Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Tác động của chính sách phát triển giao thông nông thôn đến hiện đại hóa nông nghiệp- nông thôn ở Hà Tĩnh từ 2006 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 97 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHAN VĂN TRUNG




TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG
NÔNG THÔN ĐẾN HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN
Ở HÀ TĨNH TỪ 2006 ĐẾN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC










Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHAN VĂN TRUNG




TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG
NÔNG THÔN ĐẾN HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN
Ở HÀ TĨNH TỪ 2006 ĐẾN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01




Người hướng dẫn khoa học: TS. Lưu Minh Văn






Hà Nội - 2014
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, tin cậy.

Tác giả luận văn


Phan Văn Trung
















ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng gửi đến các quý thầy cô giáo Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Hà Tĩnh, Khoa Khoa chính trị học,
lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc đã tạo điều kiện tối đa để chúng tôi có thể
hoàn thành chương trình khóa học.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn về sự chỉ bảo tận tình và chu đáo của
thầy giáo hướng dẫn – TS. Lưu Minh Văn; sự hỗ trợ, động viên của gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp chương trình
thạc sĩ.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến cơ quan: Thư viện Quốc gia, thư viện
Thượng Đình (ĐH KHXH & NV), thư viện Trường Đại học Hà Tĩnh, các cơ
quan lưu trữ Tỉnh , đã cung cấp những tài liệu quan trọng, quý báu cho tôi
hoàn thành đề tài.

Học viên


Phan Văn Trung






iii


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
3.1. Mục đích nghiên cứu 10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
4.1. Đối tượng nghiên cứu: 10
4.2. Phạm vi nghiên cứu: 10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 11
5.1. Cơ sở lý luận: 11
5.2. Cơ sở thực tiễn: 11
5.3. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Đóng góp của đề tài 11
7. Kết cấu của luận văn 11
Chương 1: HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP – NÔNG THÔN VÀ
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG NÔNG THÔN 12
1.1. Hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn 12
1.1.1. Khái niệm hiện đại hóa 12
1.1.2. Hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn 15
1.2. Chính sách phát triển giao thông nông thôn ở Việt Nam 24
1.2.1. Khái lược chính sách phát triển giao thông nông thôn ở Việt Nam 24
1.2.2. Nội dung chính sách phát triển giao thông nông thôn ở Việt Nam
hiện nay. 27
1.2.3. Một số đánh giá chính sách phát triển giao thông ở Việt Nam. 29
1.3. Tác động của chính sách phát triển giao thông với quá trình hiện đại
hóa nông nghiệp - nông thôn 30

iv

Chương 2 : THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG
NÔNG THÔN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP – NÔNG THÔN Ở HÀ TĨNH 35
2.1. Khái lược về việc thực hiện chính sách phát triển giao thông nông thôn
của tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2006 đến nay 35
2.1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển
giao thông nông thôn Hà Tĩnh 35
2.1.2. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Tĩnh cụ thể hóa chính sách
phát triển giao thông nông thôn 39
2.2. Kết quả huy động vốn xây dựng hạ tầng giao thông đường bộ
nông thôn xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hà Tĩnh 43
2.3. Sự tác động của thực hiện chính sách giao thông nông thông đến
quá trình hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Hà Tĩnh 48
2.3.1. Tác động chính trị, an ninh – quốc phòng của chính sách phát triển
giao thông nông thôn 48
2.3.2. Tác động kinh tế của chính sách phát triển giao thông nông thôn 49
2.3.3. Tác động văn hóa – xã hội của chính sách phát triển giao thông
nông thôn 53
2.4. Quan điểm và một số khuyến nghị về thực hiện chính sách phát triển
giao thông nông thôn ở Hà Tĩnh 56
2.4.1. Quan điểm và chỉ tiêu định hướng phát triển giao thông nông thôn
của Tỉnh Hà Tĩnh 56
2.4.2. Một số khuyến nghị về thực hiện chính sách phát triển giao thông
nông thôn ở tỉnh Hà Tĩnh 60
KẾT LUẬN 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
PHỤ LỤC


v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1
KT – XH
Kinh tế - xã hội
2
QP -AN
Quốc phòng, an ninh
3
GTNN
Giao thông nông thôn
4
CNH-HDH
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
5
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
6
GTVT
Giao thông vận tải
7
ANND
An ninh nhân dân
8
NN
Nhà nước
9
ĐCS

