Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

HIỆN TRẠNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU CÁC TÁC ĐỘNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG CHO NGÀNH THAN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.64 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
  
MÔN HỌC: QUẢN LÝ BỀN VỮNG CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG
BÀI TIỂU LUẬN:
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG
VÀ BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU CÁC TÁC ĐỘNG
ĐẾN MÔI TRƯỜNG CHO NGÀNH THAN Ở VIỆT NAM
Giảng viên : GS.TS. Lê Chí Hiệp
Học viên: Nguyễn Thị Thùy Dương
MSHV : 1080100012
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2011
MỤC LỤC
Mở đầu 3
Chương I
NHỮNG KHÁI NIỆM VÀ HIỂU BIẾT CHUNG VỀ THAN ĐÁ
I. Khái niệm chung 5
II. Than đá 5
Chương II
TRỮ LƯỢNG VÀ TÌNH HÌNH KHAI THÁC SỬ DỤNG THAN
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
I. Trữ lượng than đá trên thế giới 7
1.1 Tình hình phân bố than trên thế giới 7
1.2 Hiện trạng sử dụng 10
II. Trữ lượng than ở Việt Nam 11
2.1 Sơ lược về lịch sử khai thác than ở Việt Nam 11
2.2 Trữ lượng than ở Việt Nam 14
III. Ứng dụng của than trong đời sống và sản xuất 17
IV. Những tác động của việc khai thác và sử dụng than đến môi trường 20
4.1 Trong quá trình khai thác ở Việt Nam 20
4.2 Ô nhiễm môi trường trong quá trình sử dụng 25


V. Giải pháp 27
5.1 Đối với các mỏ khai thác than 27
5.2 Đối với các hoạt động sử dụng than làm nhiên liệu 28
Chương III
NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
I. Nhận xét 33
II. Kết luận 34
Tài liệu tham khảo 35
2
MỞ ĐẦU
Năng lượng có một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống của loài người.
Không kể đến năng lượng sống để tồn tại, thì bất cứ mặt nào trong đời sống của con
người cũng cần đến năng lượng. Từ việc sử dụng các phương tiện đi lại, ánh sáng,
nước, sửa ấm, làm mát, giải trí … đều cần dùng đến năng lượng và để đáp ứng được
nhu cầu ngày càng cao của mình thì mỗi ngày lượng năng lượng tiêu thụ ấy càng lúc
càng tăng cao vì vậy có thể nói, khủng hoảng năng lượng đang làm cho cuộc sống của
con người khủng hoảng theo, bên cạnh đó nó cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều
lĩnh vực trong xã hội từ vấn đề quân sự đến kinh tế, ngoại giao, môi trường … đều bắt
nguồn từ các cuộc khủng hoảng này. Tuy việc tranh giành các nguồn năng lượng có
nguy cơ cạn kiệt diễn ra ngày một khốc liệt trên thế giới, những việc quan tâm, tuyên
truyền, giáo dục con người sống một cách hài hòa hơn với việc sử dụng năng lượng
hợp lý và hiệu quả lại chưa được quan tâm, chú trọng điều đó không thể khiến cho các
vấn đề năng lượng được giải quyết ổn thỏa, Vì vậy trong tương lai điều quan trọng
của toàn thế giới chính là hướng xã hội loài nguồi tới ý thức sử dụng một cách bền
vững các nguồn năng lượng trên trái đất.
Trong quá trình phát triển của con người từ ngàn xưa thì một trong những loại
năng lượng được sử dụng phổ biến nhất, lâu đời nhất chính là nguyên liệu hóa thạch
mà trong đó than đá đứng thứ hai chiếm khoảng 26,6% trong lượng nguyên liệu hóa
thạch trên trái đất và cũng đóng góp một phần khá quan trọng trong đời sống con
người. Than đóng góp một phần rất lớn vào nguồn năng lượng được tạo ra trên thế

giới, hàng năm than cung cấp 23% nguồn năng lượng chính toàn cầu và trong lượng
than được sử dụng thì có tới 60% là phục vụ cho sản xuất điện và chiếm 38% lượng
điện được sản xuất ra trên toàn cầu. Đồng thời, than đóng một vai trò quan trọng trong
sản xuất thép, chiếm 70% sản lượng thép được sản xuất trên thế giới. Than được tiêu
thụ trên thế giới được phân chia như sau: Các nước thuộc OECD chiếm 51% trong
tổng lượng tiêu thụ than cứng, các nước có nền kinh tế chuyển đổi là 9% và 40% là tỉ
lệ của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà than đá mang
lại thì những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến môi trường cũng ngày một lớn, ngoài là
một nguồn năng lượng không có khả năng tái tạo, việc khai thác quá mức than cũng
như các nguồn năng lượng hóa thạch còn là nguyên nhân có thể làm rỗng đàn vỏ trái
đất và khiến cho cường độ các cuộc động đất có thể mạnh hơn và sử dụng than trong
hoạt động sản xuất cũn là nguồn phát sinh CO
2
ô nhiễm môi trường, hàng năm cũng
3
có hàng trăm vụ tai nạn lao động chết người trên trái đất vì việc khai thác than không
an toàn …
Việt Nam là một trong những quốc gia có trữ lượng than lớn trên thế giới, với
ước tính có khoảng 4 tỷ tấn than Antraxit. Với trữ lượng than phân bố chủ yếu là ở độ
sâu dưới 500m trong khi lượng than ở các mỏ lộ thiên lại rất nhỏ, khoảng 300 triệu
tấn nên gặp không ít khó khăn trong việc khai thác. Hơn nữa, Việt Nam có trữ lượng
khoảng 17 tỷ tấn than nâu thích hợp cho việc sử dụng trong các ngành công nghiệp
nồi hơi, nhưng phần lớn lượng than này nằm dưới Đồng bằng châu thổ sông Hồng nên
số than này sẽ rất khó khăn trong việc khai thác do việc ảnh hưởng đến diện tích đất
nông nghiệp và ảnh hưởng của lượng nước ngầm cao. Than Antraxit nằm chủ yếu ở
vùng mỏ Quảng Ninh còn than nâu chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Hồng.
Ngành than là một bộ phận của nền kinh quốc dân thống nhất, phát triển của
ngành than phải đặt trong sự phát triển của các ngành liên quan và đặt trong tổng thể
phát triển của nền kinh tế và xã hội. Ngành than là một trong những ngành công
nghiệp mang tính chất hạ tầng và là nguồn cung cấp đầu vào phục vụ cho nhiều ngành

kinh tế khác. Mang tính chất là một ngành công nghiệp hạ tầng nên ngành cần có tính
chất đặc thù cho cả đầu tư phát triển nội ngành và cả con người, đảm bảo cho ngành
than Việt Nam phát triển một cách bền vững, chắc chắn và đồng bộ với các ngành nó
phục vụ.
Vì vậy, việc nghiên cứu về than đá, về các vấn đề như trữ lượng, lợi ích, tác hại
của than đá sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan và đưa ra những dự báo chính xác
cũng như việc quản lý, sử dụng một cách có tính toán, khoa học, hợp lý và bền vững
hơn đối với nguồn năng lượng hóa thạch này trong tương lai, ngoài ra việc tìm ra các
giải pháp phù hợp vấn đề quản lý, sử dụng than đá hay những giải pháp thay thế khác
đều cần có sự hiểu biết về bản thân nó, đề tài “ Hiện trạng khai thác, sử dụng và các
biện pháp giảm thiểu những tác động đến môi trường của ngành than ở Việt Nam”
được lựa chọn để đi sâu tìm hiểu trong yêu cầu tiểu luận của môn “ Quản lý và sử
dụng bền vững nguồn năng lượng”
4
Chương I
NHỮNG KHÁI NIỆM VÀ HIỂU BIẾT CHUNG VỀ THAN ĐÁ
I. Khái niệm chung:
Năng lượng là gì?
"Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ hai nguồn chủ yếu:
Năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất".
Năng lượng mặt trời tạo tồn tại ở các dạng chính: bức xạ mặt trời, năng lượng
sinh học (sinh khối động thực vật), năng lượng chuyển động của khí quyển và thuỷ
quyển (gió, sóng, các dòng hải lưu, thuỷ triều, dòng chảy sông ), năng lượng hoá
thạch (than, dầu, khí đốt, đá dầu). Năng lượng lòng đất gồm nhiệt lòng đất biểu hiện ở
các các nguồn địa nhiệt, núi lửa và năng lượng phóng xạ tập trung ở các nguyên tố
như U, Th, Po,
Phát triển bền vững:
Sự phát triển trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm
ảnh hưởng đến việc thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai.
Năng lượng hóa thạch:

Là năng lượng được sinh ra trong quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch. Nhiên
liệu hóa thạch chủ yếu là than đá và dầu mỏ. Như chúng ta đã biết, việc tạo ra than đá
và dầu mỏ là 1 quá trình xảy ra hàng triệu năm. Đó là quá trình cây cối và các chất
hữu cơ khác bị vùi lấp lâu ngày phân hủy tạo nên. Vậy khi đốt cháy nhiên liệu hóa
thạch thì sẽ xảy ra việc phát thải khí CO
2
, lượng CO
2
này hàng triệu năm sau các loại
thực vật mới hấp thụ hết để tạo sự cân bằng CO
2
. Người ta coi nhiên liệu hóa thạch là
nhiên liệu không tái tạo.
Năng lượng tái tạo:
Có nhiều dạng năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, địa nhiệt, thủy triều,
năng lượng sinh ra khi đốt cháy các loại nhiên liệu như trấu, bã mía
5
II. Than đá:
Khái niệm về than đá
Than đá là một loại nhiên liệu hóa thạch được hình thành ở các hệ sinh thái đầm
lầy nơi xác thực vật được nước và bùn lưu giữ không bị ôxi hóa và phân hủy bởi sinh
vật (biodegradation). Thành phần chính của than đá là cacbon, ngoài ra còn có các
nguyên tố khác như lưu huỳnh. Than đá, là sản phẩm của quá trình biến chất, là các
lớp đá có màu đen hoặc đen nâu có thể đốt cháy được. Than đá là nguồn nhiên liệu
sản xuất điện năng lớn nhất thế giới, cũng như là nguồn thải khí carbon dioxide lớn
nhất, được xem là nguyên nhân hàng đầu gây nên hiện tượng nóng lên toàn cầu. Than
đá được khai thác từ các mỏ than lộ thiên hoặc dưới lòng đất (hầm lò).
6
Chương II
TRỮ LƯỢNG VÀ TÌNH HÌNH KHAI THÁC SỬ DỤNG THAN

TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
I. Trữ lượng than đá trên thế giới:
1.1 Tình hình phân bố than trên thế giới:
Trữ lượng than của cả thế giới vẫn còn cao so với các nguyên liệu năng lượng
khác ( dầu mỏ , khí đốt ). Được khai thác nhiều nhất ở Bắc bán cầu , trong đó 4/5
thuộc các nước sau : Hoa Kì, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Úc, Đức, Ba Lan, Canada ,
sản lượng than khai thác là 5 tỉ tấn/năm.
Than được dùng làm nguồn năng lượng phục vụ nhu cầu của con người từ hàng
ngàn năm nay, trên thế giới cũng như Việt Nam, than được dùng làm chất đốt trong
sinh hoạt, là nguyên liệu phục vụ trong các ngành công nghiệp luyện kim, hóa chất,
sành sứ và thủy tinh… Kể từ cuộc khủng hoảng năng lượng vào những năm thập niên
70 đến nay, nhu cầu sử dụng nguồn năng lượng thương mại không ngừng được tăng
lên với mức tăng khoảng 60%, trong dó 1/4 nguồn năng lượng được cung cấp từ than.
Trên thực tế thì than vẫn là nguồn năng lượng hóa thạch có trữ lượng lớn nhất trong
các nguồn năng lượng hóa thạch khác như dầu mỏ, khí đốt, Uran, với trữ lượng chiếm
khoảng 68% nguồn trữ lượng của năng lượng hóa thạch. Trong lòng trái đất đang có
một trữ lượng than khổng lồ mà chưa thể khai thác hết được, theo dự báo của Cơ quan
năng lượng thế giới – IEA thì tổng lượng than khoáng sản của thế giới hiện nay vào
khoảng 1089 tỷ tấn và được nằm rải rác trên khắp trái đất. Các quốc gia có trữ lượng
than lớn trên thế giới là Mỹ 25%, Liên Xô cũ 23%, Trung Quốc 12%, các quốc gia Ấn
Độ, Australia, Nam Phi, Đức có tổng trữ lượng chiếm 29% và phần còn lại là các
nước khác trên thế giới.
7
Biểu đồ: Phân bố trữ lượng Than khoáng sản trên thế giới
Sản lượng than toàn thế giới
Năm Sản lượng (triệu tấn)
1950 1820
1960 2630
1970 2936
1980 3770

1990 3387
2003 5300
Bảng: Sản lượng than trên toàn thế giới từ năm 1950 - 2003
Nếu tính toán theo lượng tiêu thụ năng lượng năm 1999 thì dầu lửa còn đủ sử
dụng trong 41 năm, khí gas thiên nhiên 62 năm, riêng than đá 230 năm.
Điều cần chú ý ở đây là lượng tiêu thụ năng lượng được lấy làm cơ sở tính toán là
năm 1999, không thể tính toán chính xác do nhu cầu về năng lượng trong tương lai sẽ
tăng nhanh với nguồn tài nguyên có hạn sẽ càng chóng làm cạn kiệt nguồn năng
lượng.
Nếu chỉ sử dụng năng lượng tự nhiên (tính theo lượng sử dụng nhiên liệu năm
1999) thì dầu lửa còn đủ sử dụng 16,6 năm, khí gas thiên nhiên 14,9 năm, than đá 58
năm; tổng cộng chỉ còn đủ sử dụng trong vòng 90 năm.
Đương nhiên trong tương lai lượng tiêu thụ nhiên liệu tăng lên sẽ làm nguồn
năng lượng càng chóng cạn kiệt. Số lượng tài nguyên than đá còn lại có khả năng khai
thác được do BP công bố gần đây thì: nếu mức tiêu thụ vẫn trên đà giống như năm
2004 thì dầu lửa / khí thiên nhiên / than đá còn 40.5 năm / 66.7 năm / 164 năm nữa.
8
Về than đá, trữ lượng xác nhận có thể khai thác căn cứ theo cách tính này đều
dựa vào con số báo cáo của WEC năm 2003 là 909,6 tỷ tấn, mới đây WEC cũng đã
báo cáo bản thống kê năm 2006 . Theo như vậy thì trữ lượng có thể khai thác được là
847,5 tỷ tấn .Nếu chia theo lượng sản xuất năm 2005 thì còn khoảng 143 năm nữa .
Theo báo cáo của BP statistical Review 2004, tính đến năm 2004 thì trữ lượng
than trên toàn thế giới là 984 tỷ tấn trong đó 50% than Antraxit và 50% là than nâu,
chỉ có thể được trong 192 năm nữa. Tiềm năng cung cấp năng lượng tự nhiên cho
chúng ta thấy lượng tài nguyên năng lượng hóa thạch còn tồn tại bao nhiêu.
Các quốc gia Mỹ, Cộng đồng các quốc gia độc lập và Trung Quốc là có trữ
lượng lớn nhất (chiếm trên 50% trữ lượng than của thế giới), một số quốc gia có trữ
lượng than như: Ấn Độ là 90 tỷ tấn, Úc là 90 tỷ tấn và Nam phi là 50 tỷ tấn than…
Bảng: Phân bố trữ lượng than trên thế giới năm 2004
(Nguồn: BP statistical Review 2004)

