Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Người kể chuyện trong truyện ngăn Nguyễn Huy Thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 179 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
________________


Phạm Thị Thùy Trang


NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP


Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số : 60 22 32


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG THỊ VĂN





Thành phố Hồ Chí Minh – 2009


Lời cảm ơn


*

Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận
tình của TS. Hoàng Thò Văn cùng sự góp ý của các Giáo sư –
Tiến só phản biện và các bạn đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân thành
cảm ơn những sự giúp đỡ chân tình và quý báu đó.
Dù đã cố gắng hết sức nhưng do khả năng và thời gian hạn
chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
nhận được sự góp ý chân thành của các Giáo sư – Tiến só và các
bạn đồng nghiệp.
Người thực hiện
Phạm Thò Thùy Trang


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1. Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng đặc sắc và nổi bật trong
nền văn học Việt Nam thời kỳ văn học đổi mới giai đoạn cuối thế kỷ XX.
Ngay từ những sáng tác đầu tay của mình như Tướng về hưu, Những ngọn gió
Hua Tát, Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm Tiết… phong cách
nghệ thuật của nhà văn đã trở thành đề tài bàn luận, tranh luận của nhiều nhà
phê bình, nghiên cứu. Chỉ tính riêng trong giai đoạn từ năm
1987 đến 1989 đã
có khoảng 70 bài in trên các báo, tạp chí, sách nhận định về Nguyễn Huy
Thiệp. Nhà sưu tầm Phạm Xuân Nguyên trong Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp đã
khẳng định: “Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là người đầu tiên trong văn học Việt
Nam lập kỷ lục có được nhiều bài viết nhất về sáng tác của mình, chỉ trong
một thời gian ngắn, và không có độ lùi thời gian. Phê bình tức thời theo sáng
tác, liên tục, lâu dài. Không chỉ trong nước, cả ngoài nước; không chỉ người

Việt, cả người ngoại quốc” [64, tr.7]
. Xung quanh các sáng tác của nhà văn
xuất hiện nhiều ý kiến khen chê khác nhau, nhưng sức hấp dẫn của những
trang văn này đối với độc giả đã được nhiều nhà phê bình thừa nhận. Bùi Việt
Thắng nhận xét: “Mỗi truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đều như một “khối
thuốc nổ” làm tan vỡ mọi nếp nghĩ bì
nh thường của độc giả”[18, tr.351].
Nguyễn Đăng Mạnh thì cho rằng: “Những truyện của Nguyễn Huy Thiệp có
một sức hấp dẫn khó cưỡng lại được. Anh có nhiều ngón nghề lôi cuốn người
đọc cũng “bợm” lắm” [57, tr.347]. Còn các tác giả của công trình Truyện
ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung phát biểu: “Lịch sử văn
học còn ghi: Vào giữa những năm tám mươi của thế kỷ XX, khi “ hiện tượng
Nguyễn Minh Châu” bùng lên và sau đó tạm lắng thì phát lộ “hiện tượng
Nguyễn Huy Thiệp”” [19, tr.767]
. Và cho đến thời điểm hiện tại, Nguyễn Huy



Thiệp cùng với các tác phẩm của ông vẫn là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà
phê bình nghiên cứu khi tìm hiểu về nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới từ
sau năm 1975 nói chung, cũng như khi khảo sát phong cách nghệ thuật của
nhà văn nói riêng. Có thể nói, khi nhắc đến những hiện tượng văn học tiêu
biểu sau chiến tranh, bất cứ một tác giả nào cũng phải đề cập ít nhiều đến
Nguyễn Huy Thiệp như một biểu hiện xuất sắc và độc đáo của dòng văn học
đương thời.
2. Nguyễn Huy Thiệp viết cả kịch bản văn học, phê
bình văn học, tiểu
thuyết, nhưng mảng sáng tác nổi bật và thu được nhiều thành tựu hơn cả là
truyện ngắn. Các truyện ngắn của nhà văn từ lâu đã trở thành trung tâm của
những bàn thảo, tranh luận sôi

nổi mỗi khi hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp
được mang ra phân tích, tìm hiểu. Còn những mảng sáng tác khác thì ít thu
hút được sự quan tâm của công chúng cũng như giới phê bình hơn. Đã có rất
nhiều ý kiến nhận xét về nội dung cũng như nghệ thuật của truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng nhìn chung, đa số các ý kiến đều khẳng định sự
sâu sắc, táo bạo và mới lạ trong nội dung của các tác phẩm
này, bên cạnh
nghệ thuật tự sự sắc sảo, linh hoạt với một bút pháp biến ảo, một thứ ngôn
ngữ trần thuật sắc bén, hàm súc và một giọng điệu kể chuyện đa dạng. Việc
khảo sát, nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không những giúp
chúng ta có thể nhìn nhận được những đặc điểm tiểu biểu trong văn phong và
tư tưởng nghệ thuật của tác giả, mà còn cung cấp những dữ liệu quan trọng
cho việc tìm
hiểu sự vận động của văn xuôi thời kỳ đổi mới sau kháng chiến
chống Mỹ với những nét thay đổi tiêu biểu cho nghệ thuật tự sự trong văn học
giai đoạn này.
3. Đối với tác phẩm tự sự, người kể chuyện là một nhân tố vô cùng
quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức cấu trúc trần thuật của tác
phẩm. Cùng một câu chuyện, nếu được kể bởi những hì
nh tượng người kể



chuyện khác nhau, rất có thể hiệu quả nghệ thuật mang lại sẽ khác nhau. Cách
thức trần thuật của người kể không chỉ đơn thuần là cách kể chuyện sao cho
câu chuyện trở nên đậm đà, ý vị, đó còn là cách thức để nhà văn lý giải sự vật
hiện tượng một cách sâu sắc, hiệu quả và thuyết phục. Diện mạo và phong
cách trần thuật của người kể chuyện được tạo nên từ sự kết hợp của các yếu tố
như ngôi
kể, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ kể chuyện và giọng điệu trần

