Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vận dụng kĩ thuật KWL vào việc dạy học đọc – hiểu các bài bản thơ việt nam hiện đại ở lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.6 KB, 23 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là một trong những môn học quan trọng bậc nhất ở nhà trường
phổ thông. Ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản như các
môn học khác, môn Ngữ văn còn tác động sâu sắc đến tâm hồn, tư tưởng, tình
cảm của HS; đem lại niềm vui, sự hứng thú và góp phần trực tiếp vào việc giáo
dục đạo đức, nhân cách cho người học. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học văn ở
nhà trường phổ thông hiện nay, môn Ngữ văn vẫn chưa phát huy hết tiềm năng,
thế mạnh đó. Nhiều học sinh không có hứng thú học văn, hoặc học đối phó...
Làm thế nào để khắc phục được tình trạng này? Đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn nói chung, dạy đọc - hiểu nói riêng theo hướng vận dụng các kĩ thuật
dạy học tích cực nhằm tạo cơ hội cho học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong
quá trình học tập, vì vậy, là một giải pháp cần thiết và cấp bách.
Trong những năm gần đây, dạy học áp dụng các kĩ thuật tích cực được sử
dụn rộng rãi. Mỗi phương pháp, kĩ thuật dạy học có những ưu điểm, hạn chế
riêng; mỗi môn học cũng có những đặc trưng, đặc thù cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu
vận dụng một cách phù hợp và hiệu quả các kĩ thuật dạy học này vào từng môn
học, từng phần kiến thức cụ thể là một yêu cầu tất yếu.
Bên cạnh các kĩ thuật dạy học tích cực như “hợp tác”, “động não”, “mảnh
ghép”, “khăn phủ bàn” thì “KWL” là một trong những kĩ thuật dạy học có nhiều
ưu thế trong việc khuyến khích học sinh chủ động bày tỏ cảm xúc, ý kiến, nhu
cầu nhận thức, nhu cầu khám phá của mình về tác phẩm; đồng thời cho phép GV
thu nhận được những thông tin phản hồi kịp thời để điều chỉnh và thiết kế nội
dung bài học một cách hiệu quả. Hơn nữa, kĩ thuật KWL hiện đã có nhiều phiên
bản cho phép giáo viên kiểm soát đa dạng hơn các kĩ năng đọc - hiểu của học
sinh.
Trong chương trình Ngữ văn lớp 9, phần thơ Việt Nam hiện đại chiếm
một vị trí và thời lượng khá quan trọng. Hướng dẫn HS phát hiện và cảm nhận
mạch cảm xúc trữ tình là mở ra cho HS con đường đi vào và giải mã thế giới
nghệ thuật trong bài thơ. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học tác phẩm thơ trữ tình
ở nhà trường phổ thông hiện nay, giáo viên thường cảm thụ tác phẩm và truyền


lại kết quả cảm thụ đó cho học sinh chứ ít quan tâm đến cảm nhận của học sinh.
Làm thế nào để qua văn học khơi dậy được những cảm xúc tốt đẹp trong tâm
hồn các em về tình yêu quê hương, đất nước; tình cảm gia đình, bạn bè; tình yêu
thiên nhiên và trách nhiệm của mỗi người trước cuộc đời? Làm thế nào để nâng
cao hứng thú, năng lực thưởng thức và đánh giá tác phẩm văn chương cho học
sinh?

1


Chọn đề tài “Vận dụng kĩ thuật KWL vào việc dạy học đọc - hiểu các
văn bản thơ Việt Nam hiện đại ở lớp 9”, tôi mong muốn được góp một phần
nhỏ vào việc giải đáp những câu hỏi kể trên mà cũng là những băn khoăn,
trăn trở của giáo viên đang trực tiếp dạy Văn ở nhà trường phổ thông hiện
nay. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý đồng nghiệp để đề tài
này được sâu sắc hơn về giá trị khoa học và tính hiệu dụng của nó.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Vận dụng kĩ thuật KWL vào việc dạy học đọc - hiểu
các văn bản thơ Việt Nam hiện đại ở lớp 9” nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học Ngữ văn và phát triển năng lực cảm thụ thơ hiện đại Việt Nam cho học
sinh lớp 9.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Vận dụng kĩ thuật KWL vào việc dạy học đọc - hiểu
các văn bản thơ Việt Nam hiện đại ở lớp 9” tôi xác định đối tượng nghiên cứu
là các tác phẩm thơ hiện đại trong chương trình Ngữ văn 9.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm chúng tôi kết hợp vận dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, phân loại tài liệu; điều tra
khảo sát thực tế; thống kê xử lí số liệu…


