Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Phương pháp dạy học chữa lỗi từ ngữ, ngữ pháp cho học sinh THPT dân tộc Khmer

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.85 KB, 119 trang )


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




NGUYỄN QUANG MINH




PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỮA LỖI TỪ
NGỮ, NGỮ PHÁP CHO HỌC SINH THPT
DÂN TỘC KHMER
(TRÊN CỨ LIỆU TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ AN
GIANG)




Chuyên ngành : Lý luận và và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ



Thành phố Hồ Chí Minh – 2007



2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN............................................................................................... 1
MỤC LỤC ...................................................................................................2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................4
DANH MỤC CÁC BẢNG .........................................................................5
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 6
Chương 1: VẤN ĐỀ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
THPT DÂN TỘC KHMER
1.1. Những đặc điểm riêng trong dạy học TV cho học sinh
THPT dân tộc Khmer ........................................................................ 17
1.1.1. Nguyên tắc dạy học TV cho học sinh THPT
dân tộc Khmer ......................................................................... 17
1.1.2. Phương pháp đối chiếu, so sánh trong dạy học TV
cho học sinh THPT dân tộc Khmer.......................................... 22
1.2. Thực trạng dạy học TV cho học sinh THPT dân tộc Khmer ............ 27
1.2.1. Đôi nét về trường THPT Dân tộc nội trú AG ......................... 27
1.2.2. Những “rào cản ngôn ngữ” của học sinh khi học TV ............. 29
1.2.3. Hiện tượng giao thoa trong tiếng Khmer ............................... 32
1.2.4. Hiện trạng mắc lỗi từ ngữ, ngữ pháp TV ................................ 42
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỮA LỖI TỪ NGỮ
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH THPT DÂN TỘC

KHMER
2.1. Khái niệm về lỗi từ ngữ....................................................................... 51



3
2.2. Nguyên nhân mắc lỗi từ ngữ ............................................................... 53
2.3. Cách chữa lỗi từ ngữ ............................................................................ 55
2.3.1. Lỗi lựa chọn từ ngữ.................................................................... 55
2.3.2. Lỗi kết hợp từ ngữ...................................................................... 64
2.4. Phương pháp dạy học chữa lỗi từ ngữ tiếng Việt .............................. 73
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỮA LỖI NGỮ PHÁP
TIẾNG VIỆTCHO HỌC THPT DÂN TỘC KHMER
3.1. Khái niệm về lỗi ngữ pháp .................................................................. 79
3.2. Nguyên nhân mắc lỗi ngữ pháp........................................................... 80
3.3. Cách chữa lỗi ngữ pháp........................................................................ 82
3.3.1. Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh........................................ 82
3.3.2. Câu sai do vi phạm qui tắc kết hợp............................................. 96
3.4. Phương pháp dạy học chữa lỗi ngữ pháp tiếng Việt......................... 103
KẾT LUẬN............................................................................................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 114
PHỤ LỤC................................................................................................. 119



4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
-------------

- DTNTAG : Dân tộc nội trú An Giang

- THPT : Trung học phổ thông
- THCS : Trung học cơ sở
- GV : Giáo viên
- HS : Học sinh
- HSDT : Học sinh dân tộc
- PPDH : Phương pháp dạy học
- PP : Phương pháp
- TV : Tiếng Việt
- HSSV : Học sinh sinh viên
- PH : Phụ huynh
- SGK : Sách giáo khoa
- CN : Chủ ngữ
- VN : Vò ngữ
- C – V : Chủ ngữ – Vò ngữ



5
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Tổng hợp số lỗi mắc phải của HS trong các bài kiểm tra thi
học kỳ I...................................................................................... 42
Bảng 2.2: Tổng hợp số lỗi mắc phải của HS trong các bài kiểm tra
thi học kỳ II............................................................................... 44
Bảng 2.3: Tổng hợp số lỗi mắc phải của HS trong các bài kiểm tra ở
các kỳ thi học kỳ....................................................................... 45
Bảng 2.4: Tổng hợp số lượng HS mắc lỗi về từ ngữ, ngữ pháp trong các
bài kiểm tra thi học kỳ I .......................................................... 47
Bảng 2.5: Tổng hợp số lượng HS mắc về từ ngữ, ngữ pháp trong các
bài kiểm tra thi học kỳ II......................................................... 48

Bảng 2.6: Kết quả mắc lỗi dùng từ ngữ chưa chính xác của HS trong
các bài kiểm tra thi học kỳ....................................................... 58
Bảng 2.7: Kết quả về việc mắc lỗi liên kết từ của HS trong các bài
kiểm tra thi học kỳ.................................................................... 66
Bảng 2.8: Kết quả lỗi đặt câu thiếu chủ ngữ của HS trong các bài kiểm
tra thi học kỳ ............................................................................. 83
Bảng 2.9: Kết quả lỗi đặt câu thiếu vò ngữ của HS trong các bài kiểm
tra thi học kỳ ............................................................................. 87
Bảng 2.10: Kết quả lỗi đặt câu thiếu kết cấu C – V nòng cốt trong các
bài kiểm tra thi học kỳ I ......................................................... 90
Bảng 2.11: Kết quả lỗi đặt câu rối cấu trúc của HS trong các bài kiểm
tra thi học kỳ ......................................................................... 100