thuật. Chính vì vậy, khi khảo sát một hình tượng người kể chuyện, chúng ta
phải đi vào phân tích từng yếu tố này để rút ra một cách nhìn nhận xác đáng
và trọn vẹn về hình tượng. Xét riêng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thì
sự đặc sắc của mỗi loại hình tượng người kể chuyện đều gắn liền với những
đặc trưng nhất định t
rong nghệ thuật sử dụng các phương tiện trần thuật, ngôn
từ, giọng điệu kể chuyện cũng như sự luân phiên thay đổi ngôi kể và các điểm
nhìn trần thuật. Cái hay của nhà văn là ở chỗ, ông đã thể hiện được tài năng
biến hóa li
nh hoạt trong việc vận dụng và kết hợp các yếu tố tự sự để kiến tạo
nên nhiều dạng người kể chuyện khác nhau, qua đó xây dựng nên những cấu
tứ tự sự độc đáo, mang tính biểu hiện cao.
4. Nhận xét về phong cách truyện ngắn mới lạ và đặc sắc của Nguyễn
Huy Thiệp, các nhà phê bình, nghiên cứu từ trước tới nay thường tập trung
nhiều vào việc xem xét những yếu tố khác nhau của nghệ thuật tự sự như:
giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ, cách kể chuyện, vị trí của người kể, bút pháp,
nghệ thuật
xây dựng nhân vật… cùng những đặc điểm nội dung, tư tưởng nổi
bật như: sự ưu trội của “thiên tính nữ” trong nghệ thuật xây dựng các nhân vật
nữ, tính triết lý và chất thơ đặc trưng t
rong nội dung truyện kể, … Những yếu
tố trên đây đều ít nhiều liên quan đến hình tượng người kể chuyện trong các
tác phẩm. Tuy nhiên hầu như chưa có công trình nào đi sâu vào khảo sát đặc
điểm cũng như nghệ thuật xây dựng loại hình tượng này trong truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp. Những sự đề cập nếu có đều mang tính nhắc gợi



nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu một vấn đề nghệ thuật khác trong sáng tác
của nhà văn. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến

thức về Lý luận văn học (đặc biệt là Tự sự học) và những hiểu biết về văn học
thời kỳ đổi mới mà bản thân lĩnh hội được trong quá trình tìm hiểu để sắp
xếp, hệ thống các vấn đề có liên quan đến người kể chuyện trong truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp với
mong muốn chỉ ra được một số nét tiểu biểu trong
nghệ thuật xây dựng hình tượng người kể chuyện của nhà văn, cũng như ảnh
hưởng của hình tượng này đối với cấu tứ tự sự của truyện kể, góp phần vào
việc nghiên cứu tác phẩm của ông một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Hy
vọng rằng, luận văn có thể góp một phần nhỏ t
rong quá trình nghiên cứu
chung về Nguyễn Huy Thiệp để thấy được đóng góp của nhà văn đối với văn
học dân tộc trong quá trình đổi mới truyện ngắn cũng như góp phần nhìn nhận
vị trí của nhà văn trong nền văn học đương đại.
2. Giới hạn đề tài
Để tiến hành khảo sát và phân tích các truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp, chúng tôi
căn cứ vào các tác phẩm được in trong tổng tập Truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp xuất bản năm 2005, do tác giả Đỗ Hồng Hạnh sưu
tầm và tuyển chọn [27]. Công trình này bao gồm 42 tác phẩm tiêu biểu của
Nguyễn Huy Thiệp từ ngày đầu sáng tác đến nay. Đây cũng là tổng tập truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp mới nhất được xuất bản trong thời gian gần đây và
đã được sự đồng ý, chỉnh duyệt của chính nhà văn.
Tro
ng luận văn này, chúng tôi chọn đi sâu vào khảo sát những
hình thức thể hiện tiêu biểu của hình tượng người kể chuyện được khắc họa
trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
3. Lịch sử vấn đề
Cách đây hơn hai mươi năm, sự xuất hiện của Nguyễn Huy
Thiệp đã g
ây một chấn động lớn trong giới văn chương và người đọc, và càng




ngày nhà văn càng chinh phục trái tim mọi người. Truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp khuấy động trái tim độc giả về nhiều phương diện, đời sống, suy tư,
văn học nghệ thuật, triết lý, thân phận con người. Từ một thế giới văn chương
ổn định, mang nhiều tính chất hồn nhiên, lạc quan, chúng ta bước vào một thế
giới bất ổn của đời sống thật, hằng ngày, đau khổ và của những day dứt bất
tận. Nguyễn Huy Thiệp cũng đã có lần trần tình về quan niệm lựa chọn đề tài
của mình: “Không khí dung tục suy đồi “đương thời” cũng chính là không khí
sống, không khí sáng tác – mặc nhiên là thế - bởi vậy nếu từ chối đối th
oại
nghĩa là anh tự làm cho mình khó thở, tự giam cầm mình” [75, tr.246] và
“Thực tế ngày càng trở nên khắc nghiệt. Đừng tưởng rằng ở đấy không có trả
giá, không có đau đớn, không có gì
để viết. Nó là cả một bi hài kịch cuộc đời,
có khi là cả một bi hài kịch một thời” [75, tr.247]. Tuy viết nhiều về những sự
thật trái ngang, tàn khốc của hiện thực, nhưng những trang viết của nhà văn
vẫn thấm đẫm chất nhân văn và lòng yêu thương con người. “Nhịp mạnh
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là tình yêu. Tình yêu con người, tình
yêu loài người là tinh thần bao trùm các tác phẩm của anh” (Đỗ Đức Hiểu)
[64, tr.479]. Cho đến nay, “gi
a tài” truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp chỉ
khoảng hơn 40 truyện, nhưng chỉ cần đọc bấy nhiêu truyện ngắn của ông,
người đọc cũng đã rất ngạc nhiên trước sự phong phú của vốn sống, sự lịch
lãm của bản lĩnh, sự sắc sảo của óc quan sát, sự sâu sắc của trí tuệ, sự đằm
thắm của tình người, sự đa dạng trong bút pháp của nhà văn. Chỉ bấy nhiêu
truyện ngắn, anh đã mang đến cho văn học đương t
hời một diện mạo mới: từ
cách chọn đề tài, cách xây dựng nhân vật, cách dựng truyện, lối hành văn…

