Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Liên văn bản trong kịch Lưu Quang Vũ . Luận văn ThS. Văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 120 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN HỒNG YẾN



LIÊN VĂN BẢN
TRONG KỊCH LƢU QUANG VŨ


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học






Hà Nội - 2014


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN HỒNG YẾN


LIÊN VĂN BẢN
TRONG KỊCH LƢU QUANG VŨ


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học
Mã số: 60.220.120



Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Lý Hoài Thu





Hà Nội - 2014


3




LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn PGS.TS Lý Hoài Thu
cô giáo đã tận tâm giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình
hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa Văn học, đặc biệt là các thầy cô giáo trong chuyên
ngành Lý luận đã nhiệt tình giảng dạy, tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong thời gian học tập tại trường.
Xin gửi lời cảm ơn những người thân : Gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ tôi có được kết
quả này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Hồng Yến



4
MỤC LỤC
Trang
PHầN Mở ĐầU 5
1. Lí do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 8
3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu 13
4. Phương pháp nghiên cứu 13
5. Cấu trúc của luận văn 15
Chương 1: KHÁI LƢỢC VỀ LÍ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN VÀ

HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KỊCH CỦA LƢU QUANG VŨ 16
1.1 Khái lược chung về lí thuyết liên văn bản 16
1.2 Hành trình sáng tác kịch của Lưu Quang Vũ 24
Chương 2: LIÊN VĂN BẢN QUA HỆ THỐNG
ĐỀ TÀI, CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT 38
2.1 Liên văn bản qua đề tài 38
2.2 Liên văn bản qua cốt truyện 51
2.3 Liên văn bản qua hệ thống nhân vật 66
Chương 3: LIÊN VĂN BẢN QUA HÌNH THỨC DIỄN NGÔN 84
3.1 Diễn ngôn đối thoại 84
3.2 Diễn ngôn độc thoại. 97
3.3 Diễn ngôn bàng thoại 109
KếT LUậN 113
TÀI LIệU THAM KHảO 113


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Thế kỉ XX được xem là thế kỉ của lí thuyết văn học với sự ra đời và
phát triển của nhiều trường phái lí thuyết hiện đại phương Tây như chủ nghĩa
cấu trúc, giải cấu trúc, hậu hiện đại. Các trường phái lý thuyết vừa có sự tiếp
biến, ảnh hưởng vừa phủ nhận nhau đã tạo cho đời sống văn học sự đa dạng và
phức tạp. Đầu thế kỉ XX, khái niệm về văn bản được phát hiện đã làm thay đổi
quan niệm về tác phẩm văn học, cấu trúc tác phẩm, về vị trí của tác giả. Nửa
cuối thế kỉ XX, khái niệm tính liên văn bản (interxtuality) gắn với tên tuổi nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học người Thụy Sĩ F.Saussure, nhà thi pháp học Nga
Bakhtin, đặc biệt là nhà triết học, nữ quyền luận, nhà tiểu thuyết Pháp gốc
Bulgari Kritteva đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới. Thuyết liên văn bản của Kritteva, Bakhtin, Barthes, Genette, Riffatee,

Bloom, đều có nhận thức chung rằng bất kì văn bản nào đều có mối quan hệ với
văn bản khác ra đời trước đó. Mối quan hệ liên văn bản dựa trên sự kết nối các
văn bản với nhau bằng các phương thức trích dẫn, mô phỏng, chuyển thể, pha
trộn, nhái, nhại, đạo văn. Thuật ngữ “liên văn bản” dùng để mô tả mỗi văn bản
đều chứa đựng sự tham chiếu của các văn bản khác, qua đó mà chúng nảy sinh
nhiều ý nghĩa mới mẻ. Liên văn bản có thể là vô thức, có thể được tác giả nhận
thức trong quá trình sáng tác, được người đọc nhận thức trong thực tiễn, bởi vậy
mà các giá trị văn hóa không ngừng phát triển. Nghiên cứu tác giả, tác phẩm từ
góc độ liên văn bản đang thu hút giới nghiên cứu phê bình văn học đương đại
không chỉ trên thế giới mà còn được chú ý ở Việt Nam trong những năm gần
đây. Tiếp cận văn bản tác phẩm từ lí thuyết liên văn bản đã mở ra một hướng
tiếp cận mới, nó kích thích quá trình tìm hiểu khoa học và khám phá thế giới văn
hóa của người đọc, từ đó mở ra tầng vỉa giá trị mới cho tác phẩm văn chương.

6
1.2 Lưu Quang Vũ là một tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XX. Không kể đến sáng tác thơ và văn xuôi, nếu chỉ tính riêng
về sáng tác kịch thì ông là một tên tuổi hàng đầu của kịch trường Việt Nam
những năm tám mươi của thế kỉ XX. Với số lượng tác phẩm (53 vở kịch trong
vòng mười năm sáng tác), Lưu Quang Vũ đã để lại một dấu ấn đặc biệt gây chú
ý trong diễn đàn văn học. Sau hàng loạt các vở diễn gây tiếng vang như Nàng
Sita, Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Lời thề thứ 9, Nguồn
sáng trong đời, đã có rất nhiều ý kiến đánh giá về tài năng sáng tạo của Lưu
Quang Vũ, nhiều ý kiến cho rằng ông là “nhà viết kịch xuất sắc của thời kỳ hiện
đại”. Nhà nghiêu cứu Phan Ngọc nhận xét: “Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn
nhất của thế kỉ này của Việt Nam và là một nhà văn hóa” và “có một kịch pháp
Lưu Quang Vũ mà cả Đông Nam Á có thể tiếp thu”. Với Ngô Thảo thì Lưu
Quang Vũ là “một đỉnh cao” và là một trong tác giả hàng đầu của sân khấu Việt
Nam thập niên tám mươi của thế kỉ XX. Nhìn từ góc độ tài năng tỏa sáng, nhà
phê bình Lý Hoài Thu nhận ra “Lưu Quang Vũ đã mang đến cho đời sống sân

khấu một cuộc phục sinh mạnh mẽ”. Nhận xét đó đã được kiểm chứng qua thời
gian, và cho đến nay kể từ sau sự ra đi đột ngột của nhà viết kịch thiên tài thì sân
khấu Việt Nam lại rơi vào tình trạng thiếu kịch bản hay. Nhìn vào thực tế có thể
thấy rằng chưa có một tác giả viết kịch bản nào có thể thay thế được vị trí của
nhà văn Lưu Quang Vũ. Ông là một tác giả có công lao đóng góp lớn cho một
thập niên sân khấu có nhiều thành tựu đặc sắc. Các vở kịch của ông góp phần
nâng cao chất lượng sân khấu cả nước vào thời kì xã hội nhiều biến động và
đang còn chồng chất khó khăn. Những vở kịch của Lưu Quang Vũ khi được
trình diễn đã đem đến cho đời sống tinh thần văn hóa của nhân dân cả nước một
bầu không khí phấn chấn, tin tưởng, cởi mở, dân chủ. Theo Lưu Khánh Thơ
“trong lịch sử sân khấu nước ta, thời kì của Lưu Quang Vũ có lẽ là thời kì sôi
động, giàu sức sống nhất, thu hút đông đảo người xem nhất”. Nét độc đáo trong
kịch của Lưu Quang Vũ là “đã làm thay đổi tư duy của người biểu diễn cũng