Đảng Cộng sản
10
VN
Việt Nam







1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hà Tĩnh là một trong những tỉnh rất khó khăn của cả nước. Trong những
năm chiến tranh, nơi đây đã cống hiến biết bao sức người, sức của cho nền độc
lập và thống nhất nước nhà. Sau chiến tranh, mảnh đất này, đối diện với bộn bề
khó khăn thách thức về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, với ý chí quyết tâm của
toàn bộ nhân dân trong tỉnh, cùng với sự quan tâm giúp đỡ rất nhiều từ phía
trung ương và các tổ chức kinh tế - xã hội về cả tinh thần, vật chất và cơ chế
chính sách. Hà Tĩnh dần hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, giải
quyết các vấn đề chính sách xã hội. Đời sống nhân dân từng bước được cải
thiện, số lượng đối tượng chính sách, đồng bào khó khăn càng được cộng đồng
quan tâm nhiều hơn. Mức sống của các gia đình có công với cách mạng được
đảm bảo bằng mức sống tối thiểu trung bình của nhân dân cả nước.
Trong tổng thể các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Hà Tĩnh đã tận
dụng và phát huy kịp thời các chính sách phát triển chiến lược của Đảng và
Nhà nước, đặc biệt là chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn

trong tổng thể phát triển chung của đất nước, trong đó, Văn kiện Đại hội XI chỉ
rõ: "phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn". [9; tr.57]
Chính sách phát triển về nông nghiệp, nông dân và nông thôn thời gian
qua đã trở thành động lực phát triển của nền kinh tế và xã hội của Hà Tĩnh nói
riêng, của cả nước trong thời kỳ đổi mới nói chung. Tuy nhiên, phát triển nông
- lâm - ngư nghiệp trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã gặp phải
một số vấn đề, thách thức như: Khả năng cạnh tranh, năng suất, chất lượng của
sản phẩm nông nghiệp còn thấp; sự gắn kết giữa sản xuất và thị trường nội địa
và quốc tế trong nông nghiệp còn rất yếu; nền nông nghiệp phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chưa hiệu quả, kém bền vững.
2

Vậy làm thế nào, để tạo ra động lực duy trì sự phát triển bền vững nhất
là với các tỉnh nghèo như tỉnh Hà Tĩnh? Khi mà những tác động của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những thách thức cho
chính sự phát triển của nông thôn, nông nghiệp như: diện tích đất sản xuất
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, áp lực về lao động trong nông nghiệp cũng
ngày càng tăng lên, vấn đề vốn, và những đòi hỏi phải thay đổi kỹ thuật, tập
quán canh tác.v.v cho đến những biến đổi về cấu trúc cộng đồng cư dân nông
thôn và lao động nông nghiệp. Chắc chắn, ở đây, cần có sự kết hợp đồng bộ
nhiều biện pháp xây dựng và phát triển khác nhau như nâng cao hiệu quả sản
xuất nông nghiệp, chăm lo đời sống cho nhân dân và quyết tâm thay đổi bộ
mặt nông thôn bằng chính sách gắn kết công - nông nghiệp với dịch vụ, đưa
dịch vụ về đến nông thôn, công nghiệp hóa nông nghiệp bằng cách cung cấp
máy móc cho nông nghiệp, cho quy trình chế biến các sản phẩm từ nông
nghiệp, tập trung giải quyết vấn đề thừa lao động trong nông nghiệp, tăng
thêm cơ hội cho người dân, để họ nâng cao đời sống của mình.
Để góp phần thay đổi toàn bộ diện mạo ở nông thôn Việt Nam thời gian
vừa qua, trong tổng thể các phương sách xây dựng nông nghiệp và phát triển

nông thôn hiện nay, thì chính sách phát triển giao thông nông thôn vừa với tư
cách là chiến lược phát triển kinh tế và vừa là ưu tiên chính trị của Đảng và
Nhà nước ta có tác động to lớn đối với quá trình hiện đại hóa khu vực nông
nghiệp - nông thôn của cả nước, trong đó có Hà Tĩnh. Kết quả quan trọng của
thực hiện chính sách này tại địa phương không chỉ đã làm thay đổi cơ sở hạ
tầng của tỉnh, từ đó tạo nên những nền tảng quan trọng cho sự phát triển của
tỉnh theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa trên tât cả các mặt của đời
sống xã hội.
Để làm rõ vai trò, vị trí của quá trình xây dựng và thực hiện chính sách phát
triển nông nghiệp - nông thôn ở Hà Tĩnh, và với tư cách là một cán bộ đang tham
3