2


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Dạy học theo hướng tích cực là một trong những yêu cầu cần thiết của
các nền giáo dục phát triển trên thế giới. Kharlamop trong cuốn “Phát huy
tính tích cực của học sinh như thế nào” (tập 1, NXB GD, Hà Nội 1978) đã
nêu rõ: “Việc nghiên cứu khoa học giáo dục làm sáng tỏ những vấn đề có liên
quan tới việc cải tiến hoạt động nhận thức và nâng cao tính tích cực, trí tuệ
của học sinh là trung tâm chú ý của các nhà nghiên cứu giáo dục và giáo
viên”. Bên cạnh đó, hàng loạt những công trình nghiên cứu về vấn đề phát
huy tính tích cực của học sinh cũng nêu cao vai trò chủ động, sáng tạo của
học sinh, như: “Những cơ sở của dạy học hiệu nghiệm ở nhà trường Xô Viết”
của L.V. Sacôp (1959); “Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề” (V.Ô kôn,
NXB GD, Hà Nội 1976)…
Kĩ thuật dạy học KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một
hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc - hiểu. KWL là kĩ thuật dạy học nhằm
tạo điều kiện cho người học phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo bằng cách
nêu những điều đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết về chủ
đề trước khi học và những điều đã học được sau khi học. Dựa trên sơ đồ KWL,
người học tự đánh giá được sự tiến bộ của mình trong việc học, đồng thời GV
biết được kết quả học tập của người học, từ đó điều chỉnh việc dạy học cho phù
hợp. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ
đề bài học.
Trong cuốn “Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật dạy
học” của Bộ GD&ĐT theo dự án Việt - Bỉ (NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội,
2010), các tác giả đã giới thiệu khá đầy đủ về một số phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực, trong đó có trình bày về mục tiêu, tác dụng, cách thức tiến
hành và những lưu ý khi vận dụng kĩ thuật dạy học KWL.

Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả luận văn một hệ
thống lí thuyết cơ bản về kĩ thuật KWL, để từ đó nghiên cứu, vận dụng vào việc
dạy học Văn nói chung, dạy học thơ Việt Nam hiện đại ở lớp 9 nói riêng.
2.2. Thực trạng vấn đề
- Về phía giáo viên: Trong những năm vừa qua, đội ngũ giáo viên Ngữ
văn nói chung được trang bị nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực đã
thực sự mang lại hiệu quả tốt. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều hạn chế trong cách vận
dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học. Bản thân những người dạy văn về cơ bản
đã tận tâm tận lực với nghề, tích cực nghiên cứu tìm hiểu các kiến thức. Tuy
nhiên, với sự đa dạng và tính phức tạp của môn Ngữ văn và lao động dạy Văn

3


cũng như hứng thú học Văn của học sinh hiện nay thì hiệu quả dạy phần thơ trữ
tình vẫn không tránh khỏi những hạn chế. Hình ảnh, từ ngữ, cấu trúc của thơ là
một câu hỏi hàm ngôn, đa nghĩa. Vì vậy, để cảm, hiểu thơ, đòi hỏi phải có cảm
xúc, tư duy khoa học, sáng tạo đối với cả đội ngũ giáo viên và học sinh.
KWL là một kĩ thuật dạy học tích cực, mới được áp dụng trong thời gian
gần đây. Việc sử dụng kĩ thuật này còn nhiều bàn cãi. Vẫn chưa có sự thống nhất
đồng bộ trong việc ứng dụng về thời gian sử dụng, bài học có thể áp dụng. Bên
cạnh đó, thời gian tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ của giáo viên dạy
văn ở trường THCS diễn ra không đồng đều, chỉ diễn ra ở một số giáo viên dạy
lớp cuối cấp, lớp chất lượng cao. Do nhiều tác động chủ quan, khách quan, giờ
giảng văn trong cuộc sống hiện đại đang dần thiếu đi tâm huyết, niềm say mê
nghề nghiệp. Bên cạnh đó, sự tiếp nhận dè dặt và chậm trễ các phương pháp và
kĩ thuật dạy học mới của giáo viên cũng ảnh hưởng đến chất lượng dạy học văn
hiện nay.
Dù đã có nhiều cố gắng nhưng trong thực tế giảng dạy, hoạt động của giáo
viên vẫn là chủ yếu. Giáo viên nói cái hay, cái đẹp của văn bản mà giáo viên