đều mới, để cuối cùng diễn đạt được những chủ đề mới của cuộc sống hôm
nay.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gắn liền với quá trình đổi mới truyện
ngắn của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, n
ó đem đến cho người đọc



những ấn tượng mới mẻ về một phong cách nghệ thuật riêng biệt của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp. Tùy vào cảm hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai
thác vấn đề, các nhà nghiên cứu đã đề cập tới một số khía cạnh nổi bật về
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của ông với mức độ đậm nhạt, nhiều ít
khác nhau. Một trong những nét nổi trội trong lối tự sự của Nguyễn Huy
Thiệp được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập tới là lối hành văn mới lạ,
sắc sảo, hàm
súc của ông và sự cách tân, tìm tòi cái mới trong cách thức trần
thuật. Trong từng tác phẩm khác nhau, ở nhiều góc độ khác nhau, các nhà
nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn
luôn có sự đổi mới trong nghệ thuật tự sự, luôn biết cách làm mới tác phẩm
của mình. Nhà văn không bao giờ bằng l
òng đi vào những khuôn khổ sói mòn
của văn chương, như chính ông đã khẳng định: “Yếu tố mới lạ của ngôn ngữ
được đưa vào tác phẩm hiện đại theo tôi phải là số một cho việc định giá một
tác phẩm văn học giá trị” [75, tr.252]. Ở mỗi truyện ngắn của nhà văn, người
đọc đều nhận ra những phương diện mới lạ, đặc sắc trong văn phong và cách
nhìn nhận hiện thực, nhân sinh của ông. Đánh giá về những nét mới lạ tron
g
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, các nhà nghiên cứu đã chú ý đến nhiều
phương diện khác nhau của nghệ thuật tự sự, từ phương diện đề tài đến cách
tổ chức tác phẩm, sử dụng ngôn ngữ, khai thác giọng điệu…, trong đó, họ đã

ít nhiều đề cập đến những đặc điểm
tiêu biểu về người kể chuyện trong các
tác phẩm này.
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào khi nhận xét về người kể chuyện trong
truyện ngắn Tướng về hưu đã viết: “Cái nhìn dân chủ hóa của người kể
chuyện, ở đây chính là chỗ: tin rằng mình không phải mách nước cho ai, lên
lớp cho ai, thậm chí, ở nhiều chỗ, đứng thấp hơn nhân vật và bạn đọc” [14,

tr.87]. Như vậy, có thể thấy, ngay từ tác phẩm đầu tay của mình, Nguyễn Huy
Thiệp đã có ý thức xây dựng một hình tượng người kể chuyện bình đẳng với



các nhân vật khác trong tác phẩm và cả với người đọc. Còn tác giả Đào Duy
Hiệp khi đọc tác phẩm Một thoáng Xuân Hương đã rút ra một số đặc điểm
về điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện trong chùm truyện ngắn này. Ở
truyện thứ nhất, “người kể chuyện tuy ở ngôi thứ ba, nhưng do từ vựng của
nhân vật nên tuy xưng “tôi” mà người đọc như lại thấy chính Tổng Cóc đang
kể ra những suy nghĩ, những độc thoại, cách ứng xử… của ông ta. Người kể
chuyện do đó mất đi vai trò của “ông biết tuốt”. Lời người kể chuyện đã
ít
(chủ yếu là tả các hành động của Tổng Cóc đứng lên, ngồi xuống, quát hỏi Lý
Cờ…), lại rất khó tách bạch cho ra giọng riêng” [64, tr.77]. Ở truyện thứ hai,
“điểm nhì
n chủ yếu trong truyện này là từ Ấm Huy. Vẫn là người thuật truyện
ở ngôi thứ ba, nhưng thường xuyên di chuyển sang Ấm Huy” [64, tr.81]. Còn
ở truyện thứ ba, người kể chuyện ngôi thứ ba thường xuyên dựa vào điểm
nhìn của nhân vật thi sĩ đóng vai Chiêu Hổ để trần thuật. Theo Đào Duy Hiệp,
Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng các cách thức kể chuyện như trên để lột tả
chân dung của Hồ Xuân Hương một cách đặc sắc: “Xuyên suốt cả ba truyện

là những hình tượng phụ nữ - những Hồ Xuân Hương cứ bước dần ra với
cuộc đời, rõ nét thêm theo hướng vị tha, bao dung cũng tượng trưng cho
người Phụ nữ muôn đời, cái mà Hoàng Ngọc Hiến gọi là “tính nữ” trong văn
chương của Thiệp. Ngược lại vị trí, tính c
ách của những người đàn ông trong
truyện lại bị đảo ngược theo chiều hướng yếu dần đi” [64, tr.84]. Trong khi

khảo sát bộ ba truyện ngắn lịch sử giả Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết của
Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Vương Anh Tuấn cho rằng một trong
những phương diện làm nên cái hay, cái độc đáo cho những thiên truyện này
là cách xây dựng hình tượng người kể chuyện của nhà văn. Theo tác giả,
người kể chuyện trong các t
ác phẩm này “là một chủ thể khách quan, trung
tính, quan sát, kể chuyện với con mắt lạnh lùng, thiếu những đoạn trữ tình
ngoại đề, lời bàn luận, đánh giá xen giữa các sự kiện. Nội dung anh ta kể là



những điều phi chính sử, với những mặt khác biệt hoặc có khi trái ngược. Đây
là cách cấu tạo tác phẩm mang tính chất mâu thuẫn nhằm tạo nên hiệu quả
thẩm mỹ ở người đọc (…) Chủ thể ở các truyện không xuất hiện rõ ràng
nhưng đọc truyện, người đọc lại hướng chú ý về phía anh ta” [64, tr.335-
336]. Tìm hiểu về chùm truyện giả cổ tích Con gái thủy thần, nhà nghiên cứu
Đặng Anh Đào đã chỉ ra điểm khác biệt của kiểu người kể chuyện ở đây so
với người kể chuyện trong các truyện cổ tích chính thống. “Nhân vật chính
còn khác với truyện cổ tích ở một điểm nữa là anh t
a xưng “tôi”. Nhân vật cổ
tích được nhìn từ ngoài vào, ta chỉ thấy hành động của anh ta, và đó là điểm
gần gụi của truyện Nguyễn Huy Thiệp với cổ tích và
một số truyện phổ cập ở

dân gian (như tiểu thuyết kiểu Tam quốc chí chẳng hạn). Song ở Chương có
một nghịch lý phản cổ tích. Anh đầy ắp những huyền thoại mê tín và định
kiến, anh sống theo nhịp của mùa màng hội hè lễ tiết và nghi thức cổ xưa, bên
những con người cổ sơ với bàn chân giao chỉ, với thế đứng “né chân chèo”,
với bao dáng vẻ và lối nói đã tồn tại ngàn đời; song ở Chương quả đã xuất
hiện một c
ái “tôi” không đơn giản do lối xưng hô của câu chuyện, nó chính là
một loại “khe hở” khác, tràn ra từ những giấc mơ của anh” [14, tr.91].
Nhưng nhận xét vừa nêu của các nhà nghiên cứu xuất hiện trong giai đoạn
đầu, khi Nguyễn Huy Thiệp vừa cho “trình làng” những truyện ngắn đầu tiên
của mình trên văn đàn. Những ý kiến trên tuy xuất hiện rời rạc và chỉ nhằm
phân tích những hình tượng người kể chuyện nhất định t
rong một số truyện
tiêu biểu của nhà văn, song chúng cũng đã bước đầu cung cấp cho chúng ta
một cách nhìn khái quát về một số đặc điểm của người kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Càng về sau, các nhà nghiên cứu lại càng cố gắng đi vào những nét
khái quát của loại hình tượng này t
heo cách nhìn hệ thống thông qua việc
khảo sát hàng loạt các truyện ngắn của nhà văn. Tác giả Châu Minh Hùng