6
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tiếng Việt là tiếng phổ thông, là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Năm 1969, Quyết đònh 153 – CP của thủ tướng chính phủ đã
cụ thể hóa vai trò TV trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số: “Tất cả các
dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đều cần học và dùng tiếng, chữ phổ thông là
ngôn ngữ chung của cả nước. Nhà nước cần ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu
số học biết nhanh tiếng, chữ phổ thông”. Và Quyết đònh 53 – CP của Hội
đồng chính phủ (1980) nêu rõ: “Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung
của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể
thiếu được giữa các đòa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các
đòa phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn
hóa, khoa học kỹ thuật… Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực

hiện quyền bình đẳng dân tộc”. Cho nên học sinh dân tộc Khmer cũng giống
như những HS các dân tộc khác khi đến trường đều sử dụng chung một ngôn
ngữ, đó là tiếng Việt.
Đối với HS dân tộc Khmer, TV là ngôn ngữ thứ hai. Ngôn ngữ thứ
nhất là tiếng mẹ đẻ, là ngôn ngữ dân tộc Khmer mà các em sử dụng để giao
tiếp trong phạm vi đời sống phum sóc của cộng đồng dân tộc mình. TV, tuy
là ngôn ngữ thứ hai đối với người dân tộc Khmer nhưng là ngôn ngữ chung
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Khi tiếp xúc với chương trình giáo dục
phổ thông, HS dân tộc Khmer lại gặp sự bất đồng ngôn ngữ nên sử dụng TV
còn nhiều hạn chế về phát âm, dùng từ, đặt câu. Đồng thời do sự tiếp xúc
giữa tiếng Việt – tiếng Khmer làm nảy sinh hiện tượng giao thoa ngôn ngữ.



7
Do đó, quá trình tiếp xúc với TV trong nhà trường phổ thông của HS dân tộc
Khmer bò “rào cản ngôn ngữ”. Trong các văn bản nói và viết của HS thường
sai phạm qui tắc TV. Các em mắc lỗi từ vựng, ngữ pháp TV nhiều hơn so với
HS người Kinh. Đây là một bài toán khó cho người dạy và người học ở các
trường phổ thông có HS dân tộc vùng sâu vùng núi.
Phương pháp dạy học sửa chữa các lỗi từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt cho
HS THPT đã được đề cập trong nhà trường. Tuy vậy, phương pháp này vẫn
chưa được ứng dụng có hệ thống trong chương trình Ngữ văn. Nhất là chưa
có một chương trình ứng dụng cụ thể, đặc thù dạy học cho HS THPT dân tộc
Khmer. Cho nên trong những năm qua, GV bộ môn Ngữ văn gặp nhiều khó
khăn trên con đường đi tìm những phương cách tháo gỡ tình trạng này. Nó
trở thành một vấn đề bức thiết ở trường phổ thông, nhất là những trường phổ
thông ở vùng sâu vùng núi. Đứng trước tình hình ấy, luận văn của chúng tôi
muốn nghiên cứu: phương pháp dạy học chữa lỗi về từ ngữ, ngữ pháp TV
của HS THPT dân tộc Khmer qua dạy học TV, nhằm giúp các em hạn chế

việc mắc lỗi TV và góp phần thực thi đổi mới PPDH trong nhà trường THPT
hiện nay.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Viết sai chuẩn mực TV là hiện tượng khá phổ biến trong HS các bậc
hiện nay, nhất là học HS dân tộc thiểu số. Hiện tượng viết sai chuẩn mực
cũng không hiếm trên sách báo in ấn. Thế nhưng, nhìn chung, việc nghiên
cứu lỗi hành văn ở các bình diện, các cấp độ lại chưa có một bề dày đáng
kể. Chủ yếu chỉ có một số bài viết ngắn về một số loại lỗi chính tả, lỗi dùng
từ, lỗi ngữ pháp… đăng rải rác trên các tạp chí, báo chí. Một vài loại lỗi



8
vừa nêu cũng được trình bày trong một vài quyển sách giáo khoa, một số
công trình nghiên cứu TV. Rất ít có quyển sách viết về lỗi hành văn một
cách toàn diện, có hệ thống. Nhất là những quyển sách viết về lỗi sử dụng
TV của HS dân tộc Khmer.
Những bài viết và một vài quyển sách về lỗi được in ấn, xuất bản từ
năm 1974 đến nay cũng không nhiều:
Nguyễn Minh Thuyết, trên “Ngôn ngữ” số 3, năm 1974, nêu lên một
số kiểu lỗi ngữ pháp và cách sửa chữa trong bài “Mấy gợi ý về việc phân
tích sửa chữa lỗi ngữ pháp cho học sinh”. Trong bài viết này, tác giả đưa ra
các kiểu lỗi sai như: “lỗi vi phạm về qui tắc cấu tạo từ”, tức là lỗi cấu tạo
cụm từ sai qui tắc ngữ pháp; “lỗi vi phạm về qui tắc cấu tạo câu” (bao gồm
“lỗi thừa chủ ngữ”, “lỗi thiếu chủ ngữ”, “lỗi thiếu vò ngữ”); và cách sửa chữa
từng kiểu lỗi.
Nguyễn Xuân Khoa, trên “Ngôn ngữ” số 1, năm 1975, trình bày một
số lỗi về qui tắc cấu tạo câu trong bài “Lỗi ngữ pháp của học sinh – nguyên
nhân và cách sửa chữa”. Theo Nguyễn Xuân Khoa, lỗi cấu tạo câu gồm:
“Câu thiếu thành phần hạt nhân” (bao gồm “câu thiếu chủ ngữ”, “câu thiếu

vò ngữ”); câu thiếu toàn bộ cấu trúc hạt nhân” (gồm “câu chỉ có một bộ phận
trạng ngữ”, “câu chỉ có một đoạn câu phụ”); “câu có các thành phần không
có quan hệ ý chặt chẽ, chính xác” và “câu có kết cấu rối nát”. Song song với
việc phân tích lỗi sai, tác giả bài viết cũng nêu nguyên nhân sai và cách sửa
chữa. Bài viết của tác giả lý giải khá rõ cái sai ngữ pháp ở một số mặt. Tuy
nhiên, cách phân loại, miêu tả và đònh danh lỗi sai có vài điểm chưa chặt
chẽ và nhất quán.