7
như của công chúng”. Lưu Quang Vũ, một nhà văn có tầm ảnh hưởng rộng lớn
đối với diện mạo văn học và đối với công chúng không chỉ hôm nay mà chắc
chắn cả mai sau, tầm đón đợi các vở kịch của Lưu Quang Vũ sẽ còn có sức lan
tỏa mạnh mẽ và mãnh liệt qua chiều kích của thời gian.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ là cây bút tiêu biểu có nhiều đóng góp lớn
cho nền sân khấu Việt Nam. Ông là một nhà văn có ý thức sử dụng liên văn
bản trong các sáng tác của mình. Các vở kịch của ông chịu ảnh hưởng từ nhiều
nguồn khác nhau như lịch sử, huyền thoại, triết học, báo chí, khoa học…Tất cả
đã trở thành chất liệu văn chương và nguồn sáng tạo trong các vở kịch của Lưu
Quang Vũ. Hơn nữa với sự nỗ lực của nhà văn trong quá trình sáng tác là tiếp
tục tinh thần phê phán, khơi sâu các vấn đề xã hội, thế sự, đời tư, Lưu Quang
Vũ đã phát hiện những mặt trái của của nhân sinh xã hội với tinh thần tự vấn,
phản biện đối thoại với tinh thần dân chủ cởi mở. Nhà văn luôn khát khao thay
đổi, vươn tới giá trị sống cao đẹp của con người, luôn hướng tới sự hòa nhập
với thế giới hiện đại và tinh thần dân chủ thực sự. Chính bởi lẽ đó mà các sáng

tác của ông mang tư tưởng cách tân mới mẻ, táo bạo, nhận được nhiều sự chú ý
của các nhà nghiên cứu và sự hưởng ứng của độc giả, đặc biệt là khán giả xem
kịch của ông.
1.3 Sức lan tỏa từ những vở kịch và vị trí xuất sắc của Lưu Quang Vũ
trong nền văn học Việt Nam đã trở thành lí do xứng đáng để các nhà nghiên cứu
và các nhà giáo dục lựa chọn đưa tác phẩm của ông vào trong chương trình
giảng dạy phổ thông kể từ năm 2000. Với trích đoạn của hai vở kịch Tôi và
chúng ta; Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã được giới thiệu là
nhà văn tiêu biểu cho thể loại kịch nói hiện đại Việt Nam. Việc chọn lựa các
trích đoạn kịch của Lưu Quang Vũ giới thiệu trong chương trình phổ thông cùng
với tác giả Nguyễn Huy Tưởng với hai trích đoạn trong vở kịch Bắc Sơn và Vũ
Như Tô đã khẳng định tầm ảnh hưởng của các vở kịch đối với thế hệ trẻ. Lưu
Quang Vũ được giới thiệu ở chương trình phổ thông bởi các vở kịch của ông

8
vừa chứa đựng những tư tưởng mới mẻ, hiện đại, tiến bộ vừa bảo lưu những giá
trị truyền thống nhân văn cao đẹp, đạo đức cốt tử làm người, những khát vọng
chân chính là nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp vì cuộc sống của con
người. Những giá trị đó cần được thế hệ trẻ mà đặc biệt là học sinh tiếp nhận
như một bài học quý giá về giá trị sống đích thực của con người trong xã hội
hiện đại. Việc đưa một tác giả kịch bản vào trong chương trình phổ thông một
lần nữa thể hiện sự đánh giá cao vị trí và vai trò của nhà văn Lưu Quang Vũ-
một nhà văn tiên phong của thời kì đổi mới đã gặt hái được nhiều thành tựu ở
thể loại kịch và có những đóng góp xuất sắc cho diện mạo của văn học Việt
Nam những năm tám mươi của thế kỉ XX.
Với những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Liên văn bản trong
kịch của Lưu Quang Vũ” cho luận văn thạc sĩ của mình. Có thể nói đây là một
hướng đi vừa là khám phá cũng vừa là một thử nghiệm khi dùng lí thuyết liên
văn bản tiếp cận một tác giả kịch lớn trong văn học Việt Nam. Cảm hứng đến
với đề tài này hy vọng sẽ đem đến cho chúng tôi những phát hiện mới có ý

nghĩa nhân văn, ý nghĩa xã hội qua một số vở kịch tiêu biểu của nhà viết kịch
tài năng Lưu Quang Vũ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Những công trình đánh giá về thơ Lƣu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ là tác giả xuất hiện trên diễn đàn văn chương sớm với tập
thơ Hương cây - Bếp lửa in chung với Bằng Việt năm 1968. Tập thơ ngay khi
mới ra đời đã thu hút sự chú ý của các nhà phê bình. Hoài Thanh đã nhận định
về Lưu Quang Vũ là “Một cây bút trẻ đầy triển vọng”, thơ của ông “là tiếng nói
nhỏ nhẹ mà sâu” tình cảm trong thơ là “đúng”, ông được đánh giá “là một ngòi
bút thông minh” có rất nhiều ưu điểm và có nhiều triển vọng. Nhà nghiên cứu Lê
Đình Kỵ nhận xét tập thơ Hương cây- Bếp lửa : “Thơ Lưu Quang Vũ có một
điệu tâm hồn riêng và không thiếu tâm tình, một tâm tình sâu sắc tự nhiên không
dứt ra được” [40,tr.73]. Nhà phê bình Lý Hoài Thu nhận ra vẻ độc đáo của tập

9
thơ Hương cây - Bếp lửa “không cao giọng, không trực tiếp lặn lội trên những
nẻo đường Trường Sơn hay những mảnh đất vùng tuyến lửa như nhiều bạn thơ
cùng thế hệ, Thơ Lưu Quang Vũ mang một vẻ đẹp lí tưởng và nặng tình yêu quê
hương đất nước” [40.tr.28] . Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét về thơ của Lưu
Quang Vũ có "một cách nhìn đời hồn hậu lạc quan, quay phía nào cũng thấy sự
hài hòa ưu ái” [40,tr.77]. Đã có rất nhiều những ý kiến đánh giá về thơ của Lưu
Quang Vũ nhưng nhìn chung tất cả đều hướng tới nhận xét là nhìn thấy trong
thơ của Vũ sự “chân thành” và “đắm đuối” trong cảm xúc. Người làm thơ cái
cần trước tiên là cảm xúc và tình cảm bởi lẽ nếu cảm xúc không mãnh liệt, tình
cảm không chân thành thì làm sao có thể viết cho “ngòi bút có thần” ở ngôn ngữ
thơ ca được? Lưu Quang Vũ đã thành thực với chính lòng mình khi bày tỏ tình
yêu đối với con người, cuộc sống, thiên nhiên, đất nước. Tình cảm trong thơ của
ông có lúc vui, lúc buồn, có khi chua chát đầy đau khổ… nhưng tất cả lại được
nhìn bởi nhân sinh quan tích cực, triết lý sống lạc quan tin tưởng. Hai mươi năm
sáng tác, Lưu Quang Vũ đã sáng tác hơn mười tập thơ, có những tập thơ đã được