gia trực tiếp thực hiện chính sách phát triểm giao thông nông thôn tại địa phương
tôi chọn đề tài "Tác động của chính sách phát triển giao thông nông thôn đến
hiện đại hoá khu vưc nông nghiệp - nông thôn ở Hà Tĩnh từ 2006 đến nay" làm
đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình viết về chính sách phát triển
giao thông nông thôn nói chung, trong đó có một số tác giả đặt trọng tâm xem
xét sự chính sách phát triển giao thông nông thôn trong khung cảnh của quá
trình hiện đại hoá đất nước nói chung và khu vưc nông nghiệp - nông thôn nói
riêng. Ở đó có thể tìm thấy, trong chừng mực nhất định, những cơ sở lý
luận và tổng kết thực tiễn trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề này.
Tuy nhiên từ nhận thức lý luận đó đến cụ thể hóa để có thể ứng dụng phù
hợp với đặc điểm ở địa phương, chẳng hạn ở Hà Tĩnh, thì còn không ít
những vấn đề.
Các tài liệu dùng để tổng quan tình hình nghiên cứu trong luận văn
này được phân loại theo các nhóm tài liệu sau:
Nhóm tài liệu về quan điểm của Đảng CSVN về công nghiệp hoá, hiện
đại hoá:

Sau 9 năm kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược lần thứ hai, chúng
ta đã giải phóng được một nửa đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
(1960) đánh dấu giai đoạn phát triển mới của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đại hội đề ra mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh giải phóng miền Nam. Đại hội đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961
- 1965): Xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của công nghiệp hoá được đặt ra
cho giai đoạn này là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa
xã hội, thực hiện ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
4

Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, chúng ta tiếp
tục thực hiện công nghiệp hoá theo mô hình kế hoạch tập trung, bao cấp như
trước chiến tranh. Vẫn tiếp tục ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Theo đó, từ năm 1976 - 1985
chúng ta đầu tư 1/3 tổng chi ngân sách cho công nghiệp nặng, trong nông
nghiệp thực hiện mô hình tập thể hoá triệt để. Chính sách trên đã bộc lộ nhiều
bất cập, không phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển của thời đại.
Cơ cấu giữa nông, công nghiệp và dịch vụ bộc lộ những bất hợp lý lớn, không
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, sản phẩm lao động làm ra không đủ đáp
ứng những nhu cầu thiết yếu của xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta
không thể duy trì quan niệm về công nghiệp hoá như trước đây mà phải nhận
thức lại một cách sâu sắc và đổi mới căn bản nội dung của công nghiệp hoá
cho phù hợp với tình hình mới của đất nước và quốc tế. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, tháng 12 - 1986 đã đánh giá thực trạng kinh tế xã hội của
nước ta. Nhận thức cả mặt ưu và khuyết điểm của quá trình công nghiệp hoá
trước đó, đưa ra đường lối đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức,
quan điểm và chỉ đạo thực hiện.
Trước hết là đổi mới tư duy lý luận mà trọng tâm là tư duy kinh tế, tiến

hành chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội cũng
khẳng định phải đổi mới cả nội dung và các bước tiến hành công nghiệp hoá,
từ chỗ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm, đưa ra kế hoạch:
“thực hiện cho được chương trình, mục tiêu về sản xuất lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, coi đó là những điều kiện ban đầu
không thể thiếu được để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường tiếp theo.
5

Kế thừa những nội dung cơ bản về công nghiệp hoá đất nước do Đại hội
VI xác định và thực tiễn sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới. Đại hội
VII của Đảng (6/1991) đã cụ thể hoá, bổ sung và có bước phát triển mới cho
phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế. Đại hội VII của Đảng cụ thể hoá
hơn về nội dung công nghiệp hoá và cho rằng phải công nghiệp hoá theo
hướng hiện đại hoá, theo đó phát triển lực lượng sản xuất xã hội và phát triển
nền nông nghiệp toàn diện trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quán triệt những quan điểm về công nghiệp hoá đất nước của Đại hội
VII, Nghị quyết TW 5 khoá VII (6/1993) chỉ rõ: “Đặt sự phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm
quan trọng hàng đầu”. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đảng công nghiệp
hoá gắn với hiện đại hoá.
Đến tháng 1/1994 Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
đã phân tích làm rõ hơn mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước, chỉ ra sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ 2 nội dung trên trong quá trình
phát triển và để tránh hiểu công nghiệp hoá và hiện đại hoá là 2 nội dung tách
biệt nhau Hội nghị đã thay cụm từ “công nghiệp hoá và hiện đại hoá” bằng
cụm từ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đồng thời Hội nghị cũng nêu ra yêu

cầu cấp bách là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Tháng 7/1994 Hội nghị TW 7 khoá VII xác định chiến lược công nghiệp
hoá, hiện đại hoá với nội dung là:
Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
6