9
Nguyễn Nhã Bản, “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ
ngữ”, 1981, đề cập lỗi dùng từ của HS. Qua tư liệu thi tuyển sinh vào đại
học, tác giả tiến hành thống kê và phân loại lỗi dùng từ của HS thành ba
kiểu lỗi: “lỗi dùng từ Hán – Việt và thuần Việt”, “lỗi những từ kết hợp
không hợp nghóa” và “lỗi diễn đạt”. Đối với mỗi kiểu lỗi, tác giả nêu số liệu
thống kê và tỉ lệ cụ thể. Bài viết của Nguyễn Nhã Bản trình bày một số khía
cạnh về lỗi dùng từ. Tuy nhiên, cách phân loại lỗi dùng từ và một số ví dụ
minh họa chưa có sức thuyết phục, nhất là “lỗi diễn đạt”.
Trong “Tài liệu tham khảo soạn, giảng kỹ năng Làm Văn lớp 10”, Vụ
giáo dục THPT, năm 1984, có bài viết “Chữa câu sai”, người viết nêu ra một
số kiểu lỗi ngữ pháp như: “câu thiếu chủ ngữ”, “câu thiếu vò ngữ”, “câu
thiếu chủ ngữ và vò ngữ”, “câu sai do chưa biết sử dụng các cặp từ quan hệ”,
“thừa chủ ngữ” và “câu lủng củng, rườm rà”. Đối với mỗi kiểu lỗi sai, tác
giả dẫn ra một vài ví dụ và hướng dẫn cách sửa cụ thể. Nội dung phân tích,
lý giải câu sai ngữ pháp trong tài liệu này có giá trò gợi ý thiết thực cho GV
khi dạy các tiết chữa câu sai, mặc dù cách đònh danh và phân loại câu sai
ngữ pháp của người viết chưa nhất quán và chặt chẽ.
Trong sách giáo khoa “Làm Văn lớp 10”, năm 1991, Đinh Cao và Lê
A đề cập lỗi câu sai và lỗi dùng từ sai. Lỗi câu sai, theo các tác giả, gồm các

kiểu: “câu mới chỉ có kết cấu giới từ hặc cụm danh từ chỉ thời gian, vò trí”,
“câu chỉ mới có cụm danh từ”, “câu thiếu chủ ngữ”, “câu thiếu vế”, “câu sai
quan hệ lôgich”, “câu có kết cấu rối nát” và “câu không đảm bảo sự phát
triển liên tục của ý trong đoạn văn”. Còn lỗi dùng từ sai, gồm các kiểu:
“dùng từ sai vỏ âm thanh”, “dùng từ sai do không hiểu nghóa của từ”, “dùng



10
từ không phù hợp với đối tượng nói năng, với sắc thái tình cảm, thái độ cần
phải có”, “dùng từ không đúng với phong cách văn bản”, và “dùng từ không
đảm bảo tính thẩm mỹ”. Cùng với các kiểu lỗi câu sai và lỗi dùng từ, các tác
giả còn đưa ra “phương hướng sửa chữa câu sai” và “các thao tác chữa lỗi về
từ”. Nhìn chung, các tác giả trình bày các kiểu lỗi câu sai và lỗi dùng từ sai
khá cụ thể, có giá trò gợi ý phát hiện lỗi hành văn. Tuy nhiên, việc phân chia
các lỗi câu sai và lỗi dùng từ của tác giả chưa có hệ thống và tính chặt chẽ;
các kiểu lỗi sai chưa được phân tích một cách cặn kẽ, thấu đáo. Và các tác
giả chưa đưa ra cách thức sửa chữa cụ thể đối với từng kiểu sai. “Phương
hướng sửa chữa câu sai” và “các thao tác chữa lỗi về từ” được đưa ra còn sơ
lược.
Nguyễn Đức Dân và Trần Thò Ngọc Lang, trong “Câu sai và câu mơ
hồ” (1993), đưa ra cách lý giải khá mới mẻ về câu sai. Trong công trình
nghiên cứu này, các tác giả đi sâu vào phân tích, lý giải hiện tượng câu sai
và hiện tượng câu mơ hồ. Các tác giả muốn góp thêm một tiếng nói mới về
câu sai và muốn nhấn mạnh tới nguyên nhân tâm lý trong quá trình hình
thành một câu sai, mà hiện tượng sai do “chập cấu trúc”. Đối với mỗi câu
sai, cần phân tích kỹ để phát hiện các nguyên nhân gây ra cái sai của nó, từ
đó đề ra cách chữa có hiệu quả. Xuất phát từ quan niệm ấy, các tác giả
không đưa ra những sơ đồ cứng nhắc làm khuôn mẫu khi chữa những câu sai
mà chỉ nêu những phương pháp chung nhất để phân tích và chữa lỗi câu dựa

trên lý thuyết ngôn ngữ học tường minh. Nó được hình thức hóa cao độ để
một mặt chỉ ra sơ đồ cấu trúc tối giản của câu đúng tương ứng, đối chiếu với
sơ đồ câu sai, mặt khác phân tích sự tương hợp nghóa giữa các từ trong câu