in, có tập thơ chưa xuất bản. Các tập thơ được nhiều người biết đến như Hương
cây - Bếp lửa (1968), Mây trắng của đời tôi (1989), Bầy ong trong đêm sâu
(1993), Gửi các anh (1998), đã khẳng định Lưu Quang Vũ là một thi sĩ tài năng,
một cá tính thơ độc đáo trong dòng thơ hiện đại nửa cuối thế kỉ XX. Được biết
đến là một nhà thơ trước khi là một nhà viết kịch nhưng hành trình thơ ca của
Lưu Quang Vũ lại có ảnh hưởng lớn đối với sự thành công ở thể loại kịch.
Chính nhà văn đã tâm sự “Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau, có
lẽ thơ với kịch còn gần nhau hơn là thơ với văn xuôi. Đều là hai thể loại lớn và
khó của văn học, thơ và kịch đều là sự sống và thế giới bên trong của con người
ở dạng tinh chất, cô đọng và mãnh liệt nhất. Đối với tôi, kịch cũng là một thứ
thơ được trình bày trong không gian và thời gian kì diệu của sân khấu, thông
qua diễn xuất của diễn viên” [40,tr.505]. Như vậy, những thành công của Lưu
Quang Vũ ở thể loại thơ ca đã được các nhà phê bình ghi nhận, những thành

10
công đó là tiền đề quan trọng để đánh giá về kịch của Lưu Quang Vũ ở chặng
sáng tác sau.
2.2 Những công trình đánh giá về kịch của Lƣu Quang Vũ
Khái quát về đời văn của Lưu Quang Vũ, tác giả Lý Hoài Thu trong cuốn
Lưu Quang Vũ về tác giả và tác phẩm đã có một công trình mang tính tổng lược
và hoàn chỉnh về đường nghệ thuật của Lưu Quang Vũ từ một nhà thơ, nhà văn,
nhà phê bình đến khi trở thành một tác giả hàng đầu của sân khấu Việt Nam. Bài
viết đã chỉ rõ : “Lưu Quang Vũ có hai mươi năm vui buồn cùng thơ và mười năm
cuối đời song hành cùng kịch, nhưng trong mười năm ấy tài năng của Lưu
Quang Vũ đã tỏa sáng và tạo cho mình một phong cách, một “kịch pháp” và trở
thành một hiện tượng nổi bật nhất của sân khấu Việt Nam thời kì đổi mới” [40,
tr.42]. Sức sáng tạo của Lưu Quang Vũ bắt đầu từ vở kịch đầu tay Sống mãi
tuổi 17 (1979), vở diễn ra mắt của Nhà hát Tuổi trẻ và lần đầu tiên tham gia hội
diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc đạt giải nhất. Với vở diễn này, giới sân
khấu đánh giá Lưu Quang Vũ là một gương mặt mới, đáng chú ý. Sau cái chết

đột ngột của cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, Lưu Quang Vũ lập tức bắt
tay vào hoàn thiện kịch bản chèo Nàng Sita và được đoàn chèo Hà Nội dàn
dựng, sau đó vở diễn được hơn 30 đoàn nghệ thuật trong cả nước dựng lại với
đủ các thể loại như: kịch nói, cải lương, dân ca, chèo. Với vở kịch này Lưu
Quang Vũ đã tạo được tiếng vang lớn trong làng sân khấu của cả nước. Nhưng
phải đến năm 1984, Lưu Quang Vũ sáng tác 15 vở kịch, hội diễn sân khấu toàn
quốc 1985 có tới 8 vở tham gia hội diễn thì 6 vở đạt Huy chương vàng, 2 vở đạt
Huy chương bạc, báo chí gọi ông là cây bút vàng của kịch trường Việt Nam. Ba
năm cuối đời sức sáng tạo của Lưu Quang Vũ thật phi thường khi ông hoàn
thành tiếp hơn hai mươi vở kịch. Trong vòng mười năm ngắn ngủi của cuộc đời,
Lưu Quang Vũ đã để lại hơn 50 vở kịch và ông đã trở thành một hiện tượng đặc
biệt của sân khấu Việt Nam. Trong cuốn sách Lưu Quang Vũ tài năng và lao
động nghệ thuật, nhà phê bình Ngô Thảo nhận xét : “Hạt giống gieo vào mảnh

11
đất tốt gặp thời tiết thuận hòa, lại có một nội lực khỏe đã nhanh chóng phát
triển. Và bóng rợp của tài năng Lưu Quang Vũ trùm lên che mát cả một vùng
sân khấu rộng lớn và trải dài đất nước trong một thập niên” [39,tr.53]. Nhà
nghiên cứu Phan Ngọc trong Tạp chí Tia sáng, số 5, 1996 khi nói về các vở kịch
của Lưu Quang Vũ khai thác mô típ truyện dân gian có nhận xét : “Không ai
bằng Vũ trong biệt tài làm nêu cái muôn thuở trong cái đời thường, biến cổ tích,
huyền thoại thành truyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để
khẳng định cái cao quý ” [40,tr.266]. Lưu Khánh Thơ trong bài viết Đóng góp
của Lưu Quang Vũ đối với nền văn học kịch Việt Nam được in trong cuốn Lưu
Quang Vũ – Tác phẩm đạt giải thưởng Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao về tiếng
nói tiên phong trong kịch của Lưu Quang Vũ “Kịch của Lưu Quang Vũ là tiếng
nói trẻ trung, dũng cảm trong phong trào đổi mới ở nước ta. Đó là kết quả của
nhiệt tâm, sức lực, sự hiểu biết cuộc sống của người nghệ sĩ đồng thời cũng là
kết quả của một tình yêu của lòng say mê và khát vọng nghệ thuật” [47,tr.285].
Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng đã nhìn thấy sức sống lâu bền qua các đề

tài hiện đại trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ là ở chỗ “cảm hứng chủ đạo
trong kịch của Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp, cái thiện
…khát vọng chính của anh là khát vọng hoàn thiện cuộc sống, hoàn thiện con
người. Cho nên vượt qua những đề tài có tính chất thời sự, kịch của anh hướng
tới những giá trị nhân đạo bền vững lâu dài” [40,tr.291]. Các nhà nghiên cứu
tập trung vào hai đề tài chính trong kịch của Lưu Quang Vũ là đề tài khai thác
mô típ truyện cổ dân gian và đề tài hiện đại viết về cuộc sống mới để đưa ra
những nhận xét đánh giá về tài năng nghệ thuật, cội nguồn sáng tạo nghệ thuật
của Lưu Quang Vũ. Đề tài hiện đại vẫn luôn là vấn đề cốt lõi, xuyên suốt các
sáng tác của Lưu Quang Vũ cho dù nhà văn khai thác các mô típ dân gian trong
các vở kịch. Đạo diễn Phạm Thị Thành nhận xét : “Anh hay dùng câu chuyện
huyền thoại cổ tích để viết lên tâm sự của con người ngày hôm nay” [43,tr.174].
Tác giả Cao Minh cũng có chung nhận xét khi viết về vở kịch Hồn Trương Ba,