Trong hơn 50 năm qua, sản lượng than được khai thác và tiêu thụ trên thế giới
tăng lên gấp 3 lần, cùng với các giao dịch và buôn bán than trên thế giới được mở
rộng nên đã tăng hệ số sử dụng than trong ngành năng lượng, giảm được sức ép lên
dầu mỏ. Nhờ việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình khai thác ở các mỏ than
nên sản lượng sản xuất của năm sau luôn lơn hơn năm trước, đấy cũng là một phần
của nguyên nhân vì sao giá than trên thị trường ít có biến động lớn so với giá của các
nguồn năng lượng khác. Mỗi năm ước tính con người moi từ lòng đất lên hơn 3 tỷ tấn
than.
9
1.2 Hiện trạng sử dụng:
Dự đoán trong tương lai, trong khoảng năm 2005 đến 2030 các nước phát triển
sẽ tiêu thụ khoảng 74% lượng gia tăng tiêu thụ năng lượng tự nhiên trên thế giới.
So sánh tỉ lệ tiêu thụ năng lượng trong tương lai, lấy mốc năm 2005 là gốc, có
thể nhận thấy vào thời điểm năm 2030 lượng khí thiên nhiên sẽ tăng gần đến mức
1.7%, than đá sẽ tăng suốt với mức độ khoảng 2.9%, dầu lửa giảm khoảng 3.5%.
Tuy nhiên ước tính tỷ lệ lượng nhiên liệu hóa thạch sẽ tăng từ 80.9% lên 82.0%.
Đặc biệt là than đá, nhu cầu sử dụng dự tính tăng mạnh lên tới 73% .
Nhận xét:
Dựa vào biểu đồ phân bố trữ lượng than trên thế giới, có thể thấy trữ lượng than
hiện nay còn nhiều nhất là ở Hoa Kỳ và Trung Quốc. Có thể nói, tiềm năng về năng
lượng cũng chính là một trong những thước đo để phát triển và gia tăng sức mạnh về
kinh tế cũng như quân sự, vì vậy việc phát triển một chính sách về năng lượng hợp lý
cũng chính là một cách để bảo đảm được tiềm lực này một cách hiệu quả. Chưa nói
đến những tác động về môi trường, thì có thể thấy than là một trong những nguồn
năng lượng có sức ảnh hưởng to lớn đến đời sống, vì vậy việc khai thác sử dụng than
hiệu quả cũng là cách để phát triển nền kinh tế một các khoa học hơn. Hiện nay, việc
khai thác than ngày càng được gia tăng và thúc đẩy bởi các công nghệ kỹ thuật mới và
cả những lợi ích không thể phủ nhận của nó, vì vậy tuy hiện tại giá than chỉ có sự biến
động nhỏ, nhưng với lượng tài nguyên ngày càng cạn kiệt thì chẳng mấy chốc than
cũng sẽ có những tác động trực tiếp đến những biến động về năng lượng trên thị

trường thế giới. Chính vì thế, việc xem xét trữ lượng và các vị trí khai thác ở các khu
vực khác nhau trên thế giới sẽ giúp các nước có cái nhìn tổng thể để điều chỉnh việc
sử dụng và khai thác hợp lý hơn.
1.3 Hiện trạng trữ lượng và sử dụng tại một số nước trong khu vực:
Tổng lượng xuất khẩu than điện của các nước Châu Á – Thái Bình Dương năm
2007 đạt khoảng 680 triệu tấn trong đó: Australia xuất 250 triệu tấn (có 112 triệu tấn
than cho điện); Indonexia xuất 196 triệu tấn (có 125 triệu tấn cho điện). Tổng lượng
nhập khẩu than điện của các nước Châu Á – Thái Bình Dương năm 2007 khoảng 425
triệu tấn bằng 63% tổng lượng than buôn bán trên thế giới bằng đường biển. Trong
đó: Nhật Bản nhập 112 triệu tấn, Hàn Quốc nhập 66 triệu tấn, Trung Quốc nhập 51
triệu tấn, Ấn Độ nhập 45 triệu tấn, Malaixia nhập 11 triệu tấn, Thái Lan 11 triệu tấn.
Trong tương lai, do vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng các nước sẽ tăng sử dụng
than trong nước, hạn chế xuất khẩu than ví dụ như Indonexia từ năm 2010 chỉ duy trì
10
xuất khẩu ở mức 150 triệu tấn than năng lượng/năm. Trong khi đó thị trường nhập
khẩu than truyền thống từ Indonexia và Australia đã được phân chia từ trước. Ví dụ:
Năm 2007 Australia xuất khẩu 101 triệu tấn than butum, thị phần được chia như sau:
Nhật 57 triệu tấn (56,5%); Đài Loan 15,5 triệu tấn (15,4%); Hàn Quốc 13,7 triệu tấn
(13,7%); các nước khác 14,5 triệu tấn (14,4%)(*). Indonexia năm 2007 xuất khẩu
145,6 triệu tấn than bitum, với thị phần chia như sau: Nhật 28,7 triệu tấn (19,7%);
Hàn Quốc 23,9 triệu tấn (16,4%); Đài Loan 20,5 triệu tấn (14,1%); Ấn Độ 18,2 triệu
tấn (12,5%); Hồng Kông+Trung Quốc 16 triệu tấn (11%); các nước ĐNÁ 19,4 triệu
tấn (13,3%); các nước khác 18,9 triệu tấn (13%)(**). Việt Nam trong quan hệ thương
mại với các nước cũng chỉ có thể nhập khẩu tối đa tới vài chục triệu tấn than cho điện.
(Ghi chú: (*) Nguồn: Tổng cục thống kê Astralia; (**) Nguồn BTS ltd)
Nhận xét:
Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương việc sử dụng than vào mục đích cung
cấp điện là khá phổ biến. Hầu hết các nước ở khu vực này đều vừa phải đáp ứng nhu
cầu than trong nước vừa phải đáp ứng cho việc xuất khẩu than vì vậy việc khai thác
than ở các nước đều ngày càng tăng sản lượng theo từng năm, tuy nhiên hiện nay với

trữ lượng than ngày càng giảm dần đi (tuy chưa đến mức nghiêm trọng) nhưng để
đảm bảo cho tương lai thì việc phải hạn chế sử dụng than cho phát triển điện cũng cần
được xem xét, kiềm chế và tìm một xu hướng giải quyết khác. Vừa phải thúc đẩy việc
khai thác trong nước mà vừa phải hạn chế việc phát triển và mở rộng của các nhà máy
nhiệt điện chạy bằng than.
II. Trữ lượng than ở Việt Nam:
2.1 Sơ lược về lịch sử khai thác than tại Việt Nam:
Than đá ở Quảng Ninh là loại than Antraxit có tỷ lệ độ tro 19,09%, tỷ lệ các bon
91,72% nhiệt lượng trên 8.200 Kcalo/kg (theo tính toán của Cục địa chất Việt Nam
năm 1994). Than Quảng Ninh chiếm 90% trữ lượng than cả nước, được phát hiện và
khai thác rất muộn từ đầu thế kỷ XIX (trên thế giới, than đá được phát hiện và khai
thác khoảng 3.000 năm). Theo sử sách ghi lại: Vào đầu thế kỷ XIX, nhất là bắt đầu từ
Triều Minh Mạng (1820) than đá khai thác. Năm 1937, Bộ công sai Triều Nguyễn vận
chuyển 10 vạn cân than (tương đương với 80 tấn) ở Đông Triều để chuyển về kinh đô
Huế .
Tháng 12 năm 1839, năm Minh Mệnh thứ 39. Tổng đốc Hải An là Tôn Thất Bật
dâng sớ lên triều Nguyễn, xin thuê dân công khai thác than đá ở núi Yên Lãng (thuộc
xã Yên Thọ - Đông Triều ngày nay). Dưới thời vua Tự Đức (1846-1884), công việc
11
khai thác than đá được chú ý hơn, triều đình đã cho dịch một tài liệu về phương pháp
khai thác than, lấy tên là khai môi yếu pháp để phổ biến cho những người làm mỏ.
Trong thời gian này đã tiến hành khai thác than ở vùng Mạo Khê - Đông triều dưới
hình thức trưng khai, sản xuất mang tính thủ công là chính. Mỏ than Mạo Khê được
giao cho một nhà buôn người Hoa là Vạn Lợi (sau gọi là Văn Lôi) trưng khai.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, sau hiệp ước ký với triều
đình nhà Nguyễn năm 1874, thực dân Pháp ở Đông Dương đã ép buộc triều đình nhà
Nguyễn thoả thuận cho chúng được phái các đoàn “chuyên gia kỹ thuật” ra Bắc kỳ để
thăm dò mỏ trước khi triều đình nhà Nguyễn chưa ký giấy bán khu mỏ, năm1879 nhà
Nguyễn cho một người Pháp là Bô đi ê vào trưng khai mỏ Đam Khê Đông Triều, một
người Thanh và một người Phổ vào khai thác mỏ Mạo Khê theo đó trong các năm