11
được xem xét, qua đó chỉ ra cách chữa hợp lý nhất. Quyển sách này còn đề
cập đến câu mơ hồ. Nghiên cứu hiện tượng này làm rõ những đặc điểm của
tiếng Việt. Điều này không những có ý nghóa về phương diện lý thuyết mà
còn có hữu ích về phương diện ứng dụng trong quá trình tạo văn bản, trong
giao tiếp giữa người với người. Trong sách này, các tác giả trình bày bước
đầu hiện tượng mơ hồ TV trên cấp độ: “sự mơ hồ từ vựng”, “sự mơ hồ cấu
trúc”, “câu mơ hồ lôgich”, “câu mơ hồ ngữ dụng”… Quyển sách này là một
đóng góp không nhỏ của các tác giả trong việc tiếp cận, nghiên cứu câu sai,
nhất là ở bình diện ngữ nghóa – lôgich.
Trong SGK “Tiếng Việt lớp 10” hợp nhất chỉnh lý năm 2000, các tác
giả Diệp Quang Ban, Đỗ Hữu Châu có dành ba tiết (tiết 4, 13, 27) đề cập
liên quan đến vấn đề này. Đó là “Yêu cầu chung về hành văn của các văn
bản”, “Lựa chọn từ ngữ” và “Lỗi về câu”. Nhìn chung, các tác giả chỉ đưa ra
những yêu cầu khi sử dụng từ ngữ: “dùng từ phải chính xác”, “lựa chọn từ để
đạt kết quả mong muốn” và cần “tránh lỗi thừa từ, lặp từ”, “tránh dùng các
từ sáo rỗng, công thức không cần thiết”. Như vậy, vấn đề được đưa vào trong
SGK về việc dùng từ của HS còn sơ sài. Ví dụ nêu ra không đa dạng để cho
HS dễ nhận biết và khắc phục. Còn “Lỗi về câu”, các tác giả tìm ra nguyên
nhân và cách khắc phục cho HS. Các tác giả tìm ra: “lỗi về thành phần câu”
(Không phân đònh rõ thành phần trạng ngữ và chủ ngữ; không phân đònh rõ
đònh ngữ, phần phụ chú và vò ngữ; không phân đònh rõ trật tự cần có của
thành phần câu) và “lỗi về quan hệ ý nghóa giữa các bộ phận trong câu và
giữa câu với câu” (không phân đònh rõ những bổ ngữ có cách chi phối khác

nhau; không phân đònh rõ mối quan hệ giữa các vế câu hoặc giữa câu với



12
câu). Các bài tập đa dạng phong phú nhưng trích dẫn dẫn chứng lại xa rời
SGK, không nằm trong chương trình. HS khó cảm nhận và nhận biếtđ ể tìm
ra những lỗi dùng từ đặt câu. Đây là bài viết khá kỹ, tương đối trọn vẹn.
“Lỗi từ vựng và cách khắc phục” với nhóm Hồ Lê, Trần Thò Ngọc
Lang, Tô Đình Nghóa thực hiện. Và quyển thứ hai, đó là “Lỗi ngữ pháp và
cách khắc phục” do nhóm Cao Xuân Hạo, Lý Tùng Hiếu, Nguyễn Kiên
Trường, Võ Xuân Trang, Trần Thò Tuyết Mai điều tra và biên soạn. Các tác
giả sử dụng phương pháp thực nghiệm. Xuất phát từ việc điều tra lỗi chính
tả, từ vựng, ngữ pháp qua 5.000 bài viết của HSSV và những bài trên các
báo “Sài Gòn giải phóng”, “Tuổi trẻ”, “Thanh niên”, “Phụ nữ”, “Công an”,
“Kiến thức ngày nay”… tìm hiểu nguyên nhân, phân loại lỗi, phân tích từng
loại lỗi rồi đưa ra các bài tập có đáp án để người viết sử dụng rèn luyện và
khắc phục.
Bên cạnh đó, ta thấy hàng loạt quyển sách “ Tiếng Việt thực hành”
của những tác giả như Nguyễn Minh Thuyết, Đặng Ngọc Lệ, Nguyễn Kiên
Trường, Hữu Đạt, Nguyễn Đức Dân… đưa ra những cơ sở lý luận về lý
thuyết TV để vận dụng vào các bài tập thực hành là chính yếu dành cho
HSSV. Các dạng bài tập đa dạng, phong phú.
Điểm qua các bài viết, các công trình nghiên cứu, ta thấy các tác giả
đã có những đóng góp đáng trân trọng trong việc tiếp cận, nghiên cứu, lý
giải các lỗi sai về chính tả, từ vựng, ngữ pháp… trên các bình diện, các cấp
độ, ở mức độ này hay mức độ khác. Nhưng có một điều, các nhà ngôn ngữ
học chưa nghiên cứu các lỗi sai về từ vựng, ngữ pháp đối với đối tượng HS
người dân tộc thiểu số khi học TV. Bởi vì hiện nay, đối tượng này cũng




13
chiếm một phần không nhỏ trong các nhà trường phổ thông. Và HS dân tộc
thiểu số đến với TV là đến với ngôn ngữ thứ hai nên việc mắc các lỗi chính
tả dùng từ đặt câu lại mang tính trầm trọng hơn. Vì thế, luận văn này sẽ đi
vào tìm hiểu và đưa ra các giải pháp phù hợp giúp cho HS THPT người dân
tộc Khmer khắc phục một số lỗi cơ bản về từ vựng, ngữ pháp khi học TV.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này dựa trên thực trạng dạy và học ở trường THPT
vùng dân tộc nhằm đưa ra những lỗi cơ bản về từ vựng, ngữ pháp của HS
dân tộc Khmer học TV. Từ đó, tìm ra những phương pháp sửa chữa các lỗi
ấy để hạn chế “rào cản ngôn ngữ” của các em trong việc tiếp nhận chương
trình giáo dục phổ thông. Hiện nay, vấn đề này trở thành một bài toán khó
trong quá trình dạy và học ở trường phổ thông.
Nghiên cứu đề tài này cũng nhằm rút ra những giải pháp cải tiến
PPDH TV cho GV dạy môn TV. Nhất là giúp cho HS dân tộc Khmer giảm
bớt những lỗi dùng từ đặt câu trong tạo lập văn bản nói và viết… Để rèn
luyện, nâng cao kỹ năng tạo văn bản cho HS, song song với việc trang bò
những tri thức mang tính chuẩn mực về chính tả, từ ngữ, câu văn, đoạn văn,
văn bản và phong cách ngôn ngữ văn bản, chúng ta cần cung cấp những hiểu
biết về lỗi sai một cách có hệ thống. Bởi vì nhận biết lỗi sai cũng là một
biện pháp tích cực giúp cho HS tiếp cận cái chuẩn mực, để rèn luyện cái
chuẩn mực.
Trên cơ sở các lỗi cơ bản về từ ngữ, ngữ pháp ở HS THPT dân tộc
Khmer, xây dựng những cơ sở lý luận xác đáng cho phương pháp chữa lỗi từ
ngữ, ngữ pháp trong quá trình dạy học TV. Tiến hành khảo sát thực tiễn qua