Hội nghị còn nhấn mạnh phải kiên trì hướng về xuất khẩu đồng thời thay
thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Đại hội VIII tiếp tục những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới
đất nước trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi. Nhất quán
với quan điểm công nghiệp hoá của Đảng đã được khẳng định trong các Đại
hội VI và VII, Đại hội VIII nhấn mạnh: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Đại hội
xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá những năm trước mắt là phải tập trung
vào nông nghiệp và nông thôn:
Đại hội IX (2001) tiếp tục kế thừa và phát huy chiến lược phát triển kinh
tế xã hội và chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đại hội nhấn
mạnh: “Con đường công nghiệp hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt” đồng thời tiếp
tục khẳng định quan điểm gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đến Đại hội X chỉ rõ: “Tranh thủ cơ
hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra về tiềm năng lợi thế của nước ta để rút
ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh
tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đại hội XI, bổ sung và phát triển

“Cương lĩnh xây dụng đất nước trong thời kỳ quá độ”, tiếp tục khẳng định:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức,
phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi
trường, phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại
vào giữa thế kỷ XX”.
Từ các văn kiện trên có thể thấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở nước ta gồm 2 giai đoạn: Từ 1960 - 1986 chính sách công nghiệp hoá của
7

Việt Nam được xác định là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng nhằm xây
dựng một nền công nghiệp làm nền tảng vật chất kỹ thuật cho công nghiệp
hoá. Từ sau Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đường lối công nghiệp hoá
có bước chuyển căn bản. Công nghiệp hoá dựa trên nền tảng kinh tế hàng hoá,
thị trường, mở rộng hợp tác quốc tế. Đại hội VII, VIII đã tiếp tục phát triển
đường lối công nghiệp hoá là: Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá. Đại hội
IX nhấn mạnh việc cần và có thể rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội X, XI, gắn việc đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức. Coi kinh tế tri thức là phương
thức công nghiệp hoá mới trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và
toàn cầu hoá.
Từ những phân tích trên có thể thấy quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của Đảng cộng sản Việt Nam thực chất là quan niệm về phương thức, mô
hình, cách thức, cơ chế tiến hành công nghiệp hoá trong các giai đoạn. Tuy
nhiên, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng dừng lại ở
đường lối, chưa phân tích, đánh giá các yếu tố: kinh tế, chính trị, văn hoá, con
người tác động vào quá trình công nghiệp hoá qua mỗi giai đoạn. Mặt khác,
văn kiện đại hội sau thường có xu hướng phát triển, thêm vào những yếu tố
mới như công nghiệp hoá cần và có thể rút ngắn thời gian, công nghiệp hoá
gắn với kinh tế tri thức nhưng chưa đề cập thoả đáng đến những yếu tố, điều
kiện để rút ngắn hay kinh tế tri thức tác động như thế nào đến công nghiệp

hoá,v.v Vì vậy, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về những yếu tố và điều
kiện để rút ngắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, trong đó có yếu
tố văn hoá.
Nhóm tài liệu về chính sách công: Chính sách công được nghiên cứu bởi
chính trị học từ phương diện nó hiện diện với tư cách là sản phẩm, là cách
thức của các nhà nước và các chủ thể chính trị thông qua nhà nước để thực
8

hiện các hoạt động kiến tạo, hay kiểm soát, hay điều chỉnh các quá trình phát
triển xã hội. Đồng thời chính qua chính sách công chúng ta còn tình trạng đáp
ứng và hiệu quả hoạt động của chính nhà nước. Chỉ bằng ấy ý nghĩa vấn đề
chính sách công đã thể hiện là chủ đề phức tạp, lý thú của các nghiên cứu
chính trị học. Tuy vậy, thực tế phát triển của tri thức khoa học về chính sách
công cho thấy nó đã trở thành, và là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều
chuyên ngành khoa học.
Những công trình cung cấp cho chúng ta khái niệm chung về chính sách
công và phân loại chính sách công chiếm tỷ lệ khá lớn trong các ấn phẩm loại
này ở Việt Nam, có thể kể đến ở đây như: Tìm hiểu về khoa học chính sách
công (1999) Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Viện Khoa học chính trị, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Giáo trình hoạch định và phân tích chính sách
công, Nguyễn Hữu Hải chủ biên (2004), Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội v.v. Trong những công trình này các tác giả đã
bức tranh về sự đa chiều của các quan niệm về chính sách công qua phân tích
các định nghĩa khác nhau, nhất là quan niệm của các học giả phương Tây, như
Anderson, T. Dye, B. Guy Peter từ đó đưa ra định nghĩa chính sách công
của mình: Những hành động ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh
trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau [32;
tr.24]. Ngoài ra, qua phân tích chu trình chính sách các tác giả đã nhấn mạnh
vai trò của nhà nước với tư cách là những chủ thể chính sách. Ngoài ra việc
phân tích các lý thuyết về chính sách công, ví dụ, lý thuyết lựa chọn công, lý