1880; 1881 các kỹ sư người Pháp gồm: Phuýt-sơ (Fuchs), Xa-la-đanh (Saladin), Xa-
răng (Sarran) đã tiến hành khảo sát vùng trầm tích chứa than ở địa phận Đông triều,
Hòn Gai, Cẩm Phả thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Đến năm 1882, kỹ sư Phuýt-sơ
đã lấy mẫu than ở Hà Lầm (trong vùng mỏ Hòn Gai) để đưa về Pa-ri phân tích hoá
nghiệm và chính thức lập bản đồ địa chất Đông Dương tỷ lệ 1: 4.000.000. Trên đó
ông ta đã sơ lược vạch ranh giới phía nam của trầm tích chứa than thuộc các địa phận
trên.
Ngày 12/3/1883, thực dân Pháp đem quân đánh chiếm khu mỏ Hòn Gai - Cẩm
Phả, ngày 24/4/1884 thực dân Pháp đã ép buộc triều đình nhà Nguyễn làm “văn tự”
bán mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả (lúc đó gọi là Hòn Gấc), với diện tích 21.932 héc-ta cho
Tư bản Pháp. Đến năm 1888 triều đình nhà Nguyễn bán tiếp khu mỏ than Mạo Khê -
Đông Triều cho thực dân Pháp.
Tháng 9 năm 1884, thực dân Pháp ở Đông Dương đã thành lập và cho ra đời Hội
khai khoáng Bắc kỳ, cũng vào năm đó các xí nghiệp khai thác than của thực dân Pháp
bắt đầu đi vào hoạt động khai thác mỏ tại Hòn Gai, Cẩm Phả, Mạo Khê Đông Triều.
Năm 1898 chính quyền bảo hộ Pháp ở Hà Nội cho thành lập Sở Địa chất Đông
Dương, kể từ đây công cuộc khai thác than đá của các chủ mỏ tư bản Pháp ở vùng đất
Quảng Ninh được diễn ra với quy mô ngày một lớn, để mang lợi nhuận về làm giàu
cho chính quốc (nước Pháp). Nghề khai thác than ở Quảng Ninh do chủ Tư bản Pháp
trực tiếp thực hiện, mạnh nhất vào năm 1939 quá trình này được chia làm 3 giai đoạn
sau:
Giai đoạn I: Từ năm 1888 – 1900 làm công tác thăm dò, khảo sát và chuẩn bị cơ
sở vật chất cho khai thác thử. Năm 1890 bắt đầu khai thác đạt 3.000 tấn, cuối năm
1900 đạt sản lượng 201.000 tấn than.
12
Giai đoạn II: Từ 1901 – 1914 mở rộng khai thác, ra đời nhiều Cty khai thác than.
Cuối năm 1914 đạt sản lượng 604.000 tấn.
Giai đoạn III: Từ năm1915 – 1939 đẩy mạnh khai thác, các Cty mỏ cạnh tranh
khốc liệt để giành quyền khai thác mỏ. Năm 1918 mới đạt 637.000 tấn, đến cuối năm
1939 sản lượng than khai thác ở Quảng Ninh đã đạt 2.515.000 tấn tăng gấp gần 4 lần

năm 1918, chiếm trên 96% tổng sản lượng than đá khai thác ở Đông Dương
(2.615.000 tấn), tăng khoảng 900 lần so với năm 1890; riêng Cty Bắc Kỳ SFCT
(Sociéte Francaise des Charboneges du TonKin ), Cty khai thác than lớn nhất Đông
Dương thời kỳ đó, đã đạt sản lượng 1.810.000 tấn.
Cũng vào thời gian này, một nhà tư sản Việt Nam tên là Bạch Thái Bưởi cũng
tiến hành đầu tư mở mỏ khai thác than ở Thác Than ( Yên Than huyện Tiên Yên ngày
nay) nhưng không cạnh tranh nổi với Cty Than mỏ Bắc Kỳ SFCT của Pháp nên bị
phá sản.
2.2 Trữ lượng than ở Việt Nam:
Có 5 loại chính:
- Than antraxit
- Than mỡ
- Than bùn
- Than ngọn lửa dài
- Than nâu.
a. Than antraxit:
Trữ lượng than đá được đánh giá là 3,5 tỷ tấn. Trong đó ở vùng Quảng Ninh trên
3,3 tỷ tấn (tính đến độ sâu – 300m); còn lại gần 200 triệu tấn là rải rác ở các tỉnh: Thái
Nguyên, Hải Dương, Bắc Giang …
Bể than Quảng Ninh được phát hiện và khai thác rất sớm, đã bắt đầu cách đây
gần 100 năm dưới thời thuộc Pháp. Hiện nay và có lẽ trong tương lai, sản lượng than
khai thác từ các mở ở bể than Quảng Ninh chiếm khoảng 90% sản lượng than toàn
quốc.
Tính chất đặc trưng của than Antraxit tại các khoảng sản bể than Quảng Ninh là
kiến tạo rất phức tạp, tầng chứa than là những dải hẹp, đứt quãng dọc theo phương
của vỉa, góc dốc của vỉa thay đổi từ dốc thoải đến dốc đứng (9
o
– 51
o
). Các mỏ than có

nhiều vỉa với cấu tạo và chiều dày của vỉa thay đổi đột ngột.
Đối với việc khai thác than ở bể Quảng Ninh trước đây, có thời kỳ sản lượng lộ
thiên đã chiếm đến 80%, tỷ lệ này dần dần đã thay đổi, hiện nay còn 60%, trong tương
13
lai sẽ còn xuống thấp hơn. Vì các mỏ lộ thiên lớn đã và sẽ giảm sản lượng, đến cuối
giai đoạn 2015-2020 có mỏ không còn sản lượng; các mỏ mới lộ thiên lớn sẽ không
có, nếu có là một số mỏ sản lượng dưới 0,5-1 tr.T/n. Tỷ lệ sản lượng than hầm lò tăng,
nói lên điều kiện khai thác khó khăn tăng, chi phí đầu tư xây dựng và khai thác tăng,
dẫn tới giá thành sản xuất tăng cao. Cho nên, tuy trữ lượng địa chất của bể than
Quảng Ninh là trên 3 tỷ tấn, nhưng trữ lượng kinh tế là 1,2 tỷ tấn và trữ lượng công
nghiệp đưa vào quy hoạch xây dựng giai đoạn từ nay đến 2010-2020 mới ở mức 500-
600 triệu tấn. Mức độ khai thác xuống sâu là -150m. Còn từ -150m đến -300m, cần
phải tiến hành thăm dò địa chất, nếu kết quả thăm dò thuận lợi, thiết bị và công nghệ
khai thác tiên tiến, việc đầu tư cho mức dưới -150m sẽ được xem xét vào sau năm
2020.
Ngoài ra, còn có trữ lượng than đá antraxit khác nằm rải rác ở các tỉnh: Hải
Dương, Bắc Giang, Thái Nguyên, Sơn La, Quảng Nam, với trữ lượng từ vài trăm
nghìn tấn đến vài chục triệu tấn. ở các nơi này, quy mô khai thác thường từ vài nghìn
tấn đến 100-200 ngh.T/n. Tổng sản lượng hiện nay không quá 200 ngh.T/năm.
b. Than mỡ :
Trữ lượng tiềm năng được đánh giá sơ bộ là 27 triệu tấn, trong đó trữ lượng địa
chất là 17,6 triệu tấn, chủ yếu tập trung ở 2 mỏ Làng Cẩm ( Thái Nguyên) và mỏ Khe
Bố (Nghệ An).
Ngoài ra, than mỡ còn có ở các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình với trữ lượng
nhỏ.
Than mỡ được dùng chủ yếu cho ngành luyện kim với nhu cầu rất lớn sau năm
2000, nhưng trữ lượng than mỡ ở ta lại rất ít, điều kiện khai thác rất khó khăn. Sản
lượng than mỡ khó có khả năng cao hơn 0,2 – 0,3 tr.T/năm, trong khi nhu cầu sẽ tăng
đến 5 – 6tr.T/năm vào giai đoạn 2010 – 2020.
c. Than bùn :

