 1996- 2010 33
2.1 Những nhân tố thuận lợi mới cho sự phát triển nghề 33
2.2 Sự phát triển của nghề thêu ren An Hòa trong cơ chế mới 37
2.2.1 Hình thức tổ chức sản xuất 37
2.2.2 Hoạt động sản xuất 43
2

2.2.3 Lao động tham gia làm nghề thêu ren 49
2.2.4 Về nguồn vốn và thị trường tiêu thụ 54
Tiểu kết chương 2: 62
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN63
3.1 Một số nhận xét đánh giá 63

3.1.1 Đặc điểm chính của nghề thêu ren làng An Hòa 63
3.1.2 Những thay đổi chính của nghề thêu ren làng An Hòa trong cơ
chế mới 64
3.1.3 Vai trò của nghề thêu ren đối với sự phát triển của làng An Hòa 67
3.2 Một số khó khăn và kiến nghị giải pháp 75
3.2.1 Một số khó khăn 75
3.2.2 Kiến nghị giải pháp để phát triển nghề thêu ren 81
Tiểu kết chương 3: 85
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC 94
3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
CNH - HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CN - TTCN : Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
GTSX : Giá trị sản xuất
HTX : Hợp tác xã
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
4

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Kết quả sản xuất kinh doanh bình quân của 1 hộ năm 2010 38

Bảng 2.2: Số lượng các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng 40
Bảng 2.3: Hoạt động sản xuất của một số cơ sở ở làng nghề thêu ren 44
An Hòa 44
Bảng 2.4: Tình hình sử dụng lao động trong các cơ sở sản xuất hàng thêu
ren ở An Hòa năm 2010 51
Bảng 2.5: Thu nhập của người lao động trong những năm 2007- 2010 52
Bảng 2.6: Chất lượng lao động làng nghề thêu ren An Hòa năm 2010 53
Bảng 2.7 : Tình hình huy động vốn của 1 hộ điều tra năm 2010 55
Bảng 2.8: Thứ tự xuất khẩu hàng thêu ren theo thị phần năm 2010 58
Bảng 2.9: Kim ngạch xuất khẩu hàng thêu ren An Hòa theo nước/khu vực
năm 2010 59
Bảng 3.10: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế làng nghề An Hòa năm 71
2007 – 2010 71






5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, vấn đề bảo tồn các giá trị văn
hóa của mỗi địa phương, mỗi quốc gia, dân tộc đang là một vấn đề thời sự.
Trong đó, vấn đề làng nghề và nghề thủ công truyền thống đang trở thành mối
quan tâm không chỉ của ngành bảo tồn bảo tàng mà còn của nhiều lĩnh vực
văn hóa khác. Làng nghề thêu ren An Hòa của xã Thanh Hà, huyện Thanh
Liêm, tỉnh Hà Nam là một trong những làng nghề truyền thống như vậy.
Nói đến Hà Nam hẳn ai trong chúng ta cũng biết đến một địa danh gắn

liền với những di chỉ khảo cổ như trống đồng Ngọc Lũ, Lễ hội tịch điền hay
những danh nhân đã từng vang danh một thời như Tam nguyên Yên đổ
Nguyễn Khuyến, nhà văn Nam Cao… Nhưng có lẽ ít ai biết đến nơi đây còn
là mảnh đất có nhiều nghề thủ công truyền thống như nghề thêu ren, nghề làm
trống Đọi Tam, nghề gốm Quyết Thành…. Lịch sử các nghề thủ công truyền
thống cho thấy có được nghề thì dễ nhưng để duy trì và phát triển nghề thì
không dễ chút nào. Hiện nay, có những nghề thủ công truyền thống từng tồn
tại cả mấy trăm năm cũng đang đứng trước nguy cơ bị mai một bởi những lý
do như: thiếu vốn đầu tư, thiếu quy hoạch, xã hội càng hiện đại thì càng thờ ơ
với những sản phẩm thủ công, người dân ưa chuộng dùng hàng ngoại, cho đồ
ngoại là hàng tốt nên dần coi nhẹ những thứ vốn gần gũi thân thiện với mình;
Còn người trong nghề thì dù có tâm huyết, yêu nghề đến mấy cũng vẫn phải
lo cơm áo cho nên khi gặp khó khăn dễ lung lay, chuyển nghề để tìm kế sinh
nhai khi không tự mò mẫm tìm được đầu ra cho sản phẩm của mình.
Nghề thêu ren ở làng An Hòa xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà
Nam đã trở thành nghề truyền thống với lịch sử hơn 100 năm. Sự hình thành
của nghề thêu ren ở An Hòa có vai trò rất quan trọng không những giải quyết
6