thuyết chức năng.
Một mảng tư liệu khác cũng rất đáng chú ý là những công trình tập
trung nghiên cứu chức năng chính sách công, chẳng hạn, Lựa chọn công
cộng – Một số tiếp cân nghiên cứu chính sách công, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh (2010), Viện chính trị học (Tài liệu tham khảo – Lưu hành nội bộ),
9

trong tác phẩm này việc nhấn mạnh hai chức năng quan trọng của chính sách
- chức năng giải quyết vấn đề và chức năng kiến tạo của chính sách là nội
dung đáng chú ý.
Nhóm tài liệu về chính sách phát triển giao thông nông thôn:
Tài liệu nghiên cứu về chính sách giao thông nông thôn được thể hiện
chủ yếu qua các tài liệu thứ cấp – các chính sách cụ thể. Có thế nhắc tới các
công trình như sau: Thực trạng cơ sở hạ tầng ở nông thôn Việt Nam hiện nay
(2002) của tác giả Nguyễn Trường Tài, Nxb Xây dựng, Hà Nội; Một số vấn
đề về thiết kế, đo lường và tính toán trong việc quá trình xây dựng các công
trình giao thông ở nông thôn nước ta (2005) Phan Hoàng Anh, Nxb Giao
Thông Vận tải, Hà Nội; Vai trò của giao thông nông thôn đối với các tỉnh Tây
Bắc (2008), Hoàng Ngọc Nhật, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội; Hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay (2010), Huỳnh Tấn Phước, Tạp chí
Nông thôn mới (số 6), Hà Nội Ngoài ra, còn phải kể tới các văn bản, các tài
liệu liên quan trong việc hướng dẫn chỉ đạo chính sách về phát triển giao
thông nông thôn của Bộ giao thông, Bộ xây dựng và của Bộ Nông nghiệp
“Cập nhật và hoàn thiện Chiến lược phát triển GTNT Việt Nam cho Cục
đường bộ Việt Bộ GTVT Quyết định số 2379/QĐ-BGTVT ngày 12/8/2009;
Ban hành định mức chi phí cho lập thẩm định quy hoạch và điều chỉnh quy
hoạch tổng thể phát triển KT-XH, quy hoạch ngành và quy hoạch các sản
phẩm chủ yếu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Quyết định số 281/2007/QĐ-BKH
ngày 26/3/2007
Tất nhiên, các tài liệu này cung cấp những quan điểm chính sách cụ thể

của nhà nước Việt Nam hiện nay. Nhưng đó không phải là những tổng kết,
hoặc sáng tạo lý thuyết cho sự hoạch định chính sách giao thông nông thôn.
Vì vậy, đây có thể coi là một khoảng trống nhất định chính sách giao thông
nông thôn từ phương diện kiến tạo môi trường cho công cuộc hiện đại hóa
nông thôn ở nước ta hiện nay.
10

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ khảo cứu một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về
chính sách và tác động của chính sách phát triển giao thông nông thôn đến
khu vực nông nghiệp, nông thôn, luận văn hướng đến phân tích thực trạng
thực hiện chính sách phát triển giao thông nông thôn của Đảng bộ, Chính
quyền và nhân dân Hà Tĩnh và đề xuất một số khuyến nghị về thực hiện chính
sách trên tại địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách phát
triển giao thông nông thôn, công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Thứ hai, Phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong hoạch định
và chỉ đạo thực hiện của chính sách phát triển giao thông nôn thôn ở Hà Tĩnh
hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển chính sách giao
thông nông thôn của tỉnh Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tác động của chính sách phát triển giao thông nông thôn đến quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu các chính sách phát triển giao thông nông thôn ở Hà