trong bài viết Cuộc tìm kiếm hình thức đa thanh mới của văn xuôi hiện đại
qua cấu trúc truyện của Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn nhận: “Đọc truyện
Nguyễn Huy Thiệp, người đọc phải lao vào một cuộc chơi mà ở đó tất cả đều
ở trong quan hệ bình đẳng, dân chủ”, trong đó, “Nguyễn Huy Thiệp với tư
cách là một nhà văn đã hoàn toàn mất thực quyền trong tác phẩm. Ông ta chỉ
có quyền tổ chức tác phẩm mà không có quyền lấy phát ngôn của mình định
giá cho các phát ngôn khác. Thiệp không trân trọng,

cũng không nhại, không
mỉa mai ai. Lời kể bao giờ cũng nghiêm túc, nghiêm túc đến dửng dưng. Lời
kể trong văn ông lược bỏ mọi thứ trang hoàng của giọng điệu, giảm thiểu đến
mức tối đa các trạng từ, tính từ tô điểm cho đối tượng. Câu văn dồn nén sự
kiện để phơi bày sự thật” [50, tr.278]
. Bên cạnh đó, “lối kể chuyện của của
Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn biến hình, ông không trú ở một góc khuất nào đó
như Nam Cao, cầm đèn soi rọi vào trái tìm người như Đốt, con người của ông
ẩn trốn từ người này đột nhiên chạy sang người khác, xóa hẳn tiếng nói của
riêng mình” [50, tr.280]. Chính sự bình đẳng của nhà văn đối với thế giới
hình tượng trong tác phẩm l
à cơ sở cho việc xây dựng người kể chuyện, quy
định diện mạo cũng như cách thức xây dựng loại hình tượng này trong từng
truyện. Nhà nghiên cứu La Khắc Hòa đưa ra một cách nhìn nhận khác về đặc
điểm người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, trong khi tìm
hiểu những dấu hiệu của chủ nghĩa Hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
qua
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Ông phát biểu: “Khó tìm
thấy nhân vật chính diện trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị
Hoài. Đọc truyện ngắn, truyện dài của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp
ta thường nghe thấy một giọng điệu kể chuyện lạnh lùng, khinh bạc, thậm chí
tàn nhẫn. Trong sáng tác của họ, nhân vật người kể chuyện nhiều khi xuất
hiện ở ngôi thứ nhất số ít, tự xưng “tôi
”, và có vẻ như không tiếc lời tự xỉ vả
bản thân. Cấu trúc ấy, giọng điệu ấy xem ra rất phù hợp với câu chuyện mà



họ mang đến cho người đọc. Nói đến sáng tác của Phạm Thị Hoài hoặc
Nguyễn Huy Thiệp, bao giờ tôi cũng nghĩ tới câu chuyện về một thế giới vô

nghĩa, vô hồn. “Thế giới vô hồn” là câu chuyện xuyên suốt toàn bộ sáng tác
của Phạm Thị Hoài. “Cuộc đời vô nghĩa” là tứ truyện chi phối mạch vận
động của câu chữ, hình ảnh trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp” [36]. Còn
Cao Kim Lan, tác giả của bài viết Lịch sử trong t
ruyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp Hậu hiện đại, thì nhận xét: “Có một
thao tác dễ nhận diện trong truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp là các biến
cố trong cuộc đời của nhân vật thường được tác giả kể bằng một giả thuyết
thiếu chắc chắn nhất (…) Như vậy, tác giả đã không cho người đọc có cơ hội
chìm đắm vào những diễn biến xảy ra trong truyện. Cảm giác bất khả tín
buộc độc giả phải tiếp cận với văn bản một cách tỉnh táo bằng tri thức tích

cực thay vì cảm xúc thụ động” [45]. Thực chất, ở đây, Cao Kim Lan đã ít
nhiều đề cập tới kiểu người kể chuyện không đáng tin cậy trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, một kiểu hình tượng được xem
là sáng tạo đặc sắc của
nhà văn trong thời kì đổi mới văn học. Với cố gắng đúc rút những đặc điểm
cơ bản nhất của nghệ thuật kể chuyện ở Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu
Bùi Việt Thắng đã cho rằng: “Thật ra nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Huy
Thiệp gần với lối viết sử (n
gắn gọn, chính xác, nhiều thông tin có tính liệt kê)
và đặc biệt sử dụng sáng tạo lối văn truyền kỳ (phối hợp cà văn xuôi - biền
văn – thơ tỉ lệ thơ trong truyện Nguyễn Huy Thiệp là rất đậm đặc) (…)
Nguyễn Huy Thiệp thích kể từ ngôi thứ nhất và đa số truyện hay đều được kể
từ ngôi này” [19, tr.777]. Và “nhân vật Tôi – người kể chuyện khá đa dạng:
là một công chức có cuộc sống trưởng giả no đủ (Chảy đi sông ơi), một kĩ sư
an phận, có phần nhu nhược (Tướng về hưu), hoặc là người tự do, không
nghề nghiệp (Con gái thủy thần), là nhà văn (
Tội ác và trừng phạt), một học
sinh tốt nghiệp phổ thông (Những người thợ xẻ)… Do người kể chuyện ở ngôi




thứ nhất khác nhau về nghề nghiệp, lứa tuổi, địa vị xã hội và văn hóa nên
“điểm nhìn” rất rộng, bao quát được các phạm vi của đời sống từ đỉnh cho
đến đáy”[19, tr.778-779]. Có thể nhận thấy, các ý kiến về hình tượng người
kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên đây đã đi vào khảo
sát hình tượng người kể chuyện có phần sâu sắc, khái quát, hệ thống và
dựa
trên nhiều quan điểm nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên chúng chỉ đóng vai trò
là một phần nhỏ trong mỗi bài viết của các tác giả và khá ngắn gọn, khái lược.
Nhìn chung, những nhận xét này cũng chỉ phần nào bổ sung thêm những cho
những quan điểm trước đó về người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp chứ chưa thực sự mang lại một cách nhìn toàn vẹn, đầy đủ.
Từ những ý kiến nghiên cứu về người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp đã gợi ý cho chúng tôi tìm hiểu về vấn đề này. Trên cơ sở
tiếp thu những bài viết có liên quan đến sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
chúng t
ôi muốn đi sâu vào tìm hiểu người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp và phát triển ý tưởng đó thành một luận văn nghiên cứu
khoa học.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp hệ thống
Đây là một trong những phương pháp cơ bản của thi pháp học. Trong
phạm v
i luận văn, chúng tôi áp dụng phương pháp này vào việc tìm hiểu
những yếu tố nghệ thuật làm nên diện mạo chung của người kể chuyện trong
truyện kể và phân tích mối liên hệ giữa chúng với nhau. Bên cạnh đó, chúng
tôi áp dụng phương pháp này trong việc nhìn nhận cách thức xây dựng người
kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong tương quan với nghệ