việc làm, tăng thu nhập cho người dân mà còn đóng góp giá trị kinh tế không
nhỏ cho địa phương, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng
nông thôn mới. Từ khi hình thành cho đến nay, nghề thêu ren đã trải qua
nhiều nấc thăng trầm gắn liền với những biến động của lịch sử có lúc tưởng
chừng như người dân phải bỏ nghề, mất nghề. Nhưng nhờ lòng yêu nghề,
quyết tâm giữ nghề truyền thống của những người thợ thêu An Hòa cùng
với sự quan tâm của các cấp chính quyền nên từ năm 1996 đến năm 2010
nghề thêu ren không những được khôi phục mà còn ngày càng phát triển
hơn trước.
Tồn tại hơn 100 năm trên mảnh đất này, nghề thêu ren có lúc thịnh lúc

suy, nhưng dù thịnh hay suy, ở An Hòa không bao giờ vắng bóng những
người thợ miệt mài bên khung thêu. Tuy nhiên cũng như bao nghề thủ công
truyền thống khác, nghề thêu ren ở An Hòa cũng đang đứng trước những
thách thức mới như trình độ kỹ thuật chưa cao, chất lượng sản phẩm còn hạn
chế, thiếu vốn, thị trường tiêu thụ ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn.
Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử nghề, đánh giá thực trạng của nghề
đồng thời đưa ra một số giải pháp phát triển nghề là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng. Do đó, tôi chọn đề tài: “Nghề thêu ren An Hòa, huyện Thanh Liêm, tỉnh
Hà Nam 1986- 2010” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình,
với mong muốn muốn tìm hiểu về nghề thêu ren truyền thống dưới góc độ của
khoa học lịch sử về sự hình thành, những thăng trầm của nghề thông qua hoạt
động sản xuất, đề xuất một số giải pháp để phát triển nghề thêu ren trong
những giai đoạn tiếp theo. Đồng thời, góp một tiếng nói đồng thuận với người
dân làm nghề, qua đó để mọi người biết trân trọng những giá trị mà nghề thêu
7

đem lại cũng như mức quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa của các cấp chính
quyền tạo động lực cho nghề thêu ren phát triển xứng với tiềm năng của nghề.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề
tiểu thủ công nghiệp nông thôn, phát triển các làng nghề Việt Nam ở nhiều
khía cạnh khác nhau như:
Luận án tiến sĩ của tác giả Mai Thế Hởn với đề tài: “Phát triển làng
nghề truyền thống trong quá trình CNH- HĐH vùng ven đô”, năm 2000. Luận
án tiến sĩ của tác giả Trần Minh Yến với đề tài: “Phát triển làng nghề truyền
thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH - HĐH” năm 2003.
Nghề thêu nói riêng cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới
trong các tác phẩm, bài viết của mình. Trước hết phải kể đến cuốn “Làng
nghề thủ công truyền thống”, năm 2001 của Thạc sĩ Bùi Văn Vượng. Trong
tác phẩm này, tác giả Bùi Văn Vượng đã đề cập đến nhiều nghề thủ công nổi

tiếng như nghề dệt tơ vải, thổ cẩm, nghề gốm, nghề quạt giấy, nghề mây tre
đan, nghề làm trống… Trong đó có cả nghề thêu với một số làng nghề nổi
tiếng như làng thêu Quất Động, làng thêu Xuân Nẻo, làng thêu Văn Lâm. Do
nói về nhiều nghề thủ công, trong mỗi nghề thủ công lại có các làng nghề
khác nhau, nên với nghề thêu tác giả chưa đi sâu nghiên cứu về kĩ thuật thêu
cũng như nghệ thuật thêu mà chỉ tập trung tôn vinh nghệ nhân và làng nghề.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu và bài viết đã có những cách
tiếp cận khác nhau về việc bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống ở
Việt Nam nói chung. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về việc phát
triển làng nghề cũng như các nghề thủ công truyền thống ở Hà Nam dưới góc
độ của khoa học lịch sử. Nghề thêu ren An Hòa mặc dù có lịch sử hàng trăm
năm, thế nhưng sự quan tâm cũng như việc đầu tư đi sâu nghiên cứu của các
8