Tĩnh từ năm 2006 đến nay, trên cơ sở có tham khảo các chính sách phát triển
kinh tế xã hội của một số địa phương ở nước ta trong đó tập trung vào việc
phát triển cơ sở hạ tầng các loại đường có thể áp dụng hình thức đầu tư huy
động nguồn lực xã hội theo 4 loại đường trong đánh giá tiêu chí nông thông
mới ( đường xã, liên xã; đường trục thôn, đường ngõ xóm và đường nội đồng)
11

riêng đường huyện do quy mô và nguồn đầu tư lớn không thể huy động theo
hình thức huy động nhân dân đóng góp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
- Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về công
nghiệp hóa, hiện đai hóa nói chung và đối với khu vực nông nghiệp, nông
thôn nói riêng.
- Thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong các lĩnh vực chính
sách công, chính sách phát triển giao thông nông thôn và những tác động kinh
tế, chính trị - xã hội của chính sách đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn
của Đảng và Nhà nước nói chung và của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Hà Tĩnh
nói riêng.
5.2. Cơ sở thực tiễn:
Thực trạng thực hiên chính sách và tác đông của chính sách phát triển
giao thông nông thôn ở tỉnh Hà Tĩnh từ 2006 đến nay
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp cụ thể: đối chiếu-so sánh, phân tích và tổng hợp các tài liệu
có liên quan và phương pháp điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của đề tài
Đóng góp về lý luận: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ
việc học tập và nghiên cức các vấn đề chính trị học, chính sách công.

Đóng góp về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
cho công tác triển khai chính sách phát triển giao thông nông thôn và thực hiện
chủ trương hiên đại hóa nông nghiệp – nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài
gồm hai chương, năm tiết.
12

Chương 1
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP – NÔNG THÔN VÀ CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG NÔNG THÔN

1.1. Hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn
1.1.1. Khái niệm hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa bắt đầu ở các nước tư bản trong đó đáng
chú ý là cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh. Sau đó là hàng loạt các
quốc gia, vùng lãnh thổ khác ở mọi châu lục bằng những con đường, mô hình,
cách thức khác nhau đều đã hoặc đang thực hiện quá trình này. Để cung cấp
luận cứ xem xét cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa hoá ở Việt Nam,
cần tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
khái niệm, đặc trưng và các giai đoạn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khi nghiên cứu về công nghiệp hóa giai đoạn đầu (cách mạng công
nghiệp), một số tác giả quan niệm: đó là quá trình trang bị cho một vùng hay
một quốc gia các phương tiện máy móc, kỹ thuật với trọng tâm là công nghiệp
cơ khí chế tạo máy. Theo quan niệm này thì nông nghiệp và các ngành kinh tế
khác phải lệ thuộc vào công nghiệp.
Những năm 1960 – 1990 một số nước Đông và Đông Nam Á tiến hành
quá trình công nghiệp hóa theo chiến lược rút ngắn thành công. Nhiều nhà
nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò, vị trí của công nghiệp chế tạo, công nghiệp
chế biến có trình độ khoa học – công nghệ cao, sử dụng hiệu quả (tiết kiệm)

nguồn tài nguyên thiên nhiên và mở rộng trao đổi thương mại quốc tế là đặc
điểm của công nghiệp hóa.
Năm 1965 tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO)
đã đưa ra định nghĩa về công nghiệp hóa như sau: “Công nghiệp hóa là một
quá trình trang bị máy móc và công nghệ hiện đại cũng như phương pháp
quản lý tiên tiến cho mọi hoạt động sản xuất, dù là sản xuất vật chất hay dịch
13

vụ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, đưa đến tốc độ phát triển nhanh và bền
vững về giá trị tăng thêm (GDP). Con đường của một nước tùy vào đặc thù về
nguồn lao động và tài nguyên của nước đó. Tuy vậy, đối với các nước có dân
số đáng kể, cái cầu trung gian thường là từ phát triển công nghiệp chế biến
hàng hóahoá tiêu dùng, dùng sức lao động cơ bắp tiến dần lên lao động
chuyên môn, rồi lên công nghiệp cao và kinh tế dịch vụ tiên tiến”.
Quan niệm công nghiệp hóa như trên hàm ý đó không phải là không chỉ là
quá trình “kỹ thuật”, “công nghệ” và kinh tế thuần túy mà còn là quá trình thay
đổi cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế của một quốc
gia nào đó, từ đó kéo theo những thay đổi khác của đời sống xã hội như thể
chế, văn hóa, lối sống. Tuy nhiên, công nghiệp hóa theo quan niệm trên vẫn
chủ yếu đề cập đến mặt vật chất, kỹ thuật, của quá trình phát triển chưa đề cập
một cách toàn diện đến mặt chính trị, xã hội sự phát triển của quá trình công
nghiệp hóa. Vì vậy, cần phải bổ sung bằng khái niệm hiện đại hóa từ đó mới đi
đến một khái niệm thống nhất công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Ở thời kỳ đầu (vào những năm 1950 -1960) nhất là ở phương Tây khá
thịnh hành các nhà lý luận đã quan niệm hiện đại hóa là quá trình phát triển
theo mô hình của Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình ấy trước hết nhấn mạnh đến
phương diện phát triển kinh tế, kỹ thuật như là quy luật chung, phổ quát và
xem sự phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường tất yếu của các nước trên thế
giới. Hiện đại hóa như trên cũng được gọi là hiện đại hóa mang tính nội sinh
vì hiện đại hóa nảy sinh từ những tiền đề kinh tế, văn hóa, xã hội vốn có của