cảm nhận được cho học sinh. Đôi lúc nghiêng về khai thác nội dung tư tưởng.
Có khi học sinh không cần đọc văn bản, giáo viên vẫn tổ chức cho học sinh thực
hiện theo các bước đã định sẵn. Thậm chí, giáo viên chỉ gọi các em đọc lướt qua
vài phút rồi lập tức đi vào tìm hiểu, phân tích để kịp thời lượng trên lớp. Vì vậy,
sẽ không có thời gian để học sinh suy nghĩ, tìm tòi, nêu ý kiến bản thân theo yêu
cầu của các cột trong các phiên bản của KWL.
Như vậy, việc đổi mới phương pháp, kĩ thuật trong dạy học và kiểm tra
đánh giá Ngữ văn nói chung, thơ hiện đại ở lớp 9 nói riêng vẫn chưa thực sự
chuyển biến, nhiều khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Phương pháp
dạy đọc - hiểu chưa có hiệu quả, giáo viên chưa chú ý đến việc hình thành cho
HS phương pháp đọc văn. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu là kiểm tra kiến
thức nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào thi đúng tác phẩm đó,
chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá
thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung,
phương pháp dạy và học. Việc sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực trong đó có
KWL còn rất hạn chế.
- Về phía học sinh: Thể loại, thi pháp thơ hiện đại có nhiều điểm gần gũi
với học sinh, tuy nhiên vẫn có những mã khóa nghệ thuật mà học sinh khó có
thể cảm nhận hết. Vốn sống, kinh nghiệm thực tế học sinh còn ít, học sinh khó
khăn khi tái hiện hoàn cảnh ra đời bài thơ, hiểu các hình ảnh, những ẩn dụ, ví
von... được sử dụng trong bài thơ. Học sinh học văn theo kiểu học theo, làm theo

4


kết quả phân tích của thầy chứ chưa chủ động, sáng tạo. Việc học này làm mất
khả năng tự học và sự tìm tòi khám phá của các em, bởi người thầy dù tài năng
đến mấy thì kết quả phân tích tác phẩm vẫn mang tính cá nhân, chủ quan.
KWL là một kĩ thuật dạy học mới, khi triển khai thường phải kết hợp với
các phương pháp và kĩ thuật dạy học khác một cách linh hoạt. Để học sinh vận