Than bùn ở Việt Nam nằm rải rác từ Bắc đến Năm nhưng chủ yếu tập trung ở
đồng bằng sông Cửu Long (với hai mỏ than lớn là U-Minh-Thượng và U-Minh-Hạ).
Cụ thể:
- Đồng bằng Bắc Bộ: 1.650 tr.m
3
- Ven biển Miền Trung: 490 tr. m
3
- Đồng bằng Nam Bộ: 5.000 tr. m
3
14
Trước đây vừng đồng bằng Nam Bộ được đánh giá có trữ lượng là 1 tỷ tấn và
còn cao hơn nữa, nhưng nạn cháy rừng đã phá hủy đi rất nhiều trữ lượng than.
d. Tha ngọn lửa dài:
Chủ yếu tập trung ở mỏ Na Dương (Lạng Sơn), với trữ lượng địa chất trên 100
triệu tấn. Hiện nay khai thác được thực hiện bằng phương pháp lộ thiên với sản lượng
trên dưới 100 nghìn tấn/năm. Than Na Dương là loại than có hàm lượng lưu huỳnh
cao, có tính tự cháy nên việc khai thác, vận chuyển, chế biến sử dụng rất khó khăn và
hạn chế. Do đó, Tổng công ty Than Việt đang nghiên cứu hợp tác với nước ngoài xây
dựng nhà máy điện trong vùng mỏ, để sử dụng loại than này. Vì nếu không khai thác,
than sẽ tự cháy và phá hủy nguồn tài nguyên đồng thời gây tác động xấu hơn đến môi
trường.
e. Than nâu:
Tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ, trữ lượng dự báo 100 tỷ tấn. Theo đánh
giá sơ bộ, than có chất lượng tốt, có thể sử dụng cho sản xuất điện, xỉ măng và công
nghiệp hóa học.
Nhưng để có thể khai thác được, cần tiến hành thăm dò ở khu vực Bình Minh –
Khoái Châu Hưng Yên, để đánh giá một cách chính xác trữ lượng, chất lượng than,
điều kiện kiến tạo của vỉa than, nghiên cứu công nghệ khai thác thiết kế. Nói chung
việc khai thác này rất khó khăn về mặt địa hình, dân cư trong vùng và về phương
pháp khai thác v.v… Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu địa chất và khai thác,

đối với than nâu ở đồng bằng sông Hồng thì có thể đưa vào đầu tư xây dựng mỏ và
khai thác từ 2015 – 2020 trở đi.
Bảng: Trữ lượng tài nguyên và sản lượng khoáng sản Việt Nam

Trữ lượng (1.000
tấn)
Sản lượng
2006 (1.000
tấn)
Tăng trưởng trung
bình từ 2002
(%/năm)
% sản lượng thế
giới
Sắt 663.000 510 4,3 0,08
Bauxit 2.300.000 30 10,1 0,01
Thiếc 83,6 3,5 18,1 1,09
Titan 34.500 150,5 4,6 8,96
15
Vàng (a) 35.000 2.500 5,6 0,13
Than 6.600.000 38.900 21,6 0,63
Apatit 1.669.000 1.122 11,2 0,87
(Nguồn: Bộ Công Thương và USGS)
((a) Trữ lượng và sản lượng tính bằng kg)
Bảng: Công nghiệp Việt Nam

Sản lượng năm 2007
Tăng trưởng
(%/năm)
(tỷ VNĐ

1994)
(%)
1997
2007
2002
2007
Tổng số công nghiệp 570.771 100,0 14,5 15,6
Công nghiệp khai thác 36.903 6,5 7,0 3,9
Khai thác than 7.632 1,3 12,3 17,4
Khai thác dầu thô và khí tự
nhiên
23.987 4,2 5,2 0,1
Khai thác quặng kim loại 557 0,1 11,7 13,7
Khai thác đá và mỏ khác 4.728 0,8 10,4 8,8
Công nghiệp chế biến 501.301 87,8 15,4 17,1
Sản xuất và phân phối điện, khí
đốt và nước
32.567 5,7 13,5 12,9
(Tính từ số liệu của TCTK)
Bảng: Sản lượng khai thác và xuất khẩu than Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007
(Đơn vị: Triệu tấn)
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
16
Nguyên khai 15.6 17.1 20 27.3 34.9 40.1 47.2
Than sạch 13.4 16.4 18.9 27.3 32.8 38.9 43.3
Tiêu thụ 12.5 14.7 18.1 24.7 30.2 36.9 40
Trong nước 8.5 9.1 11.5 14.2 15.5 15.6 18
Xuất khẩu 4 5.6 6.6 10.5 14.7 21.3 22
(Nguồn: Tổng công ty Than khoáng sản Việt Nam)
Nhận xét:

Nhìn chung, khoáng sản than ở Việt Nam cũng khá phong phú về chủng loại, tuy
việc khai thác chỉ tập trung được vào một số loại than chủ yếu nhưng trong tương lai
cùng với công nghệ phát triển thì việc khai thác sẽ có nhiều khả năng hơn nữa. Bên
cạnh tìm hiểu, nâng cao các công nghệ khai thác để đáp ứng nhu cầu sử dụng và xuất
khẩu, thì việc đưa ra những giải pháp về các vấn đề kèm theo đối với đặc thù của
ngành than cũng cần được sự quan tâm từ phía chính phủ và địa phương có các hoạt
động khai thác và sử dụng than.
Tuy sản lượng và tiềm năng về khoáng sản than ở Việt Nam không phải là quá
lớn nhưng nó cũng góp một phần rất quan trọng về ổn định thị trường năng lượng tại
Việt Nam. Ngoài ra, nó cũng góp phần củng cố được đời sống của người công nhân
trong ngành than. Tuy nhiên, cũng như rất nhiều nơi khác ở Đông Nam Á thì sản
lượng than ở Việt Nam vừa phải đáp ứng nhu cầu trong nước vừa phải xuất khẩu một
lượng đáng kể để bù lại lượng than bán trong nước với giá rẻ hơn vì vậy áp lực lên
ngành khai thác than đang ngày càng lớn.
III. Ứng dụng của nhiên liệu than trong đời sống và sản xuất:
Than đá sử dụng nhiều trong sản xuất và đời sống. Trước đây, than dùng làm
nhiên liệu cho máy hơi nước , đầu máy xe lửa . Sau đó , than làm nhiên liệu cho nhà
máy nhiệt điện , ngành luyện kim . Gần đây than còn dùng cho ngành hóa học tạo ra
các sản phẩm như dược phẩm , chất dẻo , sợi nhân tạo . Than chì dùng làm điện cực.
Than có tính chất hấp thụ các chất độc vì thế người ta gọi là than hấp thụ hoặc là
than hoạt tính có khả năng giữ trên bề mặt các chất khí , chất hơi , chất tan trong dung
dịch . Dùng nhiều trong việc máy lọc nước, làm trắng đường, mặt nạ phòng độc
Theo báo cáo của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), khả năng sản
xuất than căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015
(có xét triển vọng 2025) thì đến năm 2015 khả năng khai thác than tối đa cũng chỉ đạt
17
61,4 triệu tấn. Trong khi đó, than cho sản xuất điện năm 2009 mới là 7,3 triệu tấn, đến
năm 2013 dự kiến lên tới hơn 40 triệu tấn.
Năng lượng than cho sản xuất điện:
Mặc dù sản xuất năng lượng cơ bản khiêm tốn, Việt Nam vẫn còn xuất siêu về