nhà khoa học thì hầu như chưa có. Có chăng chỉ là những bài viết mang tính
giới thiệu và quảng bá về nghề và làng nghề mà thôi. Ở tác phẩm “Làng nghề
Hà Nam tiềm năng và triển vọng”, do Nxb Văn hóa thông tin xuất bản năm
2004, các tác giả đã có những nghiên cứu tổng quan về làng nghề thêu An
Hòa từ lịch sử nghề đến thị trường tiêu thụ và cả những đóng góp của nghề
cùng hướng phát triển trong giai đoạn sau. Tuy nhiên lại không đề cập đến
thực trạng nghề thêu ren An Hòa qua những giai đoạn lịch sử cụ thể cũng như
những giải pháp cụ thể để phát triển nghề.
Trong vài năm gần đây cũng có những khóa luận, luận văn tốt nghiệp
của các bạn trẻ về làng nghề thêu ren An Hòa như:
Nguyễn Thị Hải với đề tài: “Hiện trạng sản xuất và vấn đề thị trường
tiêu thụ của làng nghề thêu ren xã Thanh Hà”, khóa luận tốt nghiệp Khoa
Địa Lý Trường ĐHSP Hà Nội.
Tác giả của khóa luận tiếp cận làng nghề trên phương diện địa lý, tập
trung đi sâu nghiên cứu về hiện trạng sản xuất và thị trường tiêu thụ của các
làng nghề thêu ren xã Thanh Hà từ đó đưa ra những giải pháp để phát triển

làng nghề. Trong luận văn này, tác giả tìm hiểu các làng nghề thêu ren của cả
xã Thanh Hà, trên cơ sở đó lấy hai làng có nghề thêu ren phát triển nhất là An
Hòa và Hòa Ngãi làm điển hình.
Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập nhiều đến sự hình thành cũng như quá
trình phát triển, sự thăng trầm của nghề thêu ren trong những giai đoạn lịch sử
cụ thể mà chỉ tập trung tìm hiểu về hiện trạng sản xuất và thị trường tiêu thụ
của nghề thêu ren của 7 làng làm nghề thêu ren thuộc xã Thanh Hà trong
khoảng thời gian từ những năm 1990 - 1998.
Phạm văn Thành, với đề tài: “Hiện trạng môi trường làng nghề thêu
ren An Hòa, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và một số giải
9

pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường”, Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội.
Trong luận văn của mình, tác giả Phạm Văn Thành đã trình bày sơ lược
về lịch sử của làng nghề thêu ren An Hòa với những điều kiện thuận lợi về
dân cư, kinh tế xã hội. Cũng giống như khóa luận của tác giả Nguyễn Thị Hải,
luận văn này trên cơ sở trình bày khái quát về hiện trạng sản xuất của làng
nghề thêu ren làng An Hòa của xã Thanh Hà. Từ đó, tác giả đi sâu vào nghiên
cứu vấn đề ô nhiễm môi trường do quá trình sản xuất có những công đoạn
phát thải gây ô nhiễm môi trường làng nghề và trên cơ sở đó đề xuất những
giải pháp, kiến nghị để giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề.
Nhìn chung, các công trình, các đề tài nghiên cứu trực tiếp về làng nghề
thêu ren An Hòa thường tập trung ở một số vấn đề của làng nghề với các yếu
tố liên quan như: điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và hiện trạng sản xuất của
làng nghề, những giải pháp để phát triển làng nghề dưới góc độ kinh tế, địa lý,
môi trường. Cho đến nay, dưới góc độ khoa học lịch sử chưa có đề tài nào
nghiên cứu sâu về vấn đề “nghề” thêu ren truyền thống của làng An Hòa đặt
trong bối cảnh lịch sử đã có những thay đổi ra sao, phát triển hơn hay đang
dần mai một.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn nghiên là nghề thêu ren ở làng An
Hòa, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu về nghề và làng nghề thêu ren An Hòa có rất
nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ, tuy nhiên trong luận văn này chỉ tập trung
nghiên cứu về nghề thêu ren truyền thống với 4 nội dung chính là: hình thức tổ
10