thuật xây dựng hình tượng này của thời kì văn học đổi mới sau kháng chiến
chống Mỹ nói
chung và trên tiến trình phát triển của thể loại văn xuôi tự sự
trong nền văn học dân tộc.



4.2 Phương pháp phân tích
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số dẫn
chứng trích ra từ các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp để minh họa cho
những nhận xét, lập luận của mình. Do đó, trong suốt quá trình thực hiện,
chúng tôi luôn vận dụng phương pháp phân tích để làm rõ các vấn đề được
nêu ra ở các chương.
4.3 Phương pháp thống kê
Khi khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi áp
dụng phương pháp thống kê để phân loại các hình thức ngôi kể và điểm nhìn
làm
cơ sở cho việc phân tích các đặc điểm của người kể chuyện ở các tác
phẩm.
5. Đóng góp của luận văn
Người kể chuyện là một phương diện nghệ thuật quan trọng,
không thể bỏ qua khi tìm hiểu tác phẩm văn xuôi. Hơn nữa, việc khám phá
những đặc điểm của người kể chuyện sẽ giúp chúng ta nhận diện được n
hiều
phương diện liên quan khác trong nghệ thuật tự sự của truyện kể. Khi thực
hiện luận văn này, chúng tôi không có tham vọng chỉ ra được tất cả những đặc
điểm của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, mà chỉ hy
vọng mang đến một cái nhìn toàn vẹn, chi tiết hơn về loại hình tượng này
trong các truyện kể của nhà văn. Qua đó, thấy được vai trò quan trọng của
nhân tố này trong việc định hướng cách thức tổ chức trần thuật trong tác

phẩm cũng như những nét đặc sắc tiêu biểu ở từng loại hình người kể ch
uyện.
Bên cạnh đó có thể góp phần khẳng định sự thành công nhất định của nhà văn
trong quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật miệt mài, nhìn nhận được diện
mạo riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong tiến trình sáng tác nói chung và trong
quá trình đổi mới nói riêng của văn học Việt Nam
.



6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, luận văn gồm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về người kể chuyện trong
tác phẩm tự sự.
- Chương 2: Người kể chuyện trong các truyện ngắn kể theo
ngôi thứ ba của Nguyễn Huy Thiệp.
- Chương 3: Người kể chuyện trong các truyện ngắn kể theo
ngôi thứ nhất của Nguyễn Huy Thiệp.























Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ

1.1 Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự
1.1.1 Vai trò của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự
Suốt một thời gian dài, khi nghiên cứu tác phẩm tự sự, các lý thuyết
văn học chỉ chú trọng đến việc khảo sát thế giới nghệ thuật được nhà văn xây
dựng bên trong đó. Các phương diện khác có liên quan đến “cuộc sống” của
tác phẩm văn học như tác giả, người đọc thì ít được chú ý và xem
trọng. Đến
khoảng thế kỷ thứ XIX – đầu thế kỷ XX, các nhà lý luận phương Tây đã chú
ý nhiều hơn đến việc khảo sát hai nhân tố người đọc và tác giả trong đời sống
văn học. Điều này đã làm thay đổi nhận thức trong việc cảm thụ văn học. Từ
đây, tiếp nhận văn học là một quá trình tương tác giữa ba thành tố cơ bản là
tác giả - tác phẩm – người đọc.
Song đến l
úc đó, vai trò của người kể chuyện vẫn chưa được nhìn nhận
một cách thỏa đáng trong quá trình vận động của đời sống tác phẩm văn học.
Dù nhân tố này có mối liên hệ mật thiết đối với tác giả thực tế, tức là nhà văn,

người trực tiếp sáng tạo nên tác phẩm văn học. Phải đến khi ngành nghiên cứ
tự sự học ra đời, phương diện người kể ch
uyện mới được chú ý đến một cách
hệ thống và toàn diện.
Tự sự học là một nhánh phát triển từ thi pháp học hiện đại, đặt trọng
tâm vào việc nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan
hay nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của nghệ thuật
tự sự để tìm
ra một cách đọc. Trong số các yếu tố trong cấu trúc văn bản tự
sự, người kể chuyện là yếu tố giữ vai trò trung tâm. Mọi nghiên cứu về nghệ



thuật tự sự đều ít nhiều phải động chạm đến phương diện này. Thêm vào đó,
các khái niệm cơ bản nhất của tự sự học như: điểm nhìn, tiêu điểm, người tiêu
điểm hóa, lời văn nghệ thuật, tình tiết tự sự….đều được phản ánh thông qua
người kể chuyện trong tác phẩm. Tương đương với thuật ngữ người kể
chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm tự sự cò
n được gọi bằng nhiều thuật
ngữ khác như: người trần thuật, người thuật chuyện, kẻ mang thông điệp, chủ
thể trần thuật, chủ thể kể chuyện…Trong luận văn, chúng tôi thống nhất chọn
dùng tên gọi người kể chuyện.
Theo các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, thì “người
trần thuật là một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành
vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành (
…) nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một
nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [25, tr.211-212]. Như vậy,
người kể chuyện là một hình tượng do nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm của
mình và văn bản tự sự chính là sản phẩm ngôn từ do hoạt động ngôn ngữ
nhân vật này xây dựng nên.