14
dạy và học tiếng Việt cho HS Khmer THPT ở trường phổ thông, từ đó, chúng
tôi đề xuất một số phương pháp chữa lỗi dùng từ đặt câu TV cho HS THPT
dân tộc Khmer mang tính đặc thù, khả thi.
4. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là HS THPT dân tộc
Khmer trường THPT Dân tộc nội trú An Giang đang học môn Ngữ văn
chương trình giáo dục THPT với việc mắc các lỗi từ ngữ, ngữ pháp TV trong
các bài viết kiểm tra, bài thi.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu các lỗi sai cơ bản từ ngữ, ngữ pháp và phương pháp dạy
học chữa các lỗi này trong chương trình giảng dạy, SGK môn “Ngữ văn” cấp
THPT, tài liệu chủ đề tự chọn cấp THPT và qua các tiết dạy TV của GV
trường THPT DTNT AG. Nhất là tập trung vào các bài kiểm tra thi học kỳ
của HS THPT dân tộc Khmer ở trường THPT DTNT AG.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp tổng hợp lý luận và thực tiễn: Tổng hợp những công
trình, chuyên luận về các lỗi từ ngữ, ngữ pháp, các giáo trình đổi mới PPDH
TV… để nghiên cứu, phát hiện những luận điểm làm tiền đề lý luận trực
tiếp, gián tiếp cho việc phương pháp chữa các lỗi sai về từ ngữ, ngữ pháp
vốn tồn tại trong quá trình dạy học TV trường phổ thông.
- Phương pháp khảo sát: Chúng tôi tiến hành phương pháp khảo sát để
nắm bắt các lỗi sai về việc dùng từ đặt câu của HS THPT dân tộc Khmer.
Việc khảo sát của chúng tôi dựa trên các bài kiểm tra thi học kỳ I, II của HS
khối 10, 11, 12 ở trường THPT DTNT AG, năm học 2006 – 2007, với tổng số



15
lượng bài thi: 594. Từ đó tìm ra những lỗi cơ bản nhất để làm cơ sở cho

phương phương chữa lỗi về từ ngữ, ngữ pháp cho HS.
- Phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá: Phương pháp này dùng
để thống kê kết quả khảo sát và kết quả thực nghiệm. Với PP này, chúng tôi
tổng hợp thống kê các lỗi về từ vựng, về ngữ pháp và xác đònh tỉ lệ để phân
tích, đánh giá giữa các đối tượng HS của từng khối lớp ở cấp THPT. Phương
pháp thống kê phân tích nhằm giúp cho chúng tôi có cái nhìn chính xác về
các lỗi dùng từ đặt câu của HS THPT dân tộc Khmer và giúp các em khắc
phục dần các mặt hạn chế khi học TV.
7. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Dựa trên cơ sở ngôn ngữ học TV và tiếng Khmer về từ vựng, ngữ pháp
để đối chiếu hiện tượng giao thoa của tiếng Khmer và TV. Và một số đặc
điểm về dạy học song ngữ TV– tiếng Khmer trong nhà trường phổ thông khi
chữa lỗi từ ngữ, ngữ pháp TV. Tất cả làm tiền đề cơ sở lý luận khoa học khi
nghiên cứu. Từ đó, thấy được những nguyên nhân đưa đến sai chuẩn về từ
ngữ, ngữ pháp và đưa ra phương pháp chữa các lỗi này cho HS THPT dân
tộc Khmer.
Từ thực tiễn yêu cầu phát hiện các lỗi cơ bản về từ ngữ, ngữ pháp TV
mà hình thành các biện pháp khắc phục sửa chữa nó trong việc dạy học
tiếng Việt cho HS THPT dân tộc Khmer trên cứ liệu trường THPT DTNT
AG.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:



16
Chương 1: Vấn đề dạy học tiếng Việt cho học sinh THPT dân tộc
Khmer.
Chương 2: Phương pháp dạy học chữa lỗi từ ngữ tiếng Việt .
Chương 3: Phương pháp dạy học chữa lỗi ngữ pháp tiếng Việt.




17
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC
SINH THPT DÂN TỘC KHMER
1.1. Những đặc điểm riêng trong dạy học TV cho HS THPT dân tộc
Khmer
1.1.1. Nguyên tắc dạy học TV cho HS THPT dân tộc Khmer
Khi sống chung một cộng đồng các dân tộc Việt Nam, cùng sử dụng
TV như một công cụ giao tiếp chủ yếu trọng mọi lónh vực, lại hấp thụ chung
một nền giáo dục thì dù là HS người Kinh hay HS dân tộc Khmer, tất cả
cũng cần được dạy học trên những cơ sở nguyên tắc chung. Ta có thể chú ý
đến một số nguyên tắc đặc thù của dạy học TV.
1.1.1.1. Nguyên tắc hệ thống và phát triển
Để học tốt TV, HS dân tộc Khmer phải tiếp xúc và làm quen với TV
theo từng cấp độ khác nhau. Từ cấp Tiểu học, THCS đến THPT, HS dân tộc
Khmer đã có sự tích luỹ vốn từ ngữ TV kha khá. Lúc này TV được hình
thành một cách lô – gíc và có hệ thống. HS THPT dân tộc Khmer có thể hệ
thống ý nghóa các từ ngữ thành câu, liên kết câu thành đoạn văn, nối kết các
đoạn thành một văn bản hoàn chỉnh.
Nguyên tắc yêu cầu GV trình bày theo thứ tự hợp lý và nêu được mối
quan hệ giữa chúng. Nó đòi hỏi các hiểu biết về lý thuyết được trình bày
theo mối quan hệ liên tưởng và rèn luyện kỹ năng sử dụng TV cũng phải
tuân thủ như thế. Ví dụ như hiện tượng nhiều nghóa cần liên hệ với hiện
tượng đồng âm hoặc hiện tượng đồng nghóa, hiện tượng trái nghóa cần liên
hệ với hiện tượng trái nghóa….