12
da hàng thịt “Từ một truyện cổ dân gian mang tính triết lí cao, Lưu Quang Vũ
đã sáng tác vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch đi thẳng vào người
xem vấn đề muôn thuở của con người cũng là vấn đề cấp bách của cuộc sống
hiện tại” [40,tr.322]. Nhà phê bình Lý Hoài Thu chỉ rõ trong vở kịch Hồn
Trương Ba, da hàng thịt “Lưu Quang Vũ không lệ thuộc vào nội dung câu
chuyện, đã tìm tòi, vừa mở rộng kích thước tự sự, vừa khơi sâu vào giá trị tư
tưởng để tạo nên vở kịch nổi tiếng mà “hạt cơ bản” là giá trị nhân văn sâu sắc
về lẽ tử - sinh” [41,tr.117]. Những ý kiến đánh giá về kịch của Lưu Quang Vũ
đều có chung nhận xét : tác giả Lưu Quang Vũ là một tài năng lao động nghệ
thuật, sức sáng tạo đặc biệt “một Molie ở Việt Nam”, đề tài kịch của Lưu Quang
Vũ rất đa dạng đặc biệt bắt nhịp với cuộc sống mới, chất lượng kịch của Lưu
Quang Vũ hấp dẫn lôi cuốn ở cách tổ chức xung đột kịch, ở ngôn ngữ và nghệ
thuật xây dựng nhân vật. Cuốn sách Lưu Quang Vũ, tài năng và lao động nghệ
thuật, Lưu Quang Vũ- tác phẩm đạt giải thưởng Hồ Chí Minh, Lưu Quang Vũ về
tác gia và tác phẩm cũng đã tổng hợp được rất nhiều các bài viết có giá trị của

các nhà nghiên cứu về Lưu Quang Vũ như Tất Thắng, Phan Trọng Thưởng, Ngô
Thảo, Phan Ngọc, Lý Hoài Thu, Lưu Khánh Thơ…
Ngoài ra còn có một số luận án và luận văn đã nghiên cứu một cách hệ
thống về tác giả, tác phẩm của Lưu Quang Vũ. Luận án Giá trị tư tưởng và nghệ
thuật trong kịch của Lưu Quang Vũ (Lê Hương Giang), Những giá trị nội dung
xã hội và nghệ thuật trong kịch của Lưu Quang Vũ (Phan Trọng Thành). Luận
văn về Đặc điểm kịch của Lưu Quang Vũ, Mảng kịch dựa trên tích truyện dân
gian của Lưu Quang Vũ, Thế giới nghệ thuật kịch của Lưu Quang Vũ, Thế giới
nhân vật trong kịch của Lưu Quang Vũ… Điểm qua các công trình nghiên cứu
trên cho thấy thực tế chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu kịch
Lưu Quang Vũ hướng tới lí thuyết liên văn bản. Lí thuyết liên văn bản có thể
không phải là mới nhưng lại là thách thức đối với những ai nghiên cứu kịch của
Lưu Quang Vũ. Vừa là khó khăn nhưng cũng lại mở ra sự thuận lợi, đó là hướng

13
nghiên cứu liên văn bản trong sáng tác kịch của Lưu Quang Vũ vẫn còn là một
đề tài bỏ ngỏ, là khoảng trống cho những vấn đề cần được tiếp tục khai thác.
3. Đối tƣợng, mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là liên văn bản trong kịch Lưu Quang Vũ.
Phạm vi nghiên cứu : Luận văn lựa chọn các vở kịch tiêu biểu của Lưu Quang
Vũ như : Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Ông vua hóa hổ. Ngọc Hân công chúa,
Sống mãi tuổi 17, Đôi dòng sữa mẹ, Nguồn sáng trong đời, Hoa cúc xanh trên đầm
lầy, Tôi và chúng ta, Ngoài ra luận văn khảo sát thêm một số vở kịch khác như : Lời
thề thứ 9, Quyền được hạnh phúc, Cô gái đội mũ nồi xám, Linh hồn của đá…
Mục đích nghiên cứu:
Về mặt lí thuyết : mở thêm một hướng nghiên cứu từ hệ thống lí thuyết liên văn
bản thuộc trào lưu giải cấu trúc phương Tây thế kỉ XX.
Về mặt thực tiễn : ứng dụng lí thuyết liên văn bản để phân tích kịch của
Lưu Quang Vũ nhằm làm nổi bật một số phương diện đặc sắc trong các kịch của
ông. Từ việc tìm ra tính liên văn bản trong đặc điểm kịch của Lưu Quang Vũ sẽ

có những đánh giá đúng đắn và sâu sắc về giá trị nội dung tư tưởng, tầng sâu văn
hóa, tính thần dân chủ trong các sáng tác kịch bản. Qua đó góp phần khẳng định
tài năng nghệ thuật, vị trí tiên phong, vai trò khơi mở, tầm tư tưởng lớn của nhà
viết kịch đồng thời cũng là nhà văn hóa Lưu Quang Vũ - một nhà văn xuất sắc
của thời kì đổi mới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn vận dụng các phương pháp chính sau đây.
Phương pháp lịch sử - xã hội : tìm hiểu lí thuyết liên văn bản trong tiến
trình lịch sử phát triển và hình thành trong bối cảnh xã hội châu Âu. Từ đó lược
giản những vấn đề cốt lõi nhất của lí thuyết liên văn bản, ứng dụng khía cạnh
của lí thuyết phù hợp để phân tích tác giả, tác phẩm của Lưu Quang Vũ trong
bối cảnh xã hội Việt Nam. Người viết khi ứng dụng lí thuyết liên văn bản vào
sáng tác của Lưu Quang Vũ sẽ đặt tác giả, tác phẩm vào tiến trình vận động của

14
văn học Việt Nam suốt chặng đường 1945 đến hết thế kỉ XX. Soi xét từ bối cảnh
văn hóa xã hội đặc biệt là xã hội Việt Nam những năm 80 của thời kì đổi mới,
những yếu tố khách quan, chủ quan có tác động mạnh mẽ đến quá trình sáng tạo
của nhà văn. Căn cứ vào bối cảnh chính trị, xã hội của đất nước để có nhận xét
đúng đắn về vị trí, vai trò của nhà văn và tác phẩm.
Phương pháp loại hình : xem xét, phân tích tác phẩm từ lí thuyết loại hình
(kịch), người viết sẽ chú ý đến xung đột kịch, hành động kịch, nhân vật và ngôn
ngữ kịch để nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên, đề tài của luận văn là ứng dụng lí
thuyết liên văn bản khi xem xét các vở kịch của Lưu Quang Vũ nên phân tích
loại hình của kịch sẽ không đề cập sâu mà nhường chỗ cho thuật ngữ liên văn
bản mà người viết sẽ sử dụng.
Phương pháp cấu trúc - hệ thống : người viết sẽ xem xét cấu trúc của các
tác phẩm, mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm, người đọc, người xem. Tìm hiểu
sự vận động về nhận thức, tình cảm của nhà văn và của nhân vật trong quá
trình sáng tác. Qua việc xem xét cấu trúc bên ngoài và bên trong tác phẩm,

người viết sẽ hệ thống theo cách diễn giải của thuật ngữ liên văn bản thành
chương mục cụ thể.
Phương pháp phân tích - tổng hợp : luận văn sẽ phân tích các tác phẩm
theo tiêu chí nhất định. Có thể theo đề tài, theo chủ đề, theo kiểu nhân vật… trên
cơ sở đó sử dụng phương pháp phân tích sâu một số nhân vật, hoặc tình tiết quan
trọng của tác phẩm. Trên cơ sở phân tích sẽ có những đánh giá mang tính tổng
hợp khái quát.
Phương pháp so sánh - đối chiếu : đối với đề tài ứng dụng lí thuyết liên
văn bản trong một tác giả, tác phẩm cụ thể luôn phải dùng đến phương pháp đối
chiếu so sánh. Người viết sẽ đối chiếu với các văn bản ra đời trước đó để tìm ra
điểm tương đồng và khác biệt, chỉ ra sự sáng tạo của nhà văn khi sử dụng liên
văn bản. So sánh đối chiếu để thấy được đặc sắc trong nghệ thuật và cá tính sáng
tạo, khả năng khơi mở những sáng tạo mới của nhà văn.