dụng sơ đồ KWL hiệu quả đặt ra yêu cầu người giáo viên phải hướng dẫn, giải
thích, giúp học sinh hiểu bản chất của kĩ thuật này. Thế nhưng, hiện nay, một số
giáo viên lại vận dụng một cách máy móc, áp đặt, thời gian sử dụng không phù
hợp, làm cho học sinh khó tiếp cận, không phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo ở các em.
Bên cạnh đó, một vài tác phẩm còn nặng ý nghĩa triết luận, khó đối với
khả năng tiếp thu của các em, nhất là học sinh nông thôn, miền núi và những học
sinh ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Chính điều này làm cho các em
không hiểu được vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Vì vậy, các em không thể tìm ra
các nội dung trong cột K, W, L trong bảng KWL. Ngoài ra, thời lượng dành cho
một số bài chưa hợp lý. Một số tác phẩm dạy trong sách giáo khoa tuy có vị trí
trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời quá lâu, nhiều tác phẩm không phù hợp
với tâm lý của học sinh hiện nay, do đó ít khơi gợi được hứng thú học tập của
các em. Chẳng hạn, như bài “Đồng chí ” (Chính Hữu), ra đời từ thời kháng chiến
chống Pháp. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp tình đồng chí đồng đội về một thời kì lịch sử
hào hùng của dân tộc. Thế nhưng, với học sinh lớp 9, các em được sinh ra trong
thời bình, làm thế nào để khơi gợi cho các em cảm nhận được vẻ đẹp ấy trong
vòng 45 phút là cả một vấn đề đặt ra. Ngoài ra, các em còn phải thấy được sự
hòa quện giữa vẻ đẹp hiện thực và chất lãng mạn luôn có sẵn trong tâm hồn mỗi
chiến sĩ. Đó là động lực, là sức mạnh chiến đấu để các anh vượt qua muôn vàn
khó khăn, thử thách. Đó còn là sự hồn nhiên, bay bổng, pha chút ngang tàng của
người lính trong kháng chiến chống Mỹ sau này, thể hiện qua “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật).
Mặt khác, trong quá trình phát triển đi lên của đất nước, chúng ta có
những thành tựu quan trọng về lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, với cơ chế nền kinh
tế thị trường đã tạo ra những phức tạp và những ảnh hưởng không lành mạnh đối
với đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ, đặc biệt là đối tượng học sinh, trong
đó có học sinh bậc THCS. Một bộ phận lớn học sinh chịu ảnh hưởng các yếu tố
tiêu cực của xã hội chi phối nên ý thức học tập không cao, thiếu tự giác. Trong
khi đó, phần thơ trữ tình hiện đại không chỉ cần lý trí để hiểu mà cần cảm xúc để

cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Vì thế, hiệu quả giáo dục đạo đức cho
học sinh qua những giờ học thơ có lúc, có chỗ giảm sút.

5


Ngoài ra, sự quan tâm, cách nhìn nhận của phụ huynh học sinh là chú
trọng học các môn Khoa học tự nhiên cũng có những ảnh hưởng không tích cực
đến việc nỗ lực phấn đấu của HS đối với môn Ngữ văn. Trình độ học sinh không
đều, quan niệm lệch lạc coi trọng các môn tự nhiên và ngoại ngữ nhiều hơn các
môn xã hội, ngay cả phụ huynh cũng không đầu tư nhiều cho con học môn này;
mạng internet đã có rất nhiều trò chơi rất hấp dẫn, tất cả đã ảnh hưởng đến hứng
thú học nói chung, học thơ trữ tình nói riêng ở THCS. Các em thiếu sự tìm tòi,
khám phá những phương pháp và kĩ thuật dạy học mới để cùng với giáo viên
xây dựng bài học, cảm thụ, cảm nhận những cung bậc cảm xúc của nhà thơ qua
tác phẩm văn chương.
Tất cả những khó khăn, bất cập trên đòi hỏi phải có những giải pháp tích
cực để vận dụng hiệu quả hơn kĩ thuật KWL trong dạy học thơ Việt Nam hiện
đại nói riêng, dạy học Văn nói chung, nhằm nâng cao chất lượng học Ngữ văn
của học sinh.
2.3. Các khái niệm
2.3.1 Khái niệm kĩ thuật
Kĩ thuật chỉ tổng thể nói chung những phương pháp, phương thức sử dụng
trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của con người. Theo cách sử dụng ngôn
ngữ thông thường, từ “kĩ thuật” thường đi kèm với các từ mang nghĩa máy móc
công nghệ, chỉ sự phát triển hiện đại.
2.3.2. Khái niệm kĩ thuật dạy học và phương pháp dạy học
Khái niệm phương pháp dạy học có khi được sử dụng để chỉ những cách
thức, con đường hoạt động; có khi được dùng như một kĩ thuật cụ thể, các mô
hình hành động cụ thể. Phương pháp dạy học cũng bao gồm những phương pháp

chung cho nhiều môn và các phương pháp đặc thù bộ môn. Bên cạnh các
phương pháp truyền thống quen thuộc như thuyết trình, đàm thoại, trực quan,
làm mẫu, có thể kể đến một số phương pháp khác như: phương pháp giải quyết
vấn đề, phương pháp học tập theo tra cứu, phương pháp dạy học dự án…
Kĩ thuật dạy học theo các nhà giáo dục học là những động tác, cách thức,
hành động của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động cụ thể
nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học chưa phải
là các phương pháp độc lập. Bên cạnh các kỹ thuật dạy học truyền thống, có thể
kể đến một số kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học
như: kỹ thuật động não, kỹ thuật thông tin phản hồi, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật tia
chớp, kĩ thuật KWL…