18
Trong quá trình dạy học TV, kiến thức trình bày cho HS dân tộc
Khmer phải đảm bảo sự tiếp thu kiến thức mới trên cơ sở kiến thức cũ. Kiến
thức mới không được tách rời kiến thức cũ đã có. GV ôn tập, củng cố và tìm
trong kiến thức mới các cơ sở của cái đã cũ. Và GV dạy cho HS dân tộc
Khmer cũng phải đa dạng và chọn lựa hệ thống bài bài tập cho phù hợp với
đối tượng HS: từ dễ đến phức tạp. Hoặc tuỳ theo đối tượng HS trong lớp mà
giao các loại bài tập khác nhau. Ví dụ như những bài tập dễ dành cho HS
yếu kém, những bài tập khó ưu tiên cho HS khá giỏi giải quyết. Như vậy,
GV vừa hệ thống tri thức, vừa linh động rèn luyện kỹ năng một cách linh
hoạt theo từng đối tượng HS.
1.1.1.2. Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp
TV vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính khái quát. Các khái niệm, các
qui tắc TV đều được rút ra từ những thực tiễn đa dạng của ngôn ngữ. Nhưng
dạy học TV không chỉ nhằm mục đích cung cấp những khái niệm, qui tắc lý
thuyết mà nâng cao năng lực sử dụng TV cho HS. Do đó, dạy học TV phải
đặt trong mối quan hệ với hoạt động giao tiếp ngôn ngữ. Chúng ta cũng biết
bản chất của PP dạy tiếng là dùng mọi biện pháp làm cho quá trình dạy học
tiếng giống hoặc gần giống giao tiếp tự nhiên.
Theo các nhà nghiên cứu giáo dục học về tiếng thì nguyên tắc này có
thể thực hiện thông qua một số phương diện cụ thể:
- Hướng dẫn cho HS thấy rằng các khái niệm, các qui tắc TV có thể sự
biểu hiện rất đa dạng, có thể có những sự chuyển hoá trong hoạt động giao
tiếp. GV dạy HS dân tộc Khmer chú ý đến sự chuyển nghóa của từ, câu rút



19
gọn trong TV. Vì HS dân tộc Khmer ít được giao tiếp ngôn ngữ nên rất khó
khăn khi gặp những trường hợp vừa nêu.

- Vận dụng các tri thức TV vào hoạt động giao tiếp: lónh hội, phân
tích, đánh các sản phẩm của hoạt động giao tiếp; tạo lập các sản phẩm giao
tiếp… Nó nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục đích giao tiếp trong những
hoàn cảnh giao tiếp nhất đònh. GV đặt ra hệ thống bài tập phù hợp với ngữ
cảnh mà HS thường xuyên giao tiếp.
- Huy động các kinh nghiệm vốn có của HS trong hoạt động giao tiếp
vào việc hình thành các kiến thức lý thuyết TV, vào việc củng cố và điều
chỉnh kiến thức.
1.1.1.3. Nguyên tắc gắn lý thuyết với thực hành
Cũng như trong các lónh vực dạy học khác, việc thực hiện nguyên tắc
này ở lónh vực dạy học TV có tác dụng tích cực đến việc thực hiện hai mục
tiêu chính: trang bò kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Điều này rất quan trọng
đối với HS người Kinh nói chung, HS dân tộc Khmer nói riêng khi học TV.
Nguyên tắc này không chỉ thực hiện trong việc dạy thực hành mà cả
trong lý thuyết. Người GV có thể trình bày một khái niệm, qui tắc TV theo
trình tự diễn dòch hay quy nạp. Tức là GV cung cấp kiến thức, sau đó cho
thực hành minh hoạ. Ngược lại, GV cung cấp các dữ liệu để HS phân tích,
đánh giá, từ đóù rút ra khái niệm, qui tắc chung. Đối với việc triển khai từ
phân tích, tìm hiểu ngữ liệu cụ thể đến nhận đònh khái quát (thực hành đến
lý thuyết) là nguyên tắc phù hợp với HS dân tộc Khmer. Vì đi từ cái cụ thể
để khái quát hình thành cái chung, cái trừu tượng phù hợp với khả năng tư
duy của các em. Và hoạt động thực hành chủ yếu làm sáng tỏ thêm lý



20
thuyết, củng cố các kiến thức lý thuyết, đồng thời rèn luyện được bốn kỹ
năng nói, nghe, đọc, viết. Ở đây, giảng dạy theo hướng phát triển tư duy của
HS, GV vận dụng nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực hành, có thể trong lý
thuyết có thực hành, và trong thực hành luôn luôn có lý thuyết (GV củng

cố).
Vì vậy, phần TV trong SGK Ngữ văn được biên soạn theo tính tích cực
trong học tập của HS. Trong mỗi bài, nội dung kiến thức và kỹ năng rèn
luyện không đơn phương mà kết hợp với nhau một cách chặt chẽ thông qua
các hoạt động tìm hiểu của HS.
1.1.1.4. Nguyên tắc kết hợp giữa phát triển tư duy và phát triển
ngôn ngữ
Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Các hoạt động
ngôn ngữ và các hoạt động tư duy luôn gắn bó nhau. Năng lực ngôn ngữ và
năng lực tư duy của từng người luôn đi liền với nhau trong quá trình hình
thành và phát triển… Do đó, dạy học TV cho HS dân tộc Khmer cũng luôn
đặt trong mối quan hệ các hoạt động tư duy. Điều này có thể biểu hiện qua
một số trường hợp sau:
- Trong sự hình thành các khái niệm và qui tắc TV cần tiến hành cùng
với các hoạt động và thao tác tư duy như khái quát hoá, so sánh, đối chiếu,
phân tích, tổng hợp… Thông qua các thao tác tư duy này hình thành và nâng
cao các tri thức TV, từ đó vận dụng vào hoạt động sử dụng.
- Rèn luyện các kỹ năng tạo lập trong TV cũng được tiến hành cùng
với rèn luyện các kỹ năng tư duy: lập luận, giải thích, chứng minh… Các