chính những nước đó.
Các mô hình hiện đại hóa về sau không xuất phát từ những điều kiện
kinh tế văn hóa nội tại của nước đó mà du nhập, vay mượn những yếu tố từ
phương Tây, các nhà lý luận gọi là hiện đại hóa xuất phát từ yếu tố ngoại
sinh hay mà trường hợp điển hình là hiện đại hóa đuổi đuổi theo.
14

Khảo cứu lịch sử công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tác giả Lương Việt Hải
(Hiện đại hoá xã hội-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2001) đưa ra nhận định: các nhà nghiên cứu lý luận hiện
đại hóa trong lịch sử tổng kết rằng cả hiện đại hóa phát nguyên và hiện đại hóa
đuổi theo đều có cốt lõi là tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ công nghiệp
hóa mà biểu hiện rõ nhất của nó là cuộc cách mạng công nghiệp. Nó được bắt
đầu từ sự phân công lao động giản đơn đến công trường thủ công và cơ khí
hóa. Mục đích cuối cùng của hiện đại hóa là xây dựng một xã hội giàu mạnh,
văn minh, con người được thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần.
Từ đó, quá trình công nghiệp hóa (XHCN và TBCN) được xem là một
dạng căn bản của hiện đại hóa. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mặc dù có
những hạn chế nhất đinh, nhưng về cơ bản đã thực hiện được vai trò, sứ mệnh
lịch sử của mình - xây dựng những cơ sở kỹ thuật, kinh tế cho chủ nghĩa xã
hội , tạo cơ sở, nền tảng cho các nước XHCN.
Như vậy, hiện đại hóa có thể được quan niệm là toàn bộ các quá trình,
các dạng cải biến, các bước quá độ từ các trình độ kinh tế, xã hội khác nhau
đang tồn tại lên trình độ mới cao hơn dựa trên những thành tựu mới tiên tiến
của khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ tốt hơn cho sự phát triển toàn diện của
con người và tiến bộ xã hội.
Quan niệm hiện đại hóa như trên không những chỉ ra khả năng mới của
các quốc gia trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật có thể xuất phát từ
trình độ kinh tế xã hội khác nhau đều có thể tận dụng được những điều kiện
của quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức tiến thẳng lên trình độ

cao mà các nước đang phát triển hướng đến, thông qua đó mà rút ngắn quá
trình hiện đại hóa. Thực tế là một số nước ở Đông và Đông Nam Á trong
khoảng 30 năm đã tiến hành hiện đại hóa thành công. Vấn đề là ở chỗ hiện đại
hóa như thế nào. Có thể nói lịch sử xã hội loài người chính là xã hội từng
15

bước hiện đại hoá từ thấp đến cao, từ xã hội lạc hậu lên xã hội tiên tiến, mà
biểu hiện rõ nhất của nó là cuộc cách mạng công nghiệp - chuyển hoá xã hội
nông nghiệp lên xã hội công nghiệp hóa. Hiện nay, các nước tiến hành hiện
đại hóahoá đi sau phải kết hợp công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa hay
công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Vì vậy công nghiệp hóa gắn với hiện
đại hóa là một quá trình thống nhất, đặc biệt là đối với những nước chưa qua
cách mạng công nghiệp như Việt Nam. Do đó, càng càng cần có sự nhận thức
về phản ánh quá trình hiện đại hóa ở những nước chưa qua công nghiệp hóa.
Vì vậy, các nước này cần phải tiến hành lấy công nghiệp hóa theo hướng hiện
đại làm nền tảng của quá trình hiện đại hóa tất cả các mặt của đời sống xã hội
nói chung.
Quan niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa như trên là bước chuyển trong
nhận thức lý luận cách mạng của các nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa như Việt Nam.
1.1.2. Hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn
Từ quan niệm đã trình bày ở mục 1.1.1, có thể hình dung hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo định hướng sản
xuất hàng hóa lớn, hiện đại, gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ,
cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông
nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế nhằm nâng cao
năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp và nông thôn, xây dựng nông
thôn mới giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa.
Hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là quá trình phát triển nông