năng lượng vì nhiều nguyên nhân. Công nghiệp Việt Nam có tăng trưởng nhưng chưa
đạt trình độ để tiêu thụ hết năng lượng sản xuất. Những ngành công nghiệp biến chế
khoáng sản thành sản phẩm trung gian (luyện kim, hóa chất, lọc dầu, ximăng, ) là
những ngành công nghiệp tiêu thụ năng lượng nhiều nhất và gây ô niễm khí quyển
nhiều nhất. Ở Việt Nam, những ngành này chưa quan trọng mấy. Những ngành công
nghiệp chủ lực là những ngành dùng nhiều nhân công với hàm lượng năng lượng
thấp. Những dự án đầu tư và kêu gọi đầu tư vào những ngành phân hóa học, lọc dầu
hay luyện kim sẽ là nguy cơ thay đổi tình trạng xuất siêu năng lượng này trong vài
năm tới. Một trong những ngành sử dụng than nhiều nhất ở Việt Nam là nhiệt điện, vì
vậy tác giả xin đi sâu vào phân tích ngành sản xuất này.
Tình hình sản xuất điện năng trên thế giới và ở Việt Nam.
Trong tổng sản lượng điện năng sản xuất ra trên thế giới, phần tỷ lệ điện năng do
các nguồn nhiên liệu hữu cơ chiếm tỷ trọng chủ yếu, tỷ lệ thủy điện ngày càng giảm.
Tỷ lệ hạt nhân tăng rất nhanh trong các thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ trước, nhưng mấy
năm gần đây có xu hướng chững lại, ở một số nước bắt đầu giảm.
Sản lượng điện của 7 nước G7 chiếm một nửa tổng sản lượng điện của thế giới.
Trừ Canada là nước có tỷ lệ thủy điện chiếm khoảng 2/3 tổng sản lượng điện và Pháp
là nước có tỷ lệ điện hạt nhân tăng rất nhanh (từ 23,8% năm 1980 tăng lên 77,1% năm
1995), năm nước còn lại có tỷ lệ nhiệt điện dùng nhiên liệu hữu cơ từ 2/3 tổng sản
lượng điện trở lên, trong đó Mỹ và Đức có tỷ lệ nhiệt điện đốt than chiếm trên 50%
trong suốt một thời gian dài mấy chục năm. Hiện nay, ở hai nước này, tỷ lệ nhiệt điện
đốt than vẫn chiếm trên 50% và có xu hướng tăng dần.

Trong thập kỷ 70 và những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nhiều dự báo
lạc quan đã dự kiến tỷ lệ điện hạt nhân có thể tới 50% tổng sản lượng điện của thế
giới vào nửa đầu thế kỷ này. Tuy nhiên từ sau sự cố Trec-nô-bưn (1986), các dự báo
về điện hạt nhân đã chững lại; ở một số nước phát triển đã có xu hướng giảm. Để bù
lại, xu hướng phát triển nhiệt điện đốt than lại tăng lên, nhiều nhà máy điện đốt than
18
với công suất tổ máy lớn (khoảng trên dưới 1000 MW) có thông số trên tới hạn (áp

suất 250-300 bar, nhiệt độ hơi 580-600oC) đã được xây dựng. Hiện nay, hiệu suất phổ
biến của nhà máy nhiệt điện đốt than là 42-43%, cá biệt tới 49-50%.
Ở những nước có nhiều than như Trung Quốc, úc, Nam Phi, ấn Độ… tỷ lệ nhiệt
điện đốt than rất cao, tới 70-80%.
Nhìn chung trong vài chục năm tới, tỷ lệ nhiệt điện đốt than vẫn chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong tổng số sản lượng điện năng của thế giới (khoảng từ 40% trở lên).
Sở dĩ như vậy vì trữ lượng than của thế giới còn rất lớn, nhân loại còn có thể
dùng trong nhiều thế kỷ, trong khi trữ lượng dầu và khí còn rất hạn chế.
Mặt khác, hiện nay giá than trên cùng một đơn vị nhiệt lượng chỉ bằng 1/2 giá
dầu. Chắc chắn sau vài chục năm nữa, khi trữ lượng dầu và khí cạn kiệt dần thì sự
chênh lệch về giá còn cao hơn nhiều.
Ở Việt Nam, tỷ lệ nhiệt điện đốt than trong tổng sản lượng điện năng còn nhỏ bé,
trong nhiều năm gần đây chỉ dao động trong phạm vi 10-20%. Các tổng sơ đồ phát
triển điện trong tương lai dự kiến cũng không quá 20%.
Theo quy hoạch phát triển điện năng, đến 2010, cơ cấu nhiệt điện than trong tổng
công suất các nhà máy điện sẽ lên đến 19,9%, tương đương với nhu cầu 10,2 triệu tấn
than nguyên liệu.
Trong 8 năm tới, tổng công suất của các nhà máy điện sẽ được nâng lên mức
22.000 MW/năm, trong đó thuỷ điện chiếm 38,8%, nhiệt điện khí - dầu chiếm 40,9%.
Tổng công ty Điện lực Việt Nam dự tính, nhu cầu than để sản xuất điện cho năm
2020 sẽ lên tới 23,7 triệu tấn và đây là một thách thức lớn đối với ngành than Việt
Nam.
Quy trình cơ bản sản xuất điện bằng than:
Từ bãi chứa than – than được đưa vào các kho chứa – sau đó đưa vào máy
nghiền than thành bột than – Bột than được đưa vào buồng đốt, thổi lửa để lấy năng
lượng nhiệt – Hơi được bốc lên qua các lưới lọc và đi qua đường ống vào các turbin
và máy phát điện để tạo ra điện năng.
Nhận xét:
19
Những ứng dụng của than trong đời sống thì khá phổ biến và gắn bó với con

người từ quá trình hình thành và phát triển đến nay, tuy nhiên phục vụ cho công
nghiệp và sản xuất thì chỉ mới có một khoảng thời gian gần đây nhưng quá trình này
đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt. Việc phát triển bao giờ cũng có hai
mặt cũng nó, bên cạnh sản lượng than ngày một tăng lên rất cao để đáp ứng nhu cầu
sử dụng của con người mỗi ngày (đặc biệt trong các lĩnh vực sản xuất điện và luyện
kim) thì các nhà đầu tư vẫn chưa có những mối quan tâm thỏa đáng đến việc bảo vệ
môi trường trong quá trình khai thác và những nhà sản xuất cũng chưa có những cái
nhìn khách quan hơn đối với việc thải ra quá nhiều CO
2
khi sử dụng than làm nhiên
liệu cho quá trình sản xuất của mình.
Dựa vào quy trình sản xuất than trong các nhà máy điện cho thấy việc sử dụng
than có thể gây ra rất nhiều các vấn đề về môi trường, chẳng hạn như bụi từ quá trình
nghiền than, các loại khí từ các thành phần có trong than sau khi đốt dễ dàng thâm
nhập vào môi trường, nước rửa … Rõ ràng, những tác động của than đối với đời sống
con người là khá rõ rệt, đặc biệt với các khu vực chịu tác động trực tiếp. Dưới đây là
những phân tích chi tiết hơn đối với những tác động môi trường của ngành than.
IV. Những tác động của việc khai thác và sử dụng than đến môi trường:
4.1 Trong quá trình khai thác ở Việt Nam:
Việc khai thác than trong nhiều năm qua, đã gây ra những biến động xấu về môi
trường. Tại các vùng khai thác than đã xuất hiện những núi đất, đá thải cao gần 200m,
những moong khai thác sâu khoảng 100m. Để sản xuất 1 tấn than, cần bóc đi từ 8 đến
10 m
3
đất phủ, thải từ 1 đến 3m
3
nước thải mỏ. Khối lượng chất thải rắn và nước thải
mỏ gây ô nhiễm nặng cho vùng mỏ. Một vài vùng ô nhiễm đã đến mức báo động như
Mạo Khê, Uông Bí, Cẩm Phả…
Việc khai thác than ở Quảng Ninh đã phá huỷ hàng trăm km