21
năng lực này được phối hợp chặt chẽ trong các hoạt động ngôn ngữ nhằm
tạo lập sản phẩm.
- Trong hướng dẫn HS phát hiện và sửa chữa các lỗi TV cũng cần gắn
với năng lực tư duy. Nhiều lỗi TV là do sự biểu hiện những sai sót trong tư
duy. Đồng thời việc sửa chữa các lỗi TV cũng là sửa chữa, uốn nắn các sai
sót trong quá trình tư duy.
1.1.1.5. Nguyên tắc tích hợp

Nguyên tắc tích hợp thể hiện sự phối hợp giữa các phần Tiếng Việt,
văn học, Làm văn. Trên cơ sở những ngữ liệu văn bản văn học giúp HS phân
tích rút ra những nhận xét, kết luận về các hiện tượng ngôn ngữ. HS lại vận
dụng những hiểu biết đó để đọc – hiểu văn bản và ứng dụng vào viết văn
trong môn Làm văn. Kết quả của quá trình dạy học theo nguyên tắc tích hợp
là tạo ra kiến thức và kỹ năng tổng hợp của HS. Chẳng hạn cấu trúc của
phần TV trong chương trình Ngữ văn 11 chú ý đến nguyên tắc tích hợp với
các phần Văn học và Làm văn. Các bài TV được bố trí xen kẽ với các bài
Văn học và Làm văn vào những vò trí tạo nên sự tích hợp tốt nhất. Cụ thể
như bài “Thực hành về thành ngữ, điển cố” được bố trí ở sau một số văn bản
văn học trung đại, nơi sử dụng nhiều thành ngữ và điển cố…
Và trong dạy học TV không được tách rời các phân môn TV. Việc dạy
tách các phân môn TV sẽ không tìm thấy mối liên hệ bản chất của các hiện
tượng ngôn ngữ làm cho việc dạy học từng phân môn vừa có sự trùng lặp với
phân môn khác lại vừa có sự thiếu sót, chưa chu đáo.
TV là một hệ thống khoa học. Trong phạm vi chương trình học tập, TV
không chỉ là một hệ thống khoa học mà còn là một hệ thống sư phạm. Mối



22
liên hệ mang tính khoa học giữa các phân môn TV hết sức phong phú. Về
ngữ âm, không chỉ để dạy chính âm mà đối với TV còn để dạy chính tả. Câu
là đơn vò hoàn chỉnh, có ý nghóa, có cấu trúc, có ngữ điệu. Không hiểu ngữ
âm không thể học tốt ngữ pháp, phong cách tu từ. Từ vựng được hiểu ở nghóa
trung hoà và nghóa trong văn cảnh, tức là trong câu, trong đoạn. Học ngữ
pháp không thể tách rời với học dấu câu, với ngữ điệu câu. Phong cách tu từ
học là khoa học về cách dùng từ đặt câu, đọc, nói một cách truyền cảm. Ngữ
pháp văn bản vượt lên trên đơn vò câu những không thể không dựa vào ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp như các vật liệu cơ sở của phát ngôn.

Nắm vững nguyên tắc, GV đáp ứng được nhu cầu dạy học TV trong
chương trình Ngữ văn đang được đổi mới. Nó cũng tuỳ thuộc vào sự vận
dụng khéo léo của GV để đạt hiệu quả trong quá trình dạy học TV.
Trên đây chỉ là một số nguyên tắc trong dạy học TV, còn có thể có
một số nguyên tắc nữa. Do điều kiện có hạn nên luận văn chỉ trình một số
nguyên tắc dạy học TV phù hợp đối tượng HS THPT dân tộc Khmer. Nhưng
trong việc thực hiện các nguyên tắc ấy, tất nhiên GV phải biết vận dụng một
cách sáng tạo cho phù hợp với đối tượng mình đang dạy.
1.1.2. Phương pháp đối chiếu, so sánh trong dạy học TV cho HS
THPT dân tộc Khmer
Trong quá trình dạy học TV có thể áp dụng nhiều PPDH khác nhau.
Và người ta thường nhắc tới các PPDH: phân tích ngôn ngữ, rèn luyện theo
mẫu câu, hướng vào hoạt động giao tiếp… là các PP đặc thù của dạy học
TV. Những vấn đề này, các nhà nghiên cứu giáo dục học về PP dạy tiếng đã
đề cập rất nhiều. Nhưng đối với dạy học TV cho HS THPT dân tộc Khmer



23
có thể vận dụng một cách linh hoạt và phù hợp đối với từng đối tượng giảng
dạy.
Hiện nay các trường THPT DTNT ở An Giang nói riêng, ở đồng bằng
sông Cửu Long nói chung đang vận dụng theo PP dạy học song ngữ, sử dụng
ngay vốn TV của các em tiếp nhận trong thực tế giao tiếp để làm chuyển
ngữ. Chuyển ngữ dùng để dạy TV cho HS dân tộc Khmer cũng là TV. GV
dùng lời nói của mình làm mẫu cho HS theo, từ cách phát âm, cách dùng từ
ngữ đến cách đặt câu tạo văn bản. Như vậy, GV chú ý đến một số yêu cầu
dạy học TV cho HS dân tộc Khmer mang tính đặc thù. Chẳng hạn như về từ
ngữ, GV đảm bảo việc cung cấp cho HS một số vốn từ ngữ thích ứng theo
yêu cầu của chương trình. Nhưng cũng cần cân nhắc khả năng HS dân tộc