Còn theo nhà nghiên cứu Ngô Tự Lập thì người kể chuyện có vai trò
như một “kẻ mang thông điệp” chuyển tải những thông điệp từ người phát
ngôn đến người nhận: “Các thông điệp của một văn bản bao giờ cũng được
chuyển đi, trực tiếp hoặc gián tiếp, nhờ một hay một vài phát ngôn viên
(
speaker, hoặc narrator), mà tôi gọi là kẻ mang thông điệp: một người sĩ
quan ra mệnh lệnh, người kể chuyện trong tiểu thuyết, hay các đối tác ký vào
hợp đồng hợp tác kinh doanh…Những kẻ mang thông điệp có thể có thật hoặc
hư cấu” [48, tr.178]. Với một quan điểm rộng dựa trên nền của lý thuyết hội
thoại, tác giả của Văn chương như là quá trình dụng điển đã xác định được
vai trò quan trọng của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự: cầu nối trung
gian giữa tác giả, t
ác phẩm và người đọc. Thêm vào đó ông còn nhấn mạnh
“chính đặc điểm và mối quan hệ giữa thông điệp và kẻ mang thông điệp là



cái quyết định tính chất của văn bản”[48, tr.178] và “trong truyện, thông điệp
mang tính chất khái quát, và kẻ mang thông điệp là những nhân vật hư cấu”
[48, tr.180]. Quan điểm này thống nhất với các tác giả của Từ điển thuật ngữ
văn học ở trên.
Tác giả Lại Nguyên Ân lại đưa ra một định nghĩa khá sâu sắc về người
kể chuyện trong trần thuật tự sự: “Trần t
huật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi
được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái được miêu tả và
thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy
ra” [3, tr.360].Trong định nghĩa này, nhà lý luận một lần nữa khẳng định vai
trò cầu nối và dẫn dắt câu chuyện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự,
đồng thời nhấn mạn
h vai trò chứng kiến và giải thích của hình tượng này. Đây

là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện người kể chuyện trong các sáng
tác tự sự từ xưa đến nay.
Tác giả Lê Ngọc Trà đưa ra một quan niệm ngắn gọn hơn về người kể
chuyện, dựa trên mối quan hệ giữa chủ thể kể chuyện và lời kể trong tác phẩm
tự sự: “Người kể chuyện là chủ thể của lời kể ch
uyện, là người đứng ra kể
trong tác phẩm văn học” [86,tr.89]. Ở đây, định nghĩa đã nêu bật được vai trò
đặc trưng mang tính chức năng của người kể chuyện.
Với cách nhìn nhận đặt trong tương quan giữa người kể chuyện và kết
cấu tác phẩm
, nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương khẳng định: “Khái niệm
hình tượng tác giả (người kể chuyện – NV) nói lên bản chất của tác phẩm
nghệ thuật và là nơi tập trung sự thống nhất về tư tưởng, kết cấu, hình tượng
và ngôn từ của tác phẩm. Đó là phạm trù thi pháp cao nhất quyết định đặc
điểm và nội dung của cấu trúc tác phẩm, quyết định cả tính khuynh hướng và
sự triển khai tác phẩm đó” [26, tr.215]
. Có nghĩa là, người kể chuyện giữ vai
trò định hướng và quyết định đối với việc tổ chức các yếu tố trong cấu trúc
của một văn bản tự sự.



Mỗi định nghĩa khai thác khái niệm người kể chuyện ở một phương
diện khác nhau, nhưng tựu trung lại, chúng ta có thể khái quát được những
đặc điểm cơ bản sau về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự:
+ Người kể chuyện là một dạng hình tượng do tác giả hư cấu, sáng
tạo nên, là người đại diện phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm tự sự.
+ Trong phạm vi tác p
hẩm, người kể chuyện là chủ thể của lời kể,
là người đứng ra kể chuyện và là nhân tố trung tâm chi phối việc tổ chức, kết

cấu cấu trúc của văn bản tự sự.
+ Người kể chuyện giữ vai trò trung giới giữa tác giả, tác phẩm và
người đọc.
Tác phẩm tự sự nào cũng có hình tượng người kể chuyện của nó.
Không phải lúc nào người đọc cũng được thông báo về số phận riêng tư, diện
mạo hoặc mối quan hệ qua lại của người kể chuyện với các n
hân vật, hoặc vì
đâu, trong tình huống nào mà tiến hành kể chuyện. Nhiều khi người kể
chuyện tỏ ra khách quan không để lộ mối thiện cảm, ác cảm hay thái độ suy
nghĩ của mình. Nhưng bao giờ người đọc cũng cảm thấy được linh hồn của
người kể chuyện một cách rõ rệt, gần gũi. Người đọc nhận ra hì
nh tượng
người kể chuyện qua cái nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư duy, năng lực trí
tuệ và chất tình cảm của anh ta.
Người kể chuyện không phải là một phương diện thuần túy thuộc về
hình thức văn học mà là hiện thân của một hình tượng đặc biệt, gắn liền với tư
tưởng, thái độ của tác giả về hiện thực, về thế giới và con người.Tuy nhiên,
tác giả và hình tượng người kể chuyện là
hai thực thể độc lập. Một bên là chủ
thể sáng tạo, một bên là hình tượng nghệ thuật. Người kể chuyện mang trong
mình nó cả nhân vật và người kể.
Người kể chuyện là một trong những hình thức thể hiện quan điểm của
tác giả trong tác phẩm. Song quan điểm tác giả chỉ có thể được thể hiện qua



điểm nhìn, tầm nhận thức của người kể chuyện như một hình tượng ít nhiều
tồn tại độc lập. Người kể chuyện cũng có thể có tính cách như nội dung của
hình tượng. Khác với hình tượng nhân vật khác, tính cách của người kể
chuyện bộc lộ không chỉ qua việc trực tiếp tham gia vào hành động trong tác

phẩm, hay qua những lời giãi bày tâm sự của chính mình, mà chủ yếu qua thái
độ đối với thế giới câu chuyện được kể lại thông qua một điểm
nhìn được xác
định. Phần nào có thể nói đây là một loại “hình tượng thái độ”.
Tuy nhiên, không nên đồng nhất tác giả với người kể chuyện. Tác giả
không bao giờ hiện diện trong truyện kể như một người kể, người phát ngôn
mà chỉ xuất hiện như một tác giả hàm ẩn, một cái Tôi thứ hai của nhà văn với
tư cách
là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm. Tác giả
xuất hiện chỉ như người ghi chép hay nghe trộm người kể. Người kể chuyện
là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và sản phẩm của hành vi trần thuật đó
là văn bản tự sự.
Thêm vào đó, thái độ của người kể chuyện đối với thế giới câu chuyện
được kể lại có thể phần nào trùng với quan điểm của tác giả, n
hưng không bao
giờ trùng khít hoàn toàn. Thứ nhất, bởi vì quan điểm tác giả bao giờ cũng
rộng hơn, nó không thể được thể hiện một cách toàn diện qua bất kỳ một chủ
thể lời nói riêng biệt nào trong tác phẩm. Dù chủ thể lời nói đó có thể gần gũi
với tác giả đến đâu, mà chỉ có thể được thể hiện qua toàn bộ tác phẩm n

một chỉnh thể nghệ thuật. Thứ hai, bởi vì ngoài phần thái độ chủ quan được
thừa hưởng của tác giả, người kể chuyện mang trong mình cả một phần nội
dung khách quan của thế giới được phản ánh vào tác phẩm; phần nội dung
khách quan đó thường thể hiện một loại hình thái độ phản ứng với thực tại
điển hình cho thời đại của nhà văn được nhà văn tái hiện và m
iêu tả lại trong
tác phẩm của mình. Bất kỳ người kể chuyện nào về nguyên tắc là một “cái tôi