15
Ngoài ra người viết có thể sử dụng phương pháp thống kê - phân loại,
phương pháp liên văn hóa - văn học, văn học - sân khấu. Tất cả phương pháp sẽ
mở ra hướng tiếp cận thú vị cho sự sản sinh vô tận “tính năng sản” của văn bản -
một thuộc tính cơ bản của tính liên văn bản.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần nội
dung được triển khai thành ba chương.
Chương 1. Khái lược về lí thuyết liên văn bản và hành trình sáng tác kịch
của Lưu Quang Vũ.
Chương 2. Liên văn bản thông qua hệ thống đề tài, cốt truyện và nhân vật.
Chương 3. Liên văn bản qua hình thức diễn ngôn.








16
CHƢƠNG 1 : KHÁI LƢỢC VỀ LÍ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KỊCH CỦA LƢU QUANG VŨ
1.1 Khái lƣợc chung về lí thuyết liên văn bản
1.1.1 Xung quanh khái niệm liên văn bản
Liên văn bản là một khái niệm thuộc thi pháp học hiện đại phương Tây
xuất hiện nửa sau thế kỉ XX và có thể coi là thành tựu của trào lưu giải cấu trúc.
Nhà nghiên cứu F. Saussure, Bakhtin, Kritteva là những nhà lập thuyết đầu tiên
của tính liên văn bản, sau đó mở rộng ra đến công trình của Barthe, Bloom, Eco,
Derrda, Genette… Có hai cách tiếp cận thuật ngữ liên văn bản. Cách thứ nhất coi
liên văn bản như một thủ pháp văn học, với quan niệm này tính liên văn bản giới
hạn trong phạm vi các phương thức tạo lập mối quan hệ giữa văn bản hiện hành
và văn bản trước đó. Sự kết nối liên văn bản mang ý thức chủ động và phải có dấu
hiệu kết nối văn bản xuất hiện trong văn bản được khảo sát quy về phương thức
mô phỏng, ám chỉ, trích dẫn, đạo văn, biên tập, tu chỉnh, chuyển dịch, giễu nhại,
pha trộn thể loại. Cách thứ hai coi liên văn bản mang tính bản thể luận ở tác giả
Bakhtin, R.Brathes, Kritteva “không có gì ngoài văn bản”, “mọi văn bản đều là
liên văn bản”, tất cả các văn bản đều được kiến tạo dựa vào những mã và những
quy tắc hiện hành. Các văn bản được xem là “bức khảm trích dẫn” là “không gian
tiếng vọng” nơi mà nguồn gốc của những trích dẫn tiếng vọng đó biến mất. Liên
văn bản là thuộc tính của văn bản và là yêu cầu của mọi sự giao tiếp.
1.1.1.1 Lí thuyết liên văn bản của chủ nghĩa cấu trúc
Chủ nghĩa cấu trúc được hình thành từ đầu thế kỉ XX đến những năm
1940. Sự hình thành của chủ nghĩa cấu trúc bắt nguồn từ ngôn ngữ học cấu trúc
của F. Saussure, chủ nghĩa hình thức Nga rồi vươn sang lĩnh vực khác. Với các
nhà cấu trúc, nhà văn không chịu trách nhiệm với ý đồ tư tưởng, anh ta bị điều
khiển bới cấu trúc, quy phạm, nguyên tắc tổ hợp văn học. Nhân vật không đóng

vai trò duy nhất mang lại ý nghĩa cho văn bản, ý nghĩa văn bản được tạo bởi sự
tương tác các cặp đối lập trong cấu trúc như sống/ chết, tồn tại/ diệt vong, niềm

17
tin/ chân lí…Mối quan hệ như vậy nối cấu trúc văn bản với cấu trúc văn hóa và
tinh thần xã hội.
Nửa sau những năm 60 chủ nghĩa cấu trúc bị đả phá, họ phủ nhận sự biểu
nghĩa ổn định của cấu trúc, họ cho rằng không có cái gì tồn tại đơn lập, khép
kín, biệt lập của văn bản. Văn bản mang tính “đa bội”, văn bản là sản phẩm của
vô số những mã, những diễn ngôn của văn bản trước. Kritteva đề xuất tính liên
văn bản thay thế tính ổn định, khép kín, biệt lập của văn bản. Chủ nghĩa cấu trúc
tiếp nhận cái mới của giải cấu trúc Genette và Riffaterre coi đó là những đóng
góp vào việc phát triển lí thuyết liên văn bản.
Gerard Genette và tính xuyên văn bản: Genette trong công trình viết năm
1997 đã đề xuất khái niệm xuyên văn bản. Xuyên văn bản có năm hình thức
quan hệ: liên văn bản, cận văn bản, siêu văn bản, kiến trúc văn bản, ngoa dụ
văn bản. Ông quan niệm liên văn bản là “Mối quan hệ cùng hiển diện giữa hai
văn bản hoặc một vài văn bản trong một văn bản cụ thể” [trích theo 43,tr.24].
Liên văn bản có ba hình thức biểu hiện là : trích dẫn, đạo văn, và ám chỉ. Trong
đó trích dẫn, đạo văn là phân biệt cùng một hình thức đó là sự vay mượn câu
chữ của một văn bản có sẵn để kiến tạo một sản phẩm mới mang ý đồ hoàn toàn
mới. Tuy trung thành với chủ nghĩa cấu trúc nhưng ông đã có cách nhìn mới.
Theo Daniel Chandler thì xuyên văn bản của Genette có mấy đặc điểm đáng chú
ý: một là tính tự giác hoặc tính tự ý thức, ông chỉ chú ý đến loại văn bản có tính
liên văn bản một cách có ý thức của nhà văn. Hai là sự biến đổi từ một nguồn
gốc, sự biến đổi này tăng cường thêm tính tự ý thức. Ba là tính minh bạch trong
trích dẫn. Bốn là sự hiểu của người đọc nhận ra sự liên kết của một văn bản đang
hiện hữu. Năm là quy mô chuyển thể, sự kết hợp của văn bản khác trong văn bản
hiện hành. Sáu là tính không thể xác định giữa ranh giới cấu trúc thể loại, chuỗi,
tiếp nối. Genette có cái nhìn mới về mới về mối quan hệ liên văn bản, theo ông

liên văn bản là quan hệ xác thực, có ý thức, có kiểm chứng, có chủ ý của tác giả.