Khmer có thể có một số vốn từ ngữ TV phong phú không thua kém HS người
Kinh. Từ đó, GV có sự quan sát, theo dõi kỹ và vận dụng các cách dạy phù
hợp cho từng đối tượng. Và GV chú ý đến vốn từ ngữ ở các lónh vực chính
trò, xã hội và khoa học kỹ thuật… còn xa lạ đối với HS dân tộc Khmer. Vì
đây là vốn từ mà ngôn ngữ Khmer hoàn toàn vay mượn của TV. Đồng thời
cũng quan tâm đến việc thực hành sử dụng vốn từ ngữ ấy trong các hoạt
động giao tiếp ở nhà trường, ở các môi trường trong xã hội… Hoặc về ngữ
pháp, GV cho HS thực hành một cách tích cực việc phân tích và tạo các kiểu
câu, nói chung là các cách diễn đạt bằng TV, theo yêu cầu của chương trình.
Có như vậy mới tránh được hiện tượng giao thoa do HS vận dụng cấu tạo
cụm từ, cấu tạo câu của ngôn ngữ Khmer vào TV.
Trong việc sửa lỗi cho HS khi thực hành luyện tập TV hoặc giảng dạy
“Những lỗi thường gặp trong tiếng Việt; thực hành sửa lỗi” trong chương



24
trình “Tự chọn môn Ngữ văn 10”, cần thấy rằng những lỗi có thể có ở HS
dân tộc Khmer không chỉ do ý thức và năng lực của HS mà còn do sự tiếp
xúc ngôn ngữ, một hiện tượng vốn được coi là tự nhiên, ở đây là hiện tượng
giao thoa trong tiếng Khmer với TV.
Tóm lại, đối với việc dạy học TV cho HS dân tộc Khmer, cần tìm tòi
và vận dụng thêm một số PP dạy học TV thích ứng với đối tượng HS. Chẳng
hạn như sử dụng tiếng dân tộc Khmer trong dạy từ ngữ, dùng tiếng Khmer
để đối chiếu với TV khi có hiện tượng giao thoa ngôn ngữ…
1.1.2.1. Đối chiếu, so sánh trong dạy học từ ngữ
Đối chiếu và so sánh là thao tác tư duy để phân biệt hiện tượng, khái
niệm với các hiện tượng, khái niệm khác. Đối chiếu và so sánh là thủ pháp
quan trọng, thường thấy dùng trong tất cả các PP dạy học TV. PP đối chiếu
và so sánh trong dạy học TV cho HS THPT dân tộc Khmer là PPDH thực

hiện trên cơ sở nêu ra hai cách diễn đạt cùng một nội dung ở hai ngôn ngữ
để xem xét sự khác nhau và giống nhau của hai cách diễn đạt ấy.
HS dân tộc Khmer thường lúng túng khi thấy số từ TV đứng trước
danh từ. Bởi vì trong tiếng Khmer, số từ luôn đứng sau danh từ. Ví dụ như
“mon bây” (gà ba con), “xrâu bây lă-ây” (lúa ba thúng). Đối với trường hợp
này, GV cần lưu ý cách sử dụng số từ trong tiếng Khmer khác với TV như
thế nào để HS dùng đúng trong TV.
Những trường hợp dùng từ trùng lặp giữa hai ngôn ngữ TV – Khmer
cùng một lúc. GV hướng dẫn cho HS thấy trong TV đã có từ ngữ đó cho nên
không cần dùng thêm tiếng dân tộc Khmer chêm xen vào nữa. Chẳng hạn



25
như HS nói “Hôm nay, chúng em ăn canh xôm lo đu đu” ( “Xôm lo” trong
tiếng Khmer có nghóa là “canh”).
Khi tiếng Khmer có một từ nhiều nghóa lại đồng nghóa với nhiều từ TV
khác, HS dân tộc Khmer chỉ có thể dùng một từ trong số đó.
Ví dụ: “hop”: ăn (hop bai: ăn cơm)
uống (hop tức: uống nước).
Và dùng từ ngữ sai phong cách do giao thoa ngôn ngữ Khmer hay hạn
chế về vốn từ TV. Ví dụ: GV chủ nhiệm hỏi thăm hoàn cảnh gia đình cảu
HS có bao nhiêu anh em. HS trả lời với GV: “Nhà em có ba thằng. Hai
thằng đó cũng học ở trường mình đó thầy”.…
Chuyển dòch từ ngữ TV sang tiếng Khmer để HS dễ hiểu và nắm được
nghóa của từ hơn. Vai trò của dòch trong dạy từ là có mức độ vì chỉ có một số
ít từ của ngôn ngữ đang học là hoàn toàn tương đương về nghóa với tiếng mẹ
đẻ của HS dân tộc Khmer. Dạy từ cho HS dân tộc Khmer, GV phải làm hết
những công việc “nội trợ” của dạy nghóa từ ngữ. Từ khâu giải nghóa những từ
khái quát, từ Hán – Việt, thuật ngữ khoa học, đến cả những từ thông dụng

trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nhưng cũng có khi GV cũng không thể
dùng chính TV để giải thích, lý giải ý nghóa của từ để giúp HS nắm được
nghóa của từ, vì HS không đủ trình độ TV và ít giao tiếp với TV thường
xuyên trong cuộc sống để hiểu lời giảng giải của GV. Trong trường hợp này,
việc dòch các từ đó sang tiếng dân tộc là hữu hiệu hơn cả. Tuy nhiên cách
dòch cũng tuỳ thuộc vào trình độ ngôn ngữ Khmer của mỗi GV và sự tương
ứng về ý nghóa của các từ được dòch. Ví dụ, với các từ như “chăm chỉ”, “đồ
đạc”… có thể chuyển dòch từ TV sang tiếng Khmer như “sóong vát”, “ây


×