– được sáng tạo nên”, là sự thống nhất thuộc về tác giả với cái khách quan
ngoài tác giả để tạo nên cái “chúng ta” chung.
Ngay cả trong những tác phẩm có tính tự truyện thì giữa người kể
chuyện với tác giả vẫn có những nét khác nhau. Mặc dù tác phẩm tự truyện
thường lấy chính cuộc đời tác giả làm chất liệu sáng tác nhưng rõ ràng thế
giới tồn tại của người kể chuyện và thế giới tồn tại của nhân vật được kể lại là
hoàn toàn khác nhau – khác nhau về thời gian, về không gian, về cảm xúc, tư
tưởng. Người kể chuyện chỉ có thể ý thức lại được thế giới kia chứ không thể
thâm
nhập vào thế giới kia được. Những hành động, tâm trạng, cảm giác mà
người kể chuyện kể lại trong tác phẩm tự truyện có thể là của nhà văn nhưng
đó là những hành động, tâm trạng đã xảy ra với nhà văn trong quá khứ chứ
không phải là thời khắc hiện tại bây giờ. Thời gian trôi qua
dù ít, dù nhiều
cũng đã làm cho mọi chuyện không còn được kể nguyên như cũ trong tác
phẩm tự truyện.
Tương quan giữa cái chủ quan và cái khách quan trong người kể
chuyện liên quan đến vấn đề tạo khoảng cách giữa tác giả và thế giới được
miêu tả trong tác phẩm tự sự. Tính khách quan của cái được miêu tả không
loại trừ tí
nh tích cực chủ quan của chủ thể sáng tạo. Việc tạo khoảng cách
thực chất chỉ ngụy trang cho quan điểm của tác giả. Trên thực tế, việc tạo
khoảng cách giữa tác giả và thế giới được miêu tả lại có thể làm tăng thêm sự
chủ động của tác giả trong việc tổ chức tác phẩm.
Hình thức tạo khoảng cách giữa tác giả và mạch trần thuật qua người kể
chuyện đặc biệt qua
n trọng với một tác phẩm tự sự. Chính nhờ có hình thức
này mà tác giả có thể hiện hình tượng trong tác phẩm mà vẫn đảm bảo khoảng
cách với thế giới được miêu tả, đồng thời vừa gián cách vừa hướng đạo được
cho người đọc. Tạo khoảng cách như vậy thực chất lại có thể rút ngắn khoảng

cách giữa tác giả - tác phẩm
– người đọc. Hình thức tạo khoảng cách giữa tác



giả và người kể chuyện được phát huy hay không phụ thuộc vào tính chất của
cấu trúc trần thuật.
Để có được cái nhìn toàn diện về vai trò của người kể chuyện trong
tác phẩm tự sự, bên cạnh mối tương quan giữa loại hình tượng này đối với tác
giả - nhà văn, người kể chuyện cần được soi sáng từ chức năng tổ chức kết
cấu tác phẩm đặc trưng của anh
ta.
Mỗi tác phẩm văn học có thể có nhiều khả năng kết cấu và mỗi khả
năng kết cấu thích hợp với một quá trình khái quát nghệ thuật của người sáng
tác. Người kể chuyện phải thay mặt nhà văn cố gắng tìm cho mình một kết
cấu tối ưu để làm cho câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn được người đọc. Vai trò
tổ chức kết cấu tác phẩm của n
gười kể chuyện được thể hiện trên nhiều bình
diện, trước hết là ở khâu tổ chức hình tượng nhân vật. Người kể chuyện có thể
tổ chức các quan hệ của nhân vật theo hình thức đối lập, đối chiếu, tương
phản hoặc bổ sung. Anh ta có thể đóng vai người quan sát đứng ngoài tường
thuật lại những hành động của các nhân vật, hoặc “nhảy vào” tham gia vào
mạch truyện với tư cách một nhân vật – người kể chuyện. Có khi anh t
a xuất
đầu lộ diện, có khi lại ẩn mình đằng sau các nhân vật. Với nhiều thủ pháp
khác nhau, người kể chuyện sẽ giúp các nhân vật của mình bộc lộ tính cách
của chúng dưới những góc độ đa dạng, biến hóa. Qua đó, ý nghĩa của thế giới
hình tượng nghệ thuật được bộc lộ. Chức năng thứ hai của người kể chuyện là
tổ chức hệ thống sự kiện, liên kết chúng lại để tạo thành truyện. Với các cách
kể khác nhau, cách tổ chức hệ thống sự kiện khác nhau, người kể chuyện sẽ

hình thành nên các dạng cốt truyện khác nhau: cốt truyện tuyến tính, cốt
truyện tâm lí, cốt truyện “truyện lồng truyện”…. Chức năng tổ chức tác phẩm
của người kể chuyện còn được t
hể hiện ở việc kết cấu văn bản nghệ thuật. Đó
có thể là việc sắp xếp bố cục của trần thuật, việc tạo nên độ lệch giữa phạm vi
đầu cuối của trần thuật so với cốt truyện để tạo cho trần thuật những khả năng



biểu hiện. Đó cũng có thể là việc lựa chọn, kết hợp các thành phần trần thuật.
Hoặc là việc tổ chức điểm nhìn trần thuật…
Tóm lại, người kể chuyện có vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết cấu
tác phẩm. Chính Timofiev cũng khẳng định: “Hình tượng này có tầm quan
trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các
biến cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá

nhân người kể chuyện” [84, tr.44].
Là người đại diện phát ngôn, thể hiện quan điểm, tư tưởng của tác giả
trong tác phẩm, người kể chuyện đồng thời đóng vai trò trung giới giữa người
đọc với thế giới nghệ thuật hình tượng và tác giả. Người kể chuyện cung cấp
cho người đọc những dấu hiệu, chỉ dẫn để thâm
nhập sâu vào trong đời sống
của các nhân vật. Những dấu hiệu ấy có khi rõ nét, chi tiết, song cũng có lúc
rất cô đọng, ẩn chứa nhiều tầng bậc ý nghĩa. Các tầng bậc kể chuyện càng đa
dạng, phức tạp càng kích thích được khả năng đồng sáng tạo, trí tưởng tượng
phong phú ở độc giả. Người kể chuyện còn hướng người đọc cùng suy ngẫm,