2
rừng, tạo ra xói
mòn, bồi lấp ở các sông suối và làm ô nhiễm Vịnh Hạ Long. Một số mỏ than còn sử
dụng công nghệ khai thác lạc hậu, thiếu chương trình khoa học tổng thể để xác định
sự cần thiết về tăng trưởng công suất cho phù hợp với các yêu cầu bảo vệ môi
trường. Do đó, môi trường đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tác động xấu, nước
bị ô nhiễm nặng bởi chất thải rắn lơ lửng, vi trùng và bụi trong không khí v.v…
Để có sản lượng nhảy vọt, vượt công suất thiết kế, nhiều đơn vị đã chạy đua lộ
thiên hoá dù đã được quy hoạch là khai thác theo công nghệ hầm lò. Trong khi đó,
20
công nghệ khai thác lộ thiên được đánh giá là gây tác hại rất lớn về ô nhiễm môi
trường, hạn chế độ sâu khai thác. Đến thời điểm này, nhiều mỏ lộ thiên đã âm quá
giới hạn cho phép là -300m (so với mặt biển), nhưng vẫn tiếp tục khoan thăm dò khai
thác, bất chấp những tác hại về cấu tạo địa chất, làm tiền đề cho những thảm họa khác
như lở đất, nhiễm mặn và biến đổi sinh thái.
Hiện nay trong khu vực Hòn Gai – Cẩm Phả có khoảng 30 mỏ than lớn nhỏ đang
hoạt động, bình quân khoảng 2.000ha, có 1 mỏ với tổng diện tích là 175km
2
, chiếm
28,7% tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố Hạ Long và thị xã Cẩm Phả. Trong
giai đoạn 1970 – 1997, các hoạt động khai thác than ở Hòn Gai, Cẩm Phả đã làm mất
khoảng 2.900ha đất rừng các loại (trung bình mỗi năm mất 100 – 110ha) , trong đó
khoảng 2.000ha bị mất do mở vỉa, đổ đất đá thải. Độ che phủ rừng tự nhiên từ 33,7%
năm 1970 giảm xuống 6,7% (1985) và 4,7% (1997)
Tại khu vực Cẩm Phả, trước năm 1975 việc khai trường được mở rộng chủ yếu
về phía tây – nam (khoảng 100ha) và phía tây (25ha). Sau 1975 việc khai trường và
bãi thải phát triển về phía bắc khoảng 435ha, phía tây – bắc 265ha và phía đông 75ha
Về ô nhiễm môi trường không khí:
Môi trường không khí các khu vực khai thác khoáng sản và lân cận thường
xuyên bị ô nhiễm do bụi, khí độc, khí nổ và tiếng ồn phát sinh ở hầu hết các khâu sản

xuất. Đặc biệt khu vực Cẩm Phả, Uông Bí, Mạo Khê và các phường Hà Khánh, Hà
Lầm, Hà Trung, Hà Tu, Hà Phong - TP Hạ Long.
Nguồn phát sinh bụi lớn nhất là từ các khâu sàng, chế biến, vận chuyển than.
Ngoài ra bụi còn sinh ra từ các bãi thải chưa dừng đổ thải hoặc những bãi thải đã
dừng đổ thải nhưng chưa được cải tạo, phủ thảm thực vật.
Nhìn chung, hàm lượng bụi tại các khu vực khai thác than, chế biến than đều
vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) từ 1,2 - 5,2 lần (trung bình trong 24 giờ); hàm
lượng bụi tại các khu dân cư lân cận các khu vực sản xuất, chế biến than tại Quảng
Ninh vượt TCCP 3,3 lần (trung bình 24 giờ).
Hiện nay, mặc dù tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nhiều giải pháp quản lý BVMT,
đặc biệt là việc cấm vận chuyển than trên quốc lộ 18A, các phương tiện vận chuyển
theo đường chuyên dụng, quy hoạch, sắp xếp lại các cảng, bến cảng đã hạn chế được
ô nhiễm môi trường trong vận chuyển than đến khu dân cư tập trung. Tuy nhiên, theo
21
kết quả quan trắc môi trường tỉnh Quảng Ninh năm 2009, tình trạng ô nhiễm bụi do
hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển than vẫn còn tồn tại.
Bụi than chính là nguyên nhân khiến cho tỷ lệ người mắc bệnh phổi thuộc nhóm
cao nhất nước. Không chỉ ô nhiễm nguồn nước, không khí, hoạt động khai thác than
còn làm biến đổi địa hình và cảnh quan ở một địa phương ven vịnh vốn có rất nhiều
thắng cảnh rất đẹp. Những biến đổi mạnh nhất diễn ra chủ yếu ở khu vực có khai thác
than lộ thiên. Trải qua hàng trăm năm chỉ biết đào than và đổ chất thải đủ để làm nên
những ngọn núi thải do… "than tạo" như Cọc Sáu (280m), Nam Đèo Nai (200m),
Đông Cao Sơn (250m), Đông Bắc Bàng Nâu (150m) và Núi Béo (240m)
Về nước thải mỏ: Tại vùng than, theo số liệu kê khai, nộp phí BVMT đối với
nước thải công nghiệp của các đơn vị thuộc ngành than thì tổng lượng nước thải mỏ
năm 2009 đã kê khai là 38.914.075 m
3
. Tuy nhiên, lượng nước thải này chưa tính đến
nước rửa trôi từ các bãi thải mỏ. Hai thông số điển hình tác động đến môi trường là
tính axit và cặn lơ lửng, bên cạnh đó là hàm lượng Fe và Mn. Độ pH của nước thải mỏ

dao động từ 3,1 - 6,5, hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS) vượt tiêu chuẩn cho phép từ
1,7 - 2,4 lần, cá biệt có nơi vượt đến 8,09 lần. Nước thải mỏ gây nhiều ảnh hưởng đến
hệ thống sông, suối, hồ, vùng ven biển như gây bồi lấp, làm mất nguồn sinh thủy, suy
giảm chất lượng nước Do tác động lâu ngày, trong đó có tác động của khai thác than
trái phép trong một thời gian dài, một số hồ thủy lợi vùng Đông Triều đó bị chua hóa,
làm ảnh hưởng đến chất lượng nước phục vụ nông nghiệp.
Trước năm 2009, chỉ có 1 đơn vị thuộc Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam
(TKV) có hệ thống xử lý nước thải mỏ. Hiện nay, TKV đang đầu tư 32 dự án xây
dựng trạm xử lý nước thải mỏ đảm bảo đạt TCCP (kế hoạch năm 2009 - 2010), trong
đó hiện nay mới có 10 dự án đã xây dựng xong với tổng lưu lượng xử lý lớn nhất là
2.370 m
3
/giờ, các mỏ còn lại mới chỉ lắng sơ bộ và xả trực tiếp ra môi trường.
Một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nhất, đó là huyện Đông Triều,
vùng trọng điểm lúa của tỉnh, gần 7.000 ha lúa và hoa màu ở Đông Triều (Quảng
Ninh) đang đối mặt với nạn hạn hán và thiếu nước nghiêm trọng trong khi nhiều hồ
thủy lợi lớn bị ô nhiễm, tài nguyên rừng bị suy thoái , gây cạn kiệt dòng sinh thuỷ,
gây ngập úng và hạn hán cục bộ, làm bồi lắng lòng hồ, ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống dân sinh các khu vực lân cận. Trong tổng số 25 hồ chứa nước ở huyện Đông
Triều đã có gần một nửa bị bồi lấp, nguồn nước bị chua hoá từ quá trình sản xuất than
gây ra, trong đó có nhiều hồ bị chua hoá nặng, độ PH đều ở mức dưới 3,5 (PH tiêu
22
chuẩn từ 5 – 5,5). Tình trạng ô nhiễm nguồn nước đang âm thầm huy hoại năng suất
cây trồng, vật nuôi và nguy cơ bị cắt đứt toàn bộ nguồn thuỷ sản trong tương lai gần.
Cơ quan chức năng đã xác định chính nước thải mỏ gây ảnh hưởng đến hệ thống
sông, suối, hồ, vùng ven biển như gây bồi lấp, làm mất nguồn sinh thủy, suy giảm
chất lượng nước và là tác nhân "tiêu diệt" các hồ thủy lợi tại huyện Đông Triều khiến
nông dân huyện này thiếu nghiêm trọng nguồn nước để phục vụ trồng cấy.
Tác động đến địa hình, cảnh quan: Biến đổi địa hình và cảnh quan. Những biến
đổi mạnh nhất diễn ra chủ yếu ở những khu vực có khai thác than lộ thiên. Các bãi đổ