6


2.3.3. Khái niệm kĩ thuật KWL
Kĩ thuật KWL là một khái niệm trong phương pháp dạy học hiện đại vốn
phát triển ở nhiều nước trên thế giới. KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986,
vốn là một hình thức tổ chức dạy học đọc - hiểu. KWL là cụm từ viết tắt chỉ quá
trình tiếp thu chủ động của học sinh, bao gồm:
K (Know: Điều đã biết)
W (Want to know: Điều muốn biết)
L (Learned: Điều đã học được)
Biểu đồ của Ogle gồm có 3 cột sau:
K
W
L
(Điều đã biết)
(Điều muốn biết) (Điều đã học được)


Vận dụng kĩ thuật KWL chính là vận dụng những kĩ thuật, phương thức
dạy học theo hướng tích cực, hiện đại nhằm nâng cao chất lượng dạy và học,
phát huy chủ thể sáng tạo của học sinh.
2.4. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
2.4.1. Quy trình thực hiện
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tạo bảng KWL theo mục tiêu cần đạt.
Bước 2: Cho học sinh động não, liệt kê những điều đã biết về tác giả, bài
thơ/chủ đề vào cột K.
Bước 3: Cho học sinh động não và nêu câu hỏi, những điều muốn biết về
nhà thơ, bài thơ vào cột W.
Bước 4: Cho học sinh đọc, giải thích, phân tích giá trị nội dung, nghệ
thuật của văn bản và hệ thống hóa kiến thức cơ bản vào cột L.
2.4.2. Hướng dẫn học sinh trình bày những điều đã biết (K) về văn bản
2.4.2.1. Mục tiêu
Thơ ca là cuộc sống được đúc kết trong một hình thức ngôn ngữ hàm súc,
giàu hình ảnh và nhịp điệu. Thơ ca là kho tàng cảm xúc của con người. Vì vậy,
để hiểu thơ phải có vốn sống, để cảm thơ phải có sự nhạy cảm, phải “lấy hồn tôi
để hiểu hồn người” (Hoài Thanh). Hơn nữa, học sinh lớp 9 đã có một vốn sống,
vốn kiến thức về thơ ca, về văn chương nghệ thuật tương đối. Vấn đề là cần phải
quan tâm và có cách khơi gợi, đánh thức những hiểu biết đó phục vụ cho việc
đọc - hiểu các văn bản thơ hiện đại. Vì vậy, tiếp xúc với một văn bản thơ, yêu
cầu đầu tiên đối với học sinh là phải huy động những kiến thức tối thiểu về bài
thơ đó như: Hiểu biết nhất định về tác giả, chủ đề liên quan, hoàn cảnh sáng tác,
cũng có thể là điều mà các em đã trải qua. Nội dung yêu cầu ở cột K (điều đã
biết) nhằm giúp học sinh huy động vốn sống, vốn hiểu biết về bối cảnh xã hội,
7


tác giả, tác phẩm và những vấn đề liên quan đến tác giả, tác phẩm làm tri thức
nền cho việc hiểu và cắt nghĩa văn bản sau này.