chức sản xuất, hoạt động sản xuất, lao động tham gia làm nghề, nguồn vốn và thị
trường tiêu thụ.
- Địa bàn nghiên cứu là làng An Hòa thuộc xã Thanh Hà, huyện Thanh
Liêm, tỉnh Hà Nam.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 1986 - 2010.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở dựng lại một cách khái quát sự hình thành và tồn tại của
nghề thêu ren ở làng An Hòa trong thời kỳ truyền thống, luận văn tập trung
nghiên cứu những thăng trầm của nghề thêu ren trước những đòi hỏi khắc
nghiệt của cơ chế thị trường trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời nghiên cứu
những tác động của nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương,
trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp góp phần phát triển nghề thêu ren
An Hòa.
5. Nguồn tƣ liệu và Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn tư liệu
- Do yêu cầu mục đích và nhiệm vụ của đề tài tôi đã thu thập số liệu liên
quan đến đề tài tại các phòng ban của xã, huyện và tỉnh có liên quan như: Sở Công
Thương Hà Nam, Sở NN & PTNT Hà Nam, Cục thống kê tỉnh Hà Nam, phòng
thống kê huyện Thanh Liêm, ban Thống kê xã Thanh Hà .
- Tư liệu điều tra thực tế
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát phỏng vấn một số hộ, một số doanh

nghiệp, công ty tiêu biểu như:
DNTN Hoàng Điểm, Công ty TNHH An Phương, Công ty xuất nhập khẩu
thương mại Thành Nam, công ty TNHH Hưng Lâm…
11

Nhóm hộ gia đình: Nguyền Đình Cương, Phạm Sỹ Quyển.
Tổ hợp thêu ren xuất khẩu Thanh Hà, Tổ hợp thêu xuất khẩu Quang Hợp;
Xưởng thêu tay Hanh Hiền, Phạm Sỹ Chiểu, Dung Yên, Tân Mậu.
Nhóm người lao động: Công ty sản xuất gia công hàng xuất khẩu Đức Kiên,
Công ty TNHH Hưng Lâm, xưởng thêu Dung Yên…
- Để hoàn thành luận văn này ngoài việc tham khảo các loại sách thuộc về
chuyên ngành nghiên cứu văn hóa và các nghề thủ công khác thì những bài viết trên
các trang mạng điện tử cũng góp phần rất quan trọng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp logic tìm hiểu về sự ra đời của nghề thêu ren truyền thống ở làng An
Hòa cũng như tình hình hoạt động sản xuất của nó ra sao trong từng bối cảnh lịch sử
cụ thể. Từ đó, xác định những thuận lợi cũng như khó khăn và đưa ra một vài giải
pháp để phát triển nghề thêu ren trong những giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, thì phương pháp điền dã, quan sát, ghi chép, miêu tả cũng được
sử dụng để đảm bảo cho luận văn đạt kết quả khách quan nhất.
6. Đóng góp của đề tài
- Luận văn đã khái quát được quá trình hình thành và tồn tại của nghề thêu
ren An Hòa trước đổi mới. Trên cơ sở đó, tập trung trình bày và phân tích
những bước thăng trầm của nghề trong thời kỳ đổi mới (1986- 2010). Đồng thời
nêu lên vai trò của nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
những khó khăn và kiến nghị một số giải pháp để phát triển nghề.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học cho công tác quản lý và xây dựng chiến lược phát triển nghề, làng nghề
12


truyền thống ở địa phương, là tài liệu tham khảo cho những công trình
nghiên cứu về nghề, làng nghề truyền thống.
- Qua đề tài này học viên sẽ tích lũy thêm được nhiều kiến thức về
nghề, làng nghề và những tác động của nó đến đời sống kinh tế xã hội ở
nông thôn, bồi đắp thêm tình yêu quê hương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo luận
văn của tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Nghề thêu ren An Hòa đầu những năm đổi mới (1986- 1995)
Chương 2: Sự phát triển của nghề thêu ren An Hòa trong những năm 1996-2010
Chương 3: Một số nhận xét về nghề thêu ren An Hòa và kiến nghị giải pháp
13

Chƣơng 1
NGHỀ THÊU REN AN HÒA ĐẦU NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI (1986- 1995)
1.1 Khái quát về nghề thêu ren An Hòa trƣớc đổi mới
Một số khái niệm về nghề và làng nghề truyền thống
Khái niệm làng nghề truyền thống
Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng thì làng nghề truyền thống là làng cổ
truyền làm nghề thủ công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng
thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề
nông (nông dân). Nhưng yêu cầu chuyên môn hoá cao đã tạo ra những người thợ
chuyên sản xuất hàng nghề truyền thống ngay tại làng quê của mình… [39, tr.13]
Làng nghề truyền thống là làng nghề có lịch sử hình thành và phát triển lâu
đời, sản phẩm có tính truyền thống, có uy tín trên thị trường, có giá trị kinh tế và
văn hóa cao. [13, tr.28]
Như vậy, có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về làng nghề truyền
thống như sau: làng nghề truyền thống là những làng (thôn) có một hay nhiều nghề
thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và