18
Liên văn bản trong quan niệm của Genette gần gũi với phương pháp đọc tiểu
thuyết có khả năng ứng dụng cao trong nghiên cứu.
Michael Riffaterre và ảo tưởng quy chiếu : Michael Riffaterre (1924-
2006) là nhà lí luận có quan niệm liên văn bản dưới lăng kính cấu trúc - kí hiệu
học. Những phân tích của ông thể hiện một cách đọc mới, khám phá những bí ẩn
của sản sinh văn bản thú vị. Ông chống lại tính quy chiếu thực tại của văn bản,
theo ông văn bản và kí hiệu không quy chiếu thế giới thực tại mà quy chiếu các
văn bản khác, các kí hiệu khác. Cái gọi là “quy chiếu thực tại” chỉ là ảo tưởng.
Riffaterre cho rằng liên văn bản là sự nhận thức của người đọc về các mối quan
hệ giữa tác phẩm với tác phẩm khác xuất hiện trước hoặc sau nó. Mặc dù còn có
những hạn chế nhưng quan niệm của ông có vai trò quan trọng trong việc phát
triển lí thuyết liên văn bản.
Những quan niệm của Genette và Riffaterre đã hình thành một lối đi riêng
được các nhà nghiên cứu gọi đó là quan niệm về tính liên văn bản của các nhà
thi học cấu trúc.
1.1.1.2.Lí thuyết liên văn bản từ Batkhtin đến Chủ nghĩa giải cấu trúc.
Mikhail Bakhtin và tính đối thoại : Bakhtin (1895-1975) là nhà triết học,
mỹ học và nghiên cứu văn học lớn của Liên Xô và thế giới thế kỉ XX. Trong
công trình nghiên cứu đầu tiên vào năm 1924 về vấn đề nội dung, chất liệu, và
hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ ông khẳng định “mỗi lời phát biểu
cụ thể bao giờ cũng hiển diện trong một ngữ cảnh văn hóa đầy ý nghĩa” [trích
theo 43, tr.31] và “chỉ trong ngữ cảnh lời phát biểu mới sống và mới được nhận
biết đúng hay sai, đẹp hay xấu, chân thành hay xảo trá, cởi mở trơ trẽn hay đầy
quyền uy, những lời trung tính không có và không thể có” [trích theo 43,tr.31].
Trong tiểu luận Ngôn ngữ tiểu thuyết Bakhtin viết “Bất cứ lời nói nào cũng
nhằm để đáp lại và không thể tránh khỏi ảnh hưởng sâu xa của lời đáp dự kiến
sẽ có” [trích theo 43,tr.32]. Mỗi phát ngôn không thể trung tính, nó sẽ bị vây bọc

bởi quan điểm, lập trường, giọng điệu khác và buộc phải gia nhập các mối quan

19
hệ tương tác, tán đồng, li khai. “Lời nói trên đường đến với đối tượng của mình
tất yếu rơi vào môi trường đối thoại luôn cuộn sóng và căng thẳng” [trích theo
43,tr.33] và ông khẳng định thuộc tính của lời nói là tính đối thoại.
Bakhtin đặt ngôn ngữ trong quan hệ với tình huống xã hội cụ thể, ý nghĩa
của các từ và các phát ngôn tùy thuộc vào chủ thể. Theo Bakhtin khi không có ý
thức chủ động, người nói không nhận ra mình bị bao bọc bởi muôn ngàn tiếng
nói khác nhau và do đó “chủ động định hướng giữa những tiếng nói khác biệt,
xác định lập trường, lựa chọn ngôn ngữ” [trích theo 43,tr.34]. Quan điểm này
trở thành nhân tố quan trọng nó quy định chủ thể trong vòng biến động, trong
cuộc đụng độ ý thức. Nguyên tắc đối thoại của Bakhtin trở thành tiêu chuẩn sự
tiến hóa xã hội. Hdquist xác định rằng, với Bakhtin tồn tại là đối thoại, ngôn ngữ
là đối thoại, và tính tiểu thuyết là đối thoại, bởi theo Bakhtin “Ý thức bắt đầu ở
đâu thì ở đó có đối thoại” [trích theo 43, tr.36].
Từ nguyên lí đối thoại Bakhtin tiếp cận thể loại tiểu thuyết, ông xem lí
luận về thể loại tiểu thuyết là tính đối thoại “Sự phát triển của tiểu thuyết là khơi
sâu tính đối thoạị, mở rộng nó và làm cho nó ngày càng trở nên tinh tế”
[3,tr.38]. Tiểu thuyết mang tính đa thanh, phức điệu, tính nhiều giọng nói. Lời
nói của tiểu thuyết tồn tại như một sự lặp lại, có tính giễu nhại, nó đối thoại với
lực lượng quan phương, nghiêm trang, những chân lí bất biến giáo điều đầy sức
ỳ bằng một ý thức hệ bình đẳng, dân chủ khỏe khoắn lành mạnh, mang tính chất
tái sinh giàu sức sống. Theo Bakhtin, biểu hiện của tính đối thoại là “tính dị
ngôn”, tức là ngôn ngữ luôn thẩm thấu những vết tích khác, những cách dùng
khác, những ý thức khác. Lời nói vừa có quan hệ nội bản, vừa có quan hệ liên
văn bản. Bản chất lời nói luôn có mối quan hệ với lời nói… do đó tự nhiên đã
thực hiện sự kết nối liên văn bản, liên ý thức, liên chủ thể đối thoại. Với quan
niệm ngôn ngữ tiểu thuyết mang tính đối thoại, Bakhtin được xem là nhà khai
sáng lí thuyết liên văn bản .


20
JuliaKritteva và tính liên văn bản: Kritteva (1941-) nhà triết học, tâm lí
học, nữ quyền luận và là nhà tiểu thuyết Pháp gốc Bulgari. Trong bài viết Từ,
Đối thoại và tiểu thuyết của Kritteva có mục tiêu chính là giới thiệu Bakhtin đến
phương Tây. Trong khi làm công việc này, bà đã sáng tạo ra thuật ngữ liên văn
bản nhằm phát triển và thay thế quan niệm tính đối thoại của Bakhtin theo tinh
thần giải cấu trúc. Trong bài viết này, bà đề xuất ba chiều kích hay ba sự phối
hợp có tính đối thoại ; đó là chủ thể viết, chủ thể nhận và ngữ cảnh “bất kì văn
bản nào cũng được cấu trúc là bức khảm các trích dẫn. Bất kì văn bản nào cũng
là sự hấp thụ và biến đổi các văn bản khác, còn ngữ cảnh bao gồm vô số văn
bản tiềm ẩn hoặc hiển lộ ảnh hưởng tác động đến văn bản, bởi vậy ý nghĩa văn
bản nảy sinh bên trong ngữ cảnh” [trích theo 43, tr.41]
Để tránh việc gắn thuật ngữ liên văn bản với từ ngữ của truyền thống như
“ảnh hưởng” “nguồn gốc”, Kritteva đề nghị dùng thuật ngữ “sự chuyển vị” thay
thế tính liên văn bản với ý nghĩa xem tính liên văn bản như “một hành trình từ
hệ thống kí hiệu này sang hệ thống kí hiệu khác nhằm giải cấu trúc vị trí cũ và
thể hiện một địa vị mới sâu sắc hơn” [trích theo 43,tr.42] tức là tính liên văn bản
được hiểu là “một sự chuyển vị của nhiều văn bản, một liên văn bản trong không
gian văn bản” [trích theo 43,tr.42]. Liên văn bản không chỉ được đề cập đến
những văn bản được hòa trộn vào văn bản khác mà cần được hiểu như sự
chuyển vị của một hay nhiều hệ thống kí hiệu này vào hệ thống kí hiệu khác.
Kritteva đã lược bỏ tính xã hội của các quan hệ diễn ngôn/ văn bản. Đây chính là
sự khác biệt với tính đối thoại trong quan niệm của Bakhtin. Đối với Kritteva,
liên văn bản là sự xếp chồng các văn bản như là một tấm vải với những kiểu dệt
khác nhau cùng tồn tại trong một không gian văn bản. Chỉ có văn bản, không có
chủ thể, Kritteva muốn giải trừ chủ thể. Đối với họ, thế giới hiện lên như một
văn bản khổng lồ và chẳng có gì ngoài văn bản. Tính liên văn bản của Kritteva
gắn liền với tinh thần giải cấu trúc và cảm quan hậu hiện đại.