thôn theo hướng tiến bộ kinh tế - xã hội của một nước công nghiệp. Điều
đó có nghĩa là không chỉ phát triển công nghiệp nông thôn mà bao gồm cả
16

việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và đời
sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp
ở nông thôn và cả nước nói chung
Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù
cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến
lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây:
Thứ nhất, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một quá trình rộng lớn,
phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi
nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết
hợp giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất, của các tác nhân tham gia quá
trình. hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo tiền đề và cơ sở vững chắc thúc
đẩy toàn diện quá trình công nghiệp, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Ở các
nước chậm phát triển, sự đóng góp của nông nghiệp vào GDP là rất lớn. Ở Việt
Nam, lao động nông nghiệp chiếm 70% lực lượng lao động xã hội. Nếu như nền
kinh tế không có vốn nước ngoài, chiến lược phát triển nông nghiệp ở các nước
này trong giai đoạn đầu tất nhiên phải dựa vào tích lũy nông nghiệp. Hơn nữa,
nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân tăng cao mới thấy được vai trò quan
trọng của nông nghiệp trong việc tích lũy cho giai đoạn đầu của quá trình phát
triển kinh tế. Do vậy, đối với Việt Nam và các nước chậm phát triển, để thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước thì Đảng và Nhà
nước phải đặc biệt coi trọng hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng
sức lao động của nông dân, tạo điều kiện khai thác tốt nhất tiềm năng dồi dào về
lao động.
Nguồn lao động dồi dào là một lợi thế tương đối quan trọng để tiến hành

công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Ngược lại, khi quá trình đó
17

diễn ra, nó lại giải phóng sức lao động ở nông thôn tạo thêm nhiều việc làm cho
người lao động. Hơn nữa, nông nghiệp, nông thôn có nguồn tài nguyên đất đai vô
cùng phong phú. Thực hiện, hiện đại hóa nông thôn có thể khai thác tốt nhất tiềm
năng đất đai để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ hai, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam đóng vai trò quan
trọng trong phát triển đất nước.
Thứ ba, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải đi tắt, đón
đầu và có thể được rút ngắn. Đây là điều kiện khách quan của nhiệm vụ
thoát khỏi tình trạng tụt hậu. Bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế
giới cho phép nước ta có khả năng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ xã hội
nông nghiệp trở thành xã hội công nghiệp. Đó cũng là cuộc cải biến cách
mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, để triển khai thuận lợi và
thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết.
Xuất phát từ thực trạng kinh tế, văn hoá, xã hội của nước ta, để đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải không
ngừng tạo dựng những tiền đề sau đây:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó, mở
rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều
kiện, tiền đề quan trọng để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công.
Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá có hai nguồn: nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn ngoài nước. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở hiệu quả sản xuất, là lao động thặng
dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản
để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội
trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất.

18

Ở nước ta hiện nay, để tăng năng suất lao động xã hội tạo nên nguồn vốn
cho tích luỹ, trước hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao
động, tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản
xuất hàng xuất khẩu Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào tỷ lệ tiết
kiệm. Với một khối lượng của cải nhất định, tỷ lệ tiết kiệm càng cao, nguồn
vốn càng lớn. Do đó, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, ta phải
triệt để tiết kiệm, coi "tiết kiệm là quốc sách", đấu tranh triệt để với nạn tham
nhũng, lãng phí Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào các chính sách
kinh tế như: chính sách cơ cấu các thành phần kinh tế, chính sách thuế, chính
sách lãi suất Do đó, xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với yêu cầu của
nền kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển là yêu cầu khách quan. Nguồn vốn
trong nước giữ vai trò quyết định vì đó là nhân tố bên trong bảo đảm cho việc
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; là tiền đề để huy động và sử dụng hiệu
quả nguồn vốn nước ngoài Do đó, việc đề cao nội lực là hoàn toàn cần thiết
và đúng đắn.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu làm cho
việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế hết sức khó khăn, đặc biệt là trong thời
kỳ đầu. Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích luỹ thấp; tích
luỹ thấp thì tăng trưởng kinh tế chậm và khó thoát khỏi đói nghèo; cần phải
tận dụng mọi khả năng để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Đây là nguồn
vốn có vai trò rất quan trọng, không những giúp các nước nghèo khắc phục
một phần khó khăn về vốn trong thời kỳ đầu mà còn góp phần nâng cao trình
độ quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao động Vì thế, tranh thủ
nguồn vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, mặt trái của nguồn vốn nước ngoài cũng không nhỏ. Sử dụng
nguồn vốn nước ngoài phải chấp nhận bị bóc lột, tài nguyên bị khai thác, nợ

×