đem lại nguồn thu nhập chủ yếu. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này
sang đời khác, thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các làng
nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản
xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm
làm ra có tính mỹ nghệ và trở thành hàng hóa trên thị trường. [11, tr.15]
Ở Hà Nam, để được công nhận là làng nghề truyền thống thì phải đảm bảo
các điều kiện sau:
14

- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, các quy định của địa phương.
- Số lao động của làng làm nghề truyền thống có ít nhất 30% tổng số lao
động của làng.
- Giá trị sản xuất của làng nghề chiếm tỷ trọng trên 50% so với tổng giá trị
sản xuất của làng. [13, tr.28]
Năm 2004, làng nghề thêu ren An Hòa đã được UBND Tỉnh Hà Nam công
nhận là làng nghề truyền thống theo quyết định số 208/QĐ- UB ngày 09/02/2004
với các tiêu chí như: hoạt động sản xuất nghề thêu ren có lịch sử hình thành và phát
triển hơn 100 năm (1893). Số lao động tham gia làm nghề thêu ren của làng An
Hòa chiếm 95% và trên 90% số hộ trong làng. Giá trị sản xuất của làng nghề chiếm
tỷ trọng trên 70% so với tổng giá trị sản xuất hàng hóa của làng. Làng An Hòa luôn
chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, các quyết định, sự chỉ đạo của địa phương.
Khái niệm nghề truyền thống
Nghề thủ công ra đời từ thưở bình minh của lịch sử loài người, khi mà con
người có nhu cầu về ăn, mặc, ở và những vật dụng cho cuộc sống. Từ thưở ban đầu
ấy, tất cả vật dụng đều đơn giản, thô sơ. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nghề thủ
công vẫn trường tồn cùng lịch sử dân tộc và tiếp tục phát triển cả về sau này. Nghề
thủ công có nhiều tên gọi khác như: nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề phụ,

nghề tiểu thủ công nghiệp… bao gồm rất nhiều nghề: chạm khắc gỗ, làm bánh dày,
làm mây tre đan, làm nón, khảm trai, dệt lụa, thêu, kim hoàn, làm quạt giấy….
Theo Thông tư số 116/2006 TT- BNN trong phần giải thích từ ngữ thì: Nghề
truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo,
có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ mai
15

một, thất truyền. Để trở thành một nghề thủ công truyền thống cần có những tiêu
chí sau: nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm, nghề tạo ra những sản
phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc, nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ
nhân hoặc tên tuổi làng nghề.
Nghề thêu ren ở An Hòa được coi là nghề thủ công truyền thống với đầy đủ
các tiêu chí của một nghề truyền thống như: có lịch sử hình thành và phát triển hơn
100 năm (nghề đã xuất hiện tại địa phương từ năm 1893), sản xuất tập trung không
chỉ tạo thành làng nghề mà còn hình thành xã nghề, nghề gắn với tên tuổi của nhiều
nghệ nhân và tên tuổi làng nghề; sản phẩm tiêu biểu và độc đáo mang bản sắc văn
hóa dân tộc; là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng, có đóng
góp đáng kể vào ngân sách địa phương.
Cũng giống như bao làng nghề truyền thống ở Việt Nam, nghề thêu ren An
Hòa gắn liền với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương.
1.1.1 Khái quát về làng An Hòa
Về điều kiện tự nhiên
Xã Thanh Hà là một xã đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng nằm ở vị
trí trung tâm huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, là địa bàn giáp ranh của 5 xã
và 1 thành phố.
- Phía Đông giáp xã Liêm Tiết và xã Liêm Cần
- Phía Nam giáp xã Thanh Phong và xã Thanh Lưu
- Phía Tây giáp xã Thanh Tuyền
- Phía Bắc giáp thành phố Phủ Lý
Thanh Hà nằm trong khu vực có địa hình thấp, trũng của huyện Thanh