21
Như vậy quan niệm về tính liên văn bản của Bakhtin và Kritteva có điểm
khác biệt. Liên văn bản trong tư tưởng của Bakhtin gắn với bản chất ngôn ngữ
mang tính đối thoại và chứa đựng ý nghĩa xã hội sâu xa, trên cơ sở đối thoại, chủ
thể không ngừng tìm kiếm các ý thức khác thông qua lời nói, và như thế đối
thoại không ngừng mở rộng… Còn đối với Kritteva không có gì khác ngoài văn
bản khổng lồ tồn tại nhiều văn bản trước đó. Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu liên
văn bản không thể là sự đánh tráo văn bản của người bằng văn bản của mình. Sự
tán loãng trong nhau của các văn bản không xóa mất sự hiển diện của văn bản
trước đó. Mỗi văn bản là một liên văn bản và thể hiện được đặc điểm tư tưởng
thẩm mĩ độc đáo, mới mẻ và mang tính xã hội rõ rệt.
Roland Barthes và tính đa bội: Barthes (1915- 1980) là nhà phê bình, kí
hiệu học, triết học người Pháp. Quan niệm liên văn bản của ông là chống lại vai
trò của tác giả. Đối với Barthes, việc gắn văn bản với tên tác giả là “áp đặt” cho
văn bản ấy một giới hạn, là trang bị cho văn bản ấy ý nghĩa sau cùng, là khép
lại sự viết” [trích theo 43,tr.47]. Trong các văn bản hiện đại tác giả “vắng mặt”,
tác giả chẳng qua chỉ là chủ thể của của hành động viết. Ông thay thế tác giả là
người “viết hiện đại”. Theo ông, một khi tác giả đã chết thì văn bản là một
không gian đa chiều kích, trong đó“nhiều lối viết khác nhau cùng hòa trộn,
không lối viết nào hoàn toàn mới mẻ” [trích theo 43, tr.47], “văn bản làm nên từ
nhiều lối viết, xuất phát từ nhiều nền tảng văn hóa khác nhau, được đối thoại
với nhau, phản kháng nhau” [trích theo 43, tr. 48]. Văn bản giống như một tấm
vải dệt từ vô số sợi chỉ “trích dẫn” mà không rõ nguồn gốc. Đó chính là liên văn
bản của mọi văn bản.
Tác giả đã chết và văn bản là liên văn bản, kéo theo sự lên ngôi của người
đọc trước hết là giới phê bình, nhưng giới phê bình cũng cần được lật đổ, văn
bản là đa bội và không thể tính đếm, sự viết là đa nguyên, sự hiểu là mênh
mông, phiêu lưu ý nghĩa, không chấp nhận quan niệm “cố định ý nghĩa”. Theo
Barthes“đây là hành động thực sự cách mạng”. Ông đặt vai trò của người đọc


22
thành không gian “hội tụ những lối viết” tuyệt đối vai trò của người đọc. Đây
chính là quan niệm có tính chất phương pháp luận.
Trong Lý thuyết về văn bản và Từ tác phẩm đến văn bản Barthes cũng
phân biệt văn bản và tác phẩm. Văn bản là cái biểu đạt, tác phẩm là cái được
biểu đạt. Văn bản là lĩnh vực có tính chất phương pháp luận, còn tác phẩm có
thể tìm thấy trên giá sách. Văn bản tồn tại biến động trong các diễn ngôn, tác
phẩm nhìn thấy phô bày. Văn bản tất yếu mang tính đa bội. Văn bản không kết
thúc ở văn chương hữu hạn mà là ở văn hóa vô hạn, ông đã sáng tạo nên người
đọc liên văn bản. Barthes cho rằng “thế giới là văn bản khổng lồ”, ông nhấn
mạnh văn bản mang tính đa bội. Tính đa bội được hiểu không phải là tính có
nhiều ý nghĩa mà là vô số ý nghĩa. Tính đa bội này nêu cao vai trò của độc giả,
kiến tạo ý nghĩa của người đọc và giải chủ thể tác giả.
Như vậy, có thể tóm tắt ngắn gọn, tính liên văn bản trong quan niệm của
Genette là xuyên văn bản; trong quan niệm của Rifaterre là ảo tưởng quy chiếu;
ở Bakhtin là tính đối thoại; trong quan niệm của Kritteva là sự chuyển vị; trong
quan niệm của Barthes là tính đa bội. Mỗi quan niệm các nhà nghiên cứu đều có
ít nhiều sự khác biệt nhưng vẫn tìm thấy sự thống nhất trong cách hiểu về khái
niệm liên văn bản. Tính liên văn bản vừa là khái niệm vừa nhằm chỉ tất cả các
thủ pháp kiến tạo nên những mối quan hệ giữa các văn bản văn học, vừa nhằm
miêu tả thuộc tính bản thể của mọi văn bản. Đối với một số nhà lập thuyết quan
niệm liên văn bản là thuộc tính tự chủ của văn bản, nhờ đó chúng năng sản và
biểu nghĩa.
Sự tương liên mà bất cứ văn bản văn học nào cũng có với văn bản trước
đó khiến văn bản chỉ có thể hình dung như “bức khảm các trích dẫn” một không
gian hồi thanh thú vị, một mạng lưới đầy vết tích các văn bản khác. Lí thuyết
này nảy sinh trong bối cảnh tất cả những gì biệt lập, cô lập độc đoán đều bắt đầu
bị tan rã ; ý thức về tính liên hệ, quan hệ, mạng lưới hình thành. Liên mạng, liên
ý thức, liên cá nhân là khái niệm gần gũi của tính liên văn bản. Với lí thuyết này,