Ngoài việc huy động tri thức nền, việc hướng dẫn học sinh điền nội dung
vào cột K cũng giúp giáo viên nắm bắt được hứng thú, nhu cầu, vốn kiến thức có
sẵn của học sinh để có thể thiết kế nội dung dạy học và sử dụng các phương
pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp, sát đối tượng.
2.4.2.2. Nội dung, phạm vi kiến thức cần huy động
Tùy theo định hướng, gợi ý của giáo viên, đối với từng văn bản, giờ văn
cụ thể mà học sinh biết mình cần huy động những vốn kiến thức nào khi điền
nội dung vào cột K. Với mỗi bài học tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam ở Ngữ văn
9, điều đã biết, thông thường là nội dung kiến thức liên quan đến chủ đề / văn
bản. Đó là những hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm; những
cảm xúc, kỉ niệm, trải nghiệm, hiểu biết của học sinh về các vấn đề đặt ra trong
tác phẩm. Điều này học sinh có thể tự tìm hiểu ở phần tiểu dẫn hoặc các tài liệu
tham khảo khác. Ngoài ra, đó có thể là những sự hồi tưởng, kỉ niệm, những tri
thức đã có từ trước đó liên quan đến nội dung, đề tài văn bản.
Tất nhiên, không phải bất cứ học sinh nào cũng trình bày được những
điều đã biết theo yêu cầu. Muốn vậy, khâu yêu cầu học sin chuẩn bị bài từ tiết
học trước là rất quan trọng. Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi gợi ý để các
em biết mình cần làm những gì. Ví dụ, khi dạy học đọc - hiểu bài “Đồng chí”
của Chính Hữu, giáo viên có thể gợi ý học sinh chuẩn bị bài theo các nội dung
sau:
- Đọc thuộc lòng bài thơ.
- Tìm hiểu về tác giả Chính Hữu.
- Tìm các bài thơ cùng chủ đề.
- Tìm thêm các bài thơ khác của nhà thơ Chính Hữu.
- Cảm nhận ban đầu về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Một số hình ảnh ánh trăng trong thơ ca? So sánh với 3 câu thơ
cuối của bài thơ để thấy các hay, cái đặc sắc của bài thơ này?
Rõ ràng, với những nội dung gợi ý trên, học sinh sẽ biết mình cần chuẩn
bị những gì cho bài học. Những học sinh ham mê tìm tòi tài liệu cũng định
hướng được kiến thức cần tham khảo, không bị lan man, thiếu trọng tâm.

2.4.2.3. Cách thức thực hiện
Tạo bảng KWL theo mục tiêu cần đạt. Giáo viên cần giải thích rõ mục
tiêu, yêu cầu cho học sinh. Học sinh có thể tự kẻ bảng vào vở hoặc giấy nháp,
hoặc giáo viên phát phiếu học tập. Tuy nhiên, không nhất thiết giờ học nào, bài

8


học nào, hoạt động nào cũng yêu cầu học sinh điền đầy đủ cả các cột. Sau một
thời gian ngắn nhất định, giáo viên yêu cầu học sinh điền kết qủa vào cột K.
Học sinh làm việc độc lập hoặc theo nhóm, chia sẻ trong nhóm, sau đó
giáo viên có thể chuẩn bị trước một hệ thống câu hỏi gợi mở, định hướng dẫn
dắt học sinh khởi động theo yêu cầu của bài đọc - hiểu. Nói cách khác, giáo viên
hướng dẫn học sinh huy động kiến thức, hiểu biết bằng cách trả lời các câu hỏi,
chẳng hạn:
- Tôi đã biết gì về nhà thơ?
- Tôi đã học, đã đọc tác phẩm nào khác của nhà thơ này?
- Bài thơ này được viết trong hoàn cảnh nào?
- Nội dung gì trong bài thơ gần gũi, thân thiết với tôi?
- Tôi có kỉ niệm nào liên quan đến nội dung bài thơ?
- Cảm xúc của tôi lần đầu đọc bài thơ?
Giáo viên khuyến khích học sinh giải thích, vì những điều học sinh nêu ra
có thể mơ hồ, xa lạ, khó hiểu hoặc ít liên quan đến văn bản.
Ví dụ: Khi dạy “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, giáo viên giúp học
sinh huy động kiến thức, hiểu biết bằng cách tự đặt ra và trả lời các câu hỏi:
- Tôi đã biết gì về Phạm Tiến Duật?
- Tôi đã học, đã đọc tác phẩm nào khác của Phạm Tiến Duật?
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được viết trong hoàn cảnh
nào?
- Bài thơ có điều gì gần gũi, thân thiết với tôi?