Liêm, là xã đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng.
16

Làng nghề thêu ren An Hoà thuộc xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm,
tỉnh Hà Nam có vị trí địa lý khá thuận lợi trong việc lưu thông hàng hoá: nằm
gần trung tâm huyện Thanh Liêm, có đường Quốc lộ 1A và đường liên huyện
chạy dọc theo chiều dài xã, cách đường Quốc lộ 21A và thị xã Phủ Lý 3 km
về phía Nam (trung tâm tỉnh Hà Nam), cách thủ đô Hà Nội khoảng 63 km về
phía Nam. Vì vậy, có thể thấy An Hòa có nhiều lợi thế để phát triển sản xuất
và giao lưu trao đổi hàng hóa.
Khí hậu xã Thanh Hà nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên có
đầy đủ các đặc trưng của khí hậu vùng đồng bằng sông Hồng, đó là nhiệt đới
gió mùa và được chia làm 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ trung bình năm
là 24
0
C, nhiệt độ cao nhất lên đến 39,8
0
C. Chế độ mưa ở Thanh Hà thay đổi nhiều
trong năm, tổng lượng mưa trung bình trong năm là 1582mm, độ ẩm trung bình
năm khoảng 82,42%.
Đặc điểm khí hậu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhiều
loại cây trồng và trồng được nhiều vụ trong năm. Tuy nhiên, xã cũng gặp một
số khó khăn do độ ẩm không khí quá cao làm phát sinh nhiều loại sâu bệnh,
dịch bệnh.
Đất đai, địa hình thổ nhưỡng
Tổng diện tích đất tự nhiên là 127,28 ha, trong đó đất nông nghiệp là
85,67 ha, diện tích đất phi nông nghiệp là 41,61 ha (diện tích đất ở: 15,26 ha,
diện tích đất chuyên dùng: 22,54 ha ), diện tích nông nghiệp bình quân/đầu
người là 432m2. Tuy nhiên, hiện nay diện tích đất nông nghiệp có xu hướng
ngày càng giảm, nguyên nhân là do quá trình đô thị hóa chuyển mục đích đất

nông nghiệp sang đất chuyên dùng (trong khi đó dân số lại tăng ở mức cao
2%/năm). Nên lao động dư thừa từ nông nghiệp rất lớn và tăng nhanh, đó là
17

một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy sự phát triển của nghề thêu ren
truyền thống.
Điều kiện kinh tế - xã hội
An Hòa là một thôn đông dân, theo số liệu thống kê năm 2010 thì An
Hòa có 557 hộ gồm 2237 nhân khẩu, trong đó có 1.560 lao động. Phân bố dân
số tập trung theo 4 xóm, 100% số hộ trong làng theo đạo Phật. Tổng diện tích
canh tác là 85 ha, lao động nông nghiệp vẫn giữ tỷ trọng khá cao trong cơ cấu
lao động. Làng An Hòa có nghề truyền thống thêu ren xuất khẩu rất phát
triển, giải quyết được việc làm cho hàng ngàn lao động mỗi năm góp phần
nâng cao thu nhập cho người dân. Số hộ trong làng tham gia làm nghề thêu
ren chiếm tỷ lệ 96%, số hộ còn lại làm nghề mộc, nề, cơ khí, say sát, vận
chuyển, buôn bán dịch vụ thương mại, ăn uống giải khát
Qua bao thăng trầm, nhờ có nghề thêu ren phát triển mà An Hòa đã trở
thành làng có tổng thu ngân sách cao nhất xã Thanh Hà. Làng An Hoà là
trung tâm phát triển kinh tế của xã Thanh Hà, năm 2010 mức thu nhập
bình quân của người lao động làm thêu cao nhất xã 850.000
đồng/người/tháng, đạt 10,2 triệu đồng/người/năm. An Hòa được mệnh danh
là làng tỷ phú vì có nhiều người giàu lên nhờ sản xuất, kinh doanh hàng thêu
ren như ông Lê Công Kha, Nguyễn Xuân Thường, Lê Tiến Thăng…. An Hòa
là làng dẫn đầu trong toàn xã đặc biệt về xây dựng cơ sở hạ tầng tập thể và hộ
gia đình toàn diện, phong phú và có nhiều công trình lớn như đình An Hòa.
Chương trình xóa đói giảm nghèo đem lại hiệu quả tích cực, hộ khá và
giàu tăng lên, cơ bản xóa đói, phong trào xóa nhà tranh trong thôn đã hoàn
thành cách đây 10 năm, tỷ lệ hộ nghèo trong làng giảm xuống còn 3%. Tính
đến năm 2010, trong làng số hộ có nhà mái bằng chiếm tỷ lệ 56%, trong đó số
hộ có nhà 2 tầng trở lên là 15%. Số hộ dùng điện thoại cố định và di động