thải tạo nên những quả đồi ở Cọc Sáu cao 280 m, Nam Đèo Nai có độ cao 200 m,
Đông Cao Sơn cao 250 m, Đông Bắc Bàng Nâu cao 150 m và Núi Béo cao 240 m
và nhiều bãi thải trên các sườn đồi. Bãi thải thường có sườn dốc tới 350. Nhiều
moong khai thác lộ thiên tạo nên địa hình âm có độ sâu từ - 50 m đến - 150 m dưới
mực nước biển trung bình (các mỏ Cọc Sáu, Hà Tu, Núi Béo ).
Nhiều khu vực tập trung dân cư tại Mạo Khê (Đông Triều), Vàng Danh, Quang
Trung (Uông Bí), Hà Khẩu, Cao Xanh, Hà Khánh, Hà Lầm, Cao Thắng, Hà Trung,
Hà Tu, Hà Phong (Hạ Long) và toàn bộ thị xã Cẩm Phả chịu tác động mạnh do các
nguồn gây ô nhiễm từ các hoạt động khoáng sản, trở thành những vấn đề bức xúc, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và đời sống của nhân dân.
Nhận xét:
Ô nhiễm môi trường đối với ngành công nghiệp khai thác than đang là một vấn
đề nhức nhối đối với những nhà quản lý ở khu vực có các mỏ than, đặc biệt là các mỏ
than lộ thiên. Không chỉ ảnh hưởng đến các môi trường đất, nước, không khí ở những
khu vực có các mỏ khai thác mà nó còn tác động trực tiếp đến những người dân trong
vùng, đến sức khỏe của người lao động. Rõ ràng “vàng đen” không chỉ đem lại cho
người ta những lợi ích thiết thực trong cuộc sống mà nó còn đem lại cả những bất cập
về vấn đề sức khỏe và môi trường.
Những khảo sát, đánh giá tác động môi trường đối với các mỏ khai thác than tuy
chưa hoàn thiện tuy nhiên cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với công tác an
toàn, sức khỏe và môi trường lao động cũng như môi trường sống tại các mỏ than này,
và giúp cảnh báo đối với việc mở các mỏ than mới một cách hợp lý hơn. Hiện nay,
việc khai thác đã có những dấu hiệu tác động nghiêm trọng đến môi trường, trong
tương lai thì những tác động này theo thời gian sẽ càng để lại những hậu quả khó
23
lường hết đối với người dân địa phương và đặc biệt khi việc khai thác đã cạn kiệt các
nguồn tài nguyên này thì việc giải quyết vấn đề môi trường sau đó, cùng công ăn việc
làm cho những người công nhân cũng cần phải được tính toán đến, không thể để tình
trạng những nhà đầu tư sau khi khai thác hết khoáng sản thì bỏ ngõ mặc kệ chính
quyền địa phương xử lý với những vấn đề phiền toái kéo theo.

Về tai nạn lao động:
Trong những năm gần đây thì cùng với việc gia tăng sản lượng khai thác đối với
ngành than thì vấn đề tai nạn lao động xảy ra cũng thường xuyên hơn, mặc dù đã có
nhiều đổi mới đối với công nghệ khai thác trong thời gian qua nhưng vẫn đề tai nạn
lao động vẫn xảy đến ở các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển như
Nga, Hà Lan, Trung Quốc …
Ở Việt Nam tai nạn hầm mỏ cũng đang ngày một gia tăng, tuy so với tai nạn lao
động khác vẫn chưa nghiêm trọng song với điều kiện lao động và năng suất như hiện
nay thì vấn đề này cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Theo thống kê, mỗi năm ở Việt
Nam có khoảng 9 vụ tai nạn hầm mỏ và thường là những vụ tai nạn có thương vong
lớn.
Một dẫn chứng về vấn đề tai nạn hầm mỏ ở đất nước chiếm tỷ lệ này cao nhất
thế giới là Trung Quốc:
Bản đồ đánh dấu các khu vực xảy ra tai nạn sập
hầm mỏ gần đây ở Trung Quốc.
Những nguyên nhân chính
Nguyên nhân thứ nhất chính là nhu cầu than trong nước tăng mạnh.
24
Thời gian giành cho nghỉ ngơi và tu bổ hạ tầng hầm mỏ do đó bị giảm đáng kể.
Nguyên nhân thứ hai là sự tham gia tích cực một cạch thái quá của thành phần kinh tế
tư nhân. Các chủ thầu nhỏ lẻ không đủ kinh phí để đầu tư cho cơ sở hạ tầng xung
quanh khu vực mình khai thác. Họ cũng không đủ thời gian tổ chức các lớp huấn
luyện phòng tránh tai nạn sập hầm và cháy nổ. Nguy hiểm hơn, vì lợi nhuận, họ để
công nhân phải làm việc trong những điều kiện thời tiết và sinh lý dễ xảy ra tai nạn.
Các biện pháp khắc phục
- Cải thiện điều kiện về an toàn lao động đối với công nhân ở các hầm mỏ đặc
biệt là các mỏ khai thác than lộ thiên.
- Cải thiện cơ sở hạ tầng, kỹ thuật công nghệ nhằm gia tăng độ an toàn trong
khai thác.
- Tăng cường công tác giám sát từ chính quyền địa phương và chính phủ.

Nhận xét:
Tình trạng tai nạn lao động ở các mỏ khai thác than chính là một trong những lý
do khiến việc khai thác này cần được xem xét kỹ lượng và hợp lý hơn. Vấn đề này có
thể xảy ra ở bất kỳ nơi đâu, kể cả những nước còn kém phát triển như Việt Nam hay
các mỏ than lớn ở các nước phát triển trên thế giới như : Hoa kỳ, Trung Quốc … vì
vậy, việc quan tâm điều chỉnh đến quá trình xây dựng một hệ thống quản lý, khai thác
hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên khoáng
sản không thể tái tạo và có những tác động lớn đến môi trường như khai thác than thì
cần được chú ý quan tâm hơn.
Ngoài ra, để đảm bảo cho việc khai thác hầm mỏ vừa hợp lý vừa an toàn thì sự
quan tâm đối với công tác an toàn lao động là cần thiết, ngoài ra còn cần có những
quy định chặt chẽ và sự giám sát nghiêm ngặt từ Nhà nước và chính quyền địa
phương.
4.2 Ô nhiễm môi trường trong quá trình sử dụng:
Than được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp như : nhiệt điện, luyện kim
… những ngành công nghiệp này khi sử dụng than cho hoạt động của mình thì thường
thải ra môi trường một số lượng lớn các loại khí như khí CO
2
do hoạt động đốt than
gây ra, một trong những loại khí gây nên hiệu ứng nhà kính và đang làm nhiệt độ trái
đất ngày một tăng cao.
25

×