chia sẻ và đồng cảm với những chiêm nghiệm, những suy nghĩ của mình về
cuộc đời. Những chiêm nghiệm, suy tư ấy có căn cứ từ trong văn bản tự sự,
trong thế giới hình tượng nhà văn xây dựng trong sáng tác của mình. Bằng

cách này, người kể chuyện cũng kéo người đọc đến gần hơn với những quan
niệm của tác giả về hiện thực, về nhân sinh. Trong nhiều t
rường hợp, người
kể chuyện còn tiến hành đối thoại, tranh luận với người đọc để cùng nhau
kiếm tìm, khám phá chân lí cuộc sống. Lúc này, người đọc không còn được
“dắt tay” bởi một người kể chuyện toàn tri. Người kể chuyện trở nên bình
đẳng với nhân vật, với người đọc của mình. Anh ta chỉ đưa ra những gợi ý,
chỉ kể mà không giải thích, không bộc lộ rõ thái độ của m
ình. Thậm chí điểm
nhìn của các nhân vật và người kể chuyện hoán chuyển cho nhau, tạo nên một
“ma trận” ngôn từ, ý tưởng đối với độc giả. Nhưng điều đó không có nghĩa là



người đọc không thể hiểu những gì tác giả viết, chỉ có điều anh ta phải tận
dụng nhiều hơn khả năng suy nghĩ và kinh nghiệm sống của mình. “Nhờ thay
đổi các chủ thể kể chuyện khác nhau, nhà văn tạo điều kiện cho cách nhìn
nhiều chiều về nhân vật, sự kiện, giảm bớt sự phụ thuộc vào quan điểm của
tác giả, tăng cường khả năng nghiền ngẫm của người đọc, đồng thời tránh
được lối kể đơn điệu t
heo một giọng từ đầu đến cuối tác phẩm” [86, tr.90].
1.1.2 Các yếu tố nhận diện người kể chuyện trong tác phẩm
tự sự
Hình tượng người kể chuyện trong văn xuôi tự sự có thể được nhà văn
miêu tả như một nhân vật có ngoại hình, tính cách
, biết suy nghĩ, biết đi lại
nói năng, giao lưu cùng các nhân vật khác. Song những phương diện nghệ
thuật gắn liền với hình tượng nhân vật lại không phải là đặc trưng thi pháp để
nhận diện người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Muốn nắm bắt được hình
tượng người kể chuyện trong một văn bản tự sự phải căn cứ vào ba khái niệm

cơ bản: điểm nhìn nghệ thuật, ngôi kể và lời kể.
a) Điểm nhìn nghệ thuật
Điểm
nhìn nghệ thuật (điểm nhìn) là “vị trí từ đó người trần thuật nhìn
ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm” [25, tr.112]. Điểm nhìn là vấn đề của
chính nghệ thuật kể chuyện, nó không chia sẻ với thơ ca hay văn học kịch.
Việc tổ chức kết cấu tác phẩm văn học phụ th
uộc vào yếu tố quan trọng này.
Chính điểm nhìn cho phép người kể chuyện soi sáng toàn bộ diễn biến câu
chuyện, quan hệ các nhân vật, trình bày nội dung trong những phối cảnh được
xem là hợp lý nhất. Có thể nói, điểm nhìn chính là nơi khởi nguồn cho việc
xây dựng cấu trúc nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Nó xác lập “điểm rơi” của
cái nhìn của chủ thể kể chuyện vào đối tượng trần thuật, vào thế giới khách

thể hư cấu được tái hiện trong sáng tác. Trong trường hợp này, hệ thống các
chi tiết, sự phân bố và kết nối thưa dày của các sự kiện, sự thay thế loại chi



tiết này bằng loại chi tiết khác trở thành biểu hiện của điểm nhìn nghệ thuật.
Đến lượt mình, điểm nhìn nghệ thuật biểu hiện qua các phương tiện nghệ
thuật, ngôi kể, cách xưng gọi sự vật, cách dùng từ ngữ, kiểu câu…Nó cung
cấp một phương diện để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật của tác
phẩm, nhận ra những đặc điểm phong cách, quan niệm về nghệ thuật và nhân
sinh của nhà văn. Liên quan đến vấn đề này, nhà nghiên cứu Huỳnh Như
Phương đã có một nhận xét xác đáng: “Sự trần thuật câu chuyện bao giờ cũng
được tiến hành từ một điểm nhìn nào đó. Kết cấu văn bản có liên quan mật
thiết đến điểm nhìn đó, nó liên kết ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ
trực tiếp của các nhân vật trong một mối thống nhất hỗ tương. Miêu tả mối
quan hệ hỗ tương đó sẽ góp phần làm sáng tỏ kết cấu ngôn từ của sự trần

thuật” [26, tr.201].
Tuy nhiên, cần phải nói rõ rằng, điểm
nhìn là một yếu tố thuộc về hình
thức nghệ thuật chứ không bao hàm các quan điểm chính trị, xã hội của nhà
văn. “Khi nói đến điểm nhìn, ở đây tôi thuần túy chỉ muốn xét
về mặt kỹ thuật
chọn chỗ đứng để nhìn và kể, chứ không bao hàm ý quan điểm tư tưởng chính
trị xã hội của người kể” [92, tr.212]. Thêm vào đó, điểm nhìn là điểm xuất
phát của một cấu trúc nghệ thuật chứ không phải là bản thân cấu trúc đó. Cấu
trúc nghệ thuật vốn là hằng số không đổi của những quan hệ của các yếu tố
nghệ thuật được lựa chọn để đưa vào tác phẩm. Điểm
nhìn nghệ thuật chiếu
cái nhìn vào các yếu tố được lựa chọn, thêm bớt hoặc nhấn mạnh và chỉ được
suy ra từ cái nhìn tổng thể đối với tác phẩm nghệ thuật, theo yêu cầu của
người tiếp nhận. Nhưng, thông qua việc lựa chọn điểm
nhìn của nhà văn,
người đọc vẫn ít nhiều cảm nhận được tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của
anh ta. “Có thể nói rằng, chính điểm nhìn trần thuật của nhà văn trong tác
phẩm là một phương tiện thể hiện đắc lực tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của
tác giả. Sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật của nhà văn quyết định một phần

×