18

chiếm tỷ lệ 35%, trong thôn có 200 xe máy, 2 ô tô, 5 xe công nông, 100% số
hộ có ti vi và rađiô cát sét, trang thiết bị như giường tủ, salông, tủ lạnh, điều
hòa… hầu hết các hộ trong làng đều mua sắm đầy đủ. Hệ thống giao thông
nông thôn 100% được bê tông hóa; hệ thống công trình phúc lợi như nhà trẻ,
lớp mẫu giáo, nhà văn hóa, trường học đều được xây dựng mái bằng đủ tiêu
chuẩn của Bộ đại học và trung học quy định. Các năm đều được UBND tỉnh
công nhận là làng văn hóa.
Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước như
thuế, nghĩa vụ phúc lợi, công ích, công tác tuyển quân, phong trào xây dựng
quỹ tình nghĩa, người tàn tật, quỹ vì người nghèo, quỹ khuyến học và các
phong trào đoàn thể quần chúng đều dẫn đầu trong toàn xã.
1.1.2 Sự hình thành và tồn tại của nghề thêu ren An Hòa trước năm 1986
Sự hình thành của nghề
Thêu ren là một nghề thủ công có sớm ở nước ta và gắn bó với người
dân nhiều vùng miền. Cách đây hơn một thế kỉ (năm 1893), người dân An Hòa
sống lam lũ, khổ cực chỉ biết trông chờ vào mấy sào ruộng, quanh năm “bán
mặt cho đất bán lưng cho trời” mà vẫn không đủ ăn. Lúc bấy giờ trong làng
mật độ dân cư thưa thớt, đồng ruộng hoang hóa, nước ngập quanh năm, kinh
tế lạc hậu lại bị thiên tai diễn biến phức tạp, mất mùa liên tiếp; trong khi đó
địa chủ phong kiến bóc lột, vơ vét của người nông dân trong làng đến mức
cùng cực. Đại đa số dân trong làng cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhiều
người phải bỏ làng đi phiêu bạt khắp nơi để tìm kế sinh nhai. Nhưng từ khi
nghề thêu ren được truyền vào thì cuộc sống của họ ngày càng khá dần lên.
Được như vậy là nhờ vào công lớn của ông Nguyễn Đình Thản, người được
cả làng suy tôn là ông Tổ của nghề thêu ren ở An Hòa.
19

Có thể tóm tắt truyền thuyết về Ông tổ nghề thêu ren An Hòa như sau:

Ông Nguyễn Đình Thản sinh năm 1886, trong một gia đình thuần nông ở làng
An Hòa. Khi đất nước đang bị thực dân Pháp đô hộ, người dân phải chịu cảnh
sưu cao thuế nặng, cuộc sống hết sức cơ cực nên nhiều người đã phải bỏ làng
đi tha hương cầu thực. Vốn có lòng yêu thương con người, nhìn cảnh tượng
diễn ra ở làng mình ông Thản rất đau lòng. Năm 14 tuổi, ông đã khăn gói rời
làng ra đi với quyết tâm học lấy một cái nghề để về giúp cho người dân làng
mình có cuộc sống đỡ khó khăn hơn. Sau một thời gian lang thang, bôn ba
nhiều nơi cụ Thản đã chọn thôn Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây
cũ (nay là Hà Nội) là nơi dừng chân và tại nơi đây Cụ đã học được nghề thêu
của một gia đình với nhiều kiểu thêu khác nhau như thêu truyền thần, thêu
tranh, thêu hoa lá, thêu con giống
Sau một thời gian miệt mài học hỏi, có nghề trong tay, năm 1893 Cụ
trở về quê nhà và mở ngay một lớp dạy nghề do ông trực tiếp đào tạo.
Nhưng buổi đầu, do nghề quá mới mẻ nên người theo học chỉ có 5 - 6 người
mà toàn là những người trong dòng họ. Một thời gian sau, nhờ làm nghề
thêu mà cuộc sống của ông Thản và những người trong họ trở nên sung túc
hơn. Thấy vậy, người dân trong làng đến xin theo học ngày một đông, dần
dần nghề thêu ren đã lan rộng ra cả làng An Hòa. Từ đó, nghề thêu ren đã
được truyền dạy và mở rộng đến các thôn, làng khác trong xã và nhiều địa
phương khác của tỉnh.
Sự tồn tại của nghề thêu ren An Hòa trước năm 1986
Thực dân Pháp xâm lược đã biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ của
chúng, hàng hóa tư bản tràn ngập thị trường Việt Nam với giá rẻ, nhiều mẫu mã
nên hầu hết hàng thủ công của Việt Nam không cạnh tranh được. Nhiều nghề thủ
công đã bị phá sản (kéo sợi, tơ lụa, dệt vải…), nhiều thợ thủ công phải bỏ nghề.
20