23
văn bản tồn tại trong thế đa nguyên, năng sản, luôn là sản phẩm của đối thoại ý
thức hệ, tư tưởng văn học.
Tiếp cận văn học từ lý thuyết liên văn bản mở ra hướng tiếp cận mới mẻ,
nó khơi gợi sự tìm tòi khám phá khoa học và niềm thú vị khi được đắm mình
vào văn bản, văn hóa của người đọc. Hướng tiếp cận liên văn bản trong một số
vở kịch của Lưu Quang Vũ hứa hẹn sẽ mang lại nhiều phát hiện mới mẻ cho
hoạt động nghiên cứu và diễn giải văn hóa của chúng ta ngày nay.
1.1.2 Về vấn đề nghiên cứu lí thuyết liên văn bản ở Việt Nam
Tác giả Hoàng Trinh trong những bài viết về kí hiệu học trong những thập
niên 1970-1980 có thể xem ông là nhà kí hiệu học đầu tiên giới thiệu và vận
dụng lí thuyết liên văn bản. Trong công trình Từ kí hiệu học đến thi pháp học
viết năm 1993, ông đã làm rõ khái niệm văn bản, ông viết “một văn bản bao giờ
cũng kế thừa những văn bản có trước và bao giờ cũng mang những tiếng nói hội
nhập vào nhau là tính liên văn bản của mọi văn bản” [trích theo 43,tr.8]. Trần
Đình Sử trong bài giới thiệu Bakhtin về “Những vấn đề thi pháp Đôt - xtôi -
epxki” viết năm 1993 đã khẳng định tư tưởng của Bakhtin về tính đối thoại, tiểu
thuyết đa thanh, phức điệu và có nhắc đến thuật ngữ liên văn bản. Đỗ Đức Hiểu
đã viết một mục về tính liên văn bản trong Từ điển văn học bộ mới. Tác giả có
đề cập đến tính đa âm, giống tính đối thoại và là tính liên văn bản. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Nam đã vận dụng lí thuyết liên văn bản để khám phá các hiện
tượng chuyển thể từ văn học sang điện ảnh, sân khấu. Ông cho rằng cải tác, cải
biên, sự di chuyển mô típ là liên văn bản. Liên văn bản tạo nên “tính năng sản”
bởi lẽ “không có cái gì là không từng được nói, được viết, được đọc và sẽ tiếp
tục được được nói được sản sinh vô tận” [trích theo 43,tr.11]. Bởi vậy mà chúng
tạo nên tính liên văn bản.
Như vậy lí thuyết liên văn bản đã được nghiên cứu và triển khai ở Việt
Nam từ khá sớm. Các nhà nghiên cứu đã nỗ lực dịch, vận dụng, đưa vào từ điển
để giới thiệu rộng rãi đến người đọc và giới nghiên cứu văn chương nhằm giải


24
mã tác phẩm nghệ thuật theo tinh thần hiện đại. Việc nghiên cứu theo hướng liên
văn bản đã đem lại cho lí luận diện mạo mới mẻ, làm phong phú đời sống văn
chương và đem đến công chúng cái nhìn đa diện đối với tác phẩm nghệ thuật.
1.2 Hành trình sáng tác kịch của Lƣu Quang Vũ
1.2.1 Diện mạo chung của kịch Việt Nam hiện đại
Sân khấu kịch nói xuất hiện vào khoảng những năm 20 của thế kỉ XX.
Cùng với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam như Thơ mới, tiểu thuyết,
phóng sự, tùy bút, thể loại kịch cũng được hình thành trong sự ảnh hưởng của
văn hóa phương Tây, trực tiếp là văn hóa, văn học Pháp. Kịch nói ra đời đánh
dấu một bước phát triển mới trong tiến trình hiện đại hóa văn học và nghệ thuật
Việt Nam. Ban đầu chỉ là một số tác phẩm dịch, sau đó mới sáng tác. Từ chỗ chỉ
phục vụ một số đối tượng thành thị, tầng lớp tri thức, học sinh, thanh niên, kịch
nói nhanh chóng chiếm lĩnh nhà hát, sân khấu trở thành một món ăn tinh thần
mới lạ, hấp dẫn đối với mọi đối tượng trong xã hội. Kịch nói đầu những năm 20
phải kể đến tác giả Vũ Đình Long với Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm; Vi
Huyền Đắc với Ông Ký Cóp, Hai tối hôn nhân, Kim tiền. Đoàn Phú Tứ với Mơ
hoa, Những bức thư tình, Ngã ba; Nguyễn Huy Tưởng với Vũ Như Tô; Vũ
Trọng Phụng với Không một tiếng vang.
Kịch nói giai đoạn 1930 – 1945 thực sự khởi sắc mà Thế Lữ là nghệ sĩ lớn
đặt nền móng đầu tiên cho nền “kịch nghệ” nước nhà. Kịch ở giai đoạn này có
đóng góp lớn về mặt nội dung. Các vở kịch đã phản ánh được mâu thuẫn lớn
trong đời sống xã hội như sự đối kháng giữa cái mới và cái cũ, giữa Tây học và
Nho học, giữa đạo đức phong kiến và lối sống tư sản, giữa tự do cá nhân và lối
sống ràng buộc gia đình. Những xung đột tâm lí xoay quanh mặt trái của lối
sống Âu hóa, cám dỗ của đồng tiền. Kịch ở giai đoạn này tạo nên đỉnh cao huy
hoàng trong lịch sử phát triển của văn học nghệ thuật Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, lịch sử sang trang mới, văn hóa văn
nghệ có thêm nhiệm vụ cách mạng mới. Chín năm kháng chiến chống Pháp, đối


25
tượng phục vụ của văn nghệ đã có thay đổi, nghệ thuật hướng về quần chúng cách
mạng. Một số vấn đề của đời sống kháng chiến, của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân được đặt ra. Vở kịch Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy
Tưởng, Chị Hòa của Học Phi, vở Lòng dân của Nguyễn Văn Xe…đã phản ánh
được một số vấn đề của cuộc sống kháng chiến. Tuy nhiên, thời kì này nghệ thuật
đã được “quần chúng hóa”, sân khấu kịch nói có nhiều hình thức hoạt động linh
hoạt, thể loại kịch ngắn phát triển, số lượng tác phẩm có giá trị không nhiều.
Kịch nói thời kì kháng chiến chống Mỹ so với giai đoạn chống Pháp phát
triển mạnh mẽ hơn về số lượng và chất lượng. Đất nước chia làm hai miền, miền
Bắc kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam trực tiếp chiến đấu chống
Mỹ. Kịch bám sát đề tài nóng hổi của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đề tài của kịch thời kì này trở nên phong phú, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, xây dựng cuộc sống, con người mới miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền
Nam đã đi vào đời sống sân khấu kịch. Tiêu biểu là vở kịch Con đường dốc của
Học Phi, Quẫn của Lộng Chương, Lửa hậu phương của Kính Dân, Bức tranh mùa
gặt của Trần Vượng, Quê hương, Lập xuân của Xuân Trình, Tiền tuyến gọi của
Trần Quán. Sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc còn vang vọng mãi qua các
vở kịch Nổi gió, Đại đội trưởng của tôi, Tổ Quốc của Đào Hồng Cẩm, Tình yêu
của anh của Tất Đạt, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh. Những vở kịch trên đã tạo nên
tiếng vang lớn và đáp ứng được nhu cầu phản ánh hiện thực đời sống lao động và
chiến đấu của nhân dân.
Nhìn lại bước đi của lịch sử sân khấu Việt Nam từ những năm đầu của thế kỉ
XX dễ thấy kịch cũng có nhiều biến động và chịu sự chi phối của lịch sử, văn hóa,
kinh tế, chính trị, xã hội. Mặc dù cuộc sống đầy biến động, nhưng kịch vẫn xuất
hiện đường hoàng tự tin có sức mạnh tạo nên nhiều thành tựu đặc sắc. Nếu trước
1945, kịch đang đi những bước đi chập chững của một nền sân khấu non trẻ thì sau
1945 (đặc biệt từ 1945- 1975), kịch đã tạo ra một trang sử riêng và đã có những
thành tựu nhất định đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nền

×