- Tôi có kỉ niệm nào liên quan đến các chú bộ đội lái xe?
- Cảm nhận của tôi khi gặp những chiếc xe ô tô không có kính như
thế nào?
- Cảm xúc của tôi lần đầu đọc bài thơ?...
Học sinh có thể điền vào cột K bằng cách trả lời các câu hỏi trên. Thế
nhưng, để kích thích khả năng tìm tòi và tư duy sáng tạo của các em, giáo viên
có thể cho học sinh tự do trình bày thêm các nội dung liên quan khác mà mình
đã biết trong quá trình soạn bài, đọc tài liệu tham khảo. Đây sẽ là sự khởi động
thú vị tạo nên một không khí trao đổi thân thiện, cởi mở để tạo hứng thú cho học
sinh đi vào phân tích tác phẩm.
Cuối cùng, để tự kiểm soát hiệu quả làm việc với cột K của học sinh, giáo
viên có thể tổng hợp theo bảng sau:
Tự đặt câu hỏi của Học
Động não của HS
Thông tin phản hồi mà
sinh và câu hỏi gợi ý của
(Giả định)
giáo viên thu nhận
giáo viên
được
- Tôi đã biết gì về Phạm
- Phạm Tiến Duật (1941 HS đã có những kiến
9


Tiến Duật?

- 2007), quê ở Phú Thọ. thức cơ bản:
Là gương mặt tiêu biểu
- Những nét chính về

của thế hệ các nhà thơ trẻ nhà thơ Phạm Tiến
thời chống Mĩ.
Duật.
- Tôi đã học, đã đọc tác
- Tác phẩm: Vầng trăng - Các tác phẩm tiêu
phẩm nào khác của nhà
quầng lửa, Ở hai đầu
biểu.
thơ này?
núi.
- “Bài thơ về tiểu đội xe
- “Bài thơ về tiểu đội xe - Hoàn cảnh sáng tác
không kính” được viết
không kính” in trong tập bài thơ.
trong hoàn cảnh nào?
“Vầng trăng quầng lửa”
(1970)
- Nội dung gì trong bài
- Hình ảnh người chiến sĩ - Xác định được nhân
thơ gần gũi, thân thiết với lái xe Trường Sơn trong vật trữ tình trong bài
tôi?
kháng chiến chống Mĩ.
thơ.
- Nghe ông kể chuyện
- Tôi có kỉ niệm gì liên
thời kháng chiến chống
- Có những kỉ niệm
quan đến nội dung bài
Mĩ.
nhất định về nhà thơ.

thơ?
- Chất giọng trẻ trung, rất - Có tình cảm, sự xúc
- Cảm xúc của tôi lần đầu lính được toát lên từ bài động chân thực khi
đọc bài thơ?
thơ.
đọc bài thơ.



Với bảng trên, giáo viên có được những thông tin phản hồi xác đáng.
Theo kết quả giả định, học sinh đã biết những thông tin cơ bản về tác giả, tác
phẩm. Trong giờ học, giáo viên không cần thiết phải lặp lại hoạt động đọc tiểu
dẫn, tóm tắt, mà chỉ cần nhấn mạnh một số ý. Những thông tin ở cột K là cơ sở
cho việc định hướng, lựa chọn nội dung phân tích, tìm hiểu chi tiết tác phẩm một
cách phù hợp, tránh lãng phí thời gian, đồng thời kích thích được tính tích cực
học tập của học sinh.
2.4.3. Hướng dẫn học sinh xác định những điều muốn biết (W) về văn bản
2.4.3.1. Mục tiêu
Trong biểu đồ KWL, cột W (điều muốn biết) là một trong những nội dung
quan trọng nhằm định hướng tìm hiểu những giá trị nội dung, nghệ thuật của văn
bản mà học sinh phải thông hiểu sâu sắc những vấn đề liên quan đến văn bản.
Bằng cách điền vào cột W, học sinh sẽ xác định được mục tiêu, nhu cầu hiểu biết
về văn bản, đồng thời xác định được nhiệm vụ học tập, nhu cầu, mong muốn
được trang bị hiểu biết, kiến thức, kĩ năng và bộc lộ những tư tưởng, tình cảm
thông qua văn bản.
10