Tuy vậy, một số nghề vẫn được duy trì vì máy móc tư bản không thay thế được
bàn tay tài hoa, khéo léo của người nghệ nhân. Nghề thêu là một trong số những
nghề có cơ hội để phát triển ngoài ý muốn của thực dân Pháp vì toàn bộ quy

trình tạo ra một sản phẩm đều dựa vào đôi bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ của
người thợ mà máy móc không thay thế được.
Khoảng những năm 1945 - 1950 số thợ làm nghề thêu ren ở làng An
Hòa có khoảng 50 - 60 thợ chính và một số thợ học việc, giai đoạn này đã
có một số thợ thêu có hướng ra Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố
phía Bắc để làm công ăn lương thêu thuê cho một số nhà tư sản như thêu
tranh, gối, đệm, thêu áo. Thời kỳ này, hàng thêu ren An Hòa đã bán được
cho khách Nhật, Pháp và một số nhà giàu trong nước sử dụng.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954) kế hoạch phục hồi kinh tế đạt
được rất nhiều thành tựu, phong trào tập thể hóa nông nghiệp trong nông thôn
lên cao. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 16 khóa II (11- 1958) là: phải đưa
thợ thủ công đi theo con đường hợp tác hóa và tổ chức những người lao động
tiểu TCN vào HTX. Trong nông thôn hình thức tổ chức hợp tác xã nông nghiệp
đã ra đời và nhiều hợp tác xã thủ công nghiệp cũng được thành lập trong đó có
hợp tác xã thêu. Chịu tác động chung bối cảnh lịch sử của đất nước, năm 1959
hợp tác xã thủ công nông nghiệp Thanh Hà được thành lập do đồng chí Nguyễn
Ngọc Dũng làm chủ nhiệm. Đến năm 1962, hợp tác xã thêu ren xã Thanh Hà ra
đời có ban quản trị, với 8 đội thêu (do đội trưởng quản lý) của các làng làm
nghề trong xã và thực hiện sản xuất theo dây truyền, các đội làm theo công
điểm. Làng An Hòa lúc đó có một đội thêu với tên gọi “đội thêu An Hòa” do
ông Nguyễn Đình Quyền (một nghệ nhân trong nghề thêu ren) làm đội trưởng,
trong đội thêu lại chia thành 3 tổ hợp nhỏ ở 3 xóm là xóm giữa, xóm ngoài và
xóm đình. Sản phẩm làm ra đã bán được cho khách Nhật, Pháp và một số nhà
21

giài sử dụng. Hàng thêu ren được tiêu thụ do hợp tác xã thu gom và nhập trực
tiếp cho Sở thương nghiệp tỉnh; đời sống người dân nhờ vậy mà tạm thời đi vào
ổn định. Thời kỳ này, những người làm thủ công ở nông thôn được tính nhân
khẩu nông nghiệp được Nhà nước giúp hướng dẫn kỹ thuật, cung cấp nguyên
liệu, tiêu thụ sản phẩm. Người thợ thêu làng An Hòa được Sở Thương nghiệp

tỉnh Hà Nam Ninh lúc đó hỗ trợ chung về kỹ thuật, nguyên liệu và đưa sản
phẩm ra thị trường.
Có thể thấy ngay từ những năm 1960 đến năm 1986, nghề thêu ren của
làng An Hòa đã có những phương hướng phát triển rõ ràng hơn. Nghề thêu
ren không còn giới hạn trong phạm vi của một làng nữa mà đã lan rộng ra cả
các làng khác trong xã, sản phẩm thêu ren không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu
dùng trong nước mà đã vươn ra sản xuất phục vụ cho xuất khẩu.
Sản phẩm làm ra đã được khách hàng các nước như: Pháp, Ý, Balan,
Liên Xô cũ và các nước Đông Âu rất ưa chuộng. Hình thức xuất khẩu sản
phẩm hàng thêu ren của An Hòa lúc này là các bạn hàng thông qua Bộ
Thương mại về làng đặt đơn hàng với nhiều mẫu mã, chủng loại, mỗi ngày
một lớn.
1.2 Sự thăng trầm của nghề trong những năm 1986 - 1995
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đã mở ra đường lối đổi mới đất nước
một cách toàn diện, đã có nhiều chủ trương, chính sách mới tác động đến
nông nghiệp- nông thôn nói chung và làng nghề nói riêng như: chủ trương
xóa bỏ nền kinh tế bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa được thực hiện đã đưa nền kinh tế nước ta sang
một giai đoạn.
Cơ chế quản lý mới đã tăng cường quyền tự chủ cho các hộ gia
đình, việc khẳng định sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế đã đem lại

×