2.4.3.2. Nội dung, phạm vi kiến thức cần huy động
Tác phẩm là con đẻ tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Giữa tác phẩm với tác

giả được nối bằng sợi dây đồng cảm kì diệu. Văn chương nói chung, thơ trữ tình
hiện đại nói riêng luôn mang đến sự rung cảm mãnh liệt, sâu xa, giúp cho đời
sống tinh thần con người phong phú, đẹp đẽ hơn. Do đó, đọc một câu thơ hay,
bao giờ chúng ta cũng nghiền ngẫm, suy nghĩ và cảm nhận, lắng lại lòng mình
với những dư âm sâu sắc. Người học Văn là học ở nội dung ý nghĩa đằng sau
câu chữ ấy. Chính vì vậy, điều muốn biết (W) khi học một tác phẩm thơ, đó có
thể là những câu hỏi, những băn khoăn thắc mắc; những hoài nghi về những
điểm hàm ngôn, đa nghĩa, khó nắm bắt, không được nhà thơ nói trực tiếp trong
văn bản; là những vấn đề tư tưởng, đạo đức, lịch sử, văn hóa, xã hội; là giá trị, ý
nghĩa sâu sắc mà nhà thơ gửi gắm thông qua văn bản. Để nắm bắt được nội dung
đó, yêu cầu học sinh phải đọc kĩ bài thơ, tham khảo tài liệu, tìm hiểu về cuộc đời
tác giả, hoàn cảnh sáng tác, đặc biệt là cảm nhận được những rung cảm tinh tế
của nhà thơ, từ đó biết tự xác định mục tiêu, nhiệm vụ đọc - hiểu chi tiết bài thơ.
Chẳng hạn, khi học bài thơ “Con cò” (Chế Lan Viên), để nêu được những
điều muốn biết về tác phẩm, yêu cầu HS phải huy động vốn kiến thức về nhà thơ
Chế Lan Viên, đọc kĩ văn bản, tìm những điểm băn khoăn, khó hiểu và tự đặt ra
một loạt các câu hỏi, hoặc GV gợi ý:
- Tại sao hình ảnh con cò xuất hiện xuyên suốt bài thơ?
- Hình ảnh con cò và lời ru có ý nghĩa như thế nào trong đời sống
của mỗi chúng ta.
- Bài thơ muốn nhắn gửi điều gì đến mỗi người?
- Thể thơ tự do và âm hưởng bài thơ có ý nghĩa như thế nào?
Với các câu hỏi trên, chắc chắn khi chuẩn bị bài học sinh đã có sự định
hướng trả lời theo cảm nhận của riêng mình. Nội dung, phạm vi kiến thức nằm ở
sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, cảm xúc của bản thân. Và các em sẽ nhận ra,
hình ảnh bao trùm, xuyên suốt bài thơ là biểu tượng con cò bay ra từ trong ca
dao truyền thống và những miền cổ tích. Những cánh cò trắng muốt đã đi vào
thơ của Chế Lan Viên gợi về hình tượng những miền quê yên ả, thanh bình,
những xóm làng trù phú. Đồng thời, cánh cò cũng gợi hình tượng những con
người lao động, người vợ, người mẹ, người nông dân, người phụ nữ vất vả, nhọc

nhằn với những đức tính cao đẹp. Biểu tượng con cò được nâng lên thành triết lí
suy ngẫm về tình mẹ và ý nghĩa của lời ru. Đó là tình mẫu tử thiêng liêng, sâu
nặng. Tình cảm ấy trở thành sức mạnh, nguồn động viên cổ vũ lớn lao không thể
thiếu được trong hành trang của mỗi con người trên bước đường cuộc sống. Chế
Lan Viên đã sáng tạo hình ảnh con cò thân thuộc trong ca dao truyền thống trở

11


thành biểu tượng của tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả. Với thể thơ tự do, nhịp
điệu khoan thai, chậm rãi, âm hưởng ngọt ngào, sâu lắng, bài thơ dễ dàng đi vào
lòng người đọc những cảm xúc lắng đọng, sâu xa.
2.4.3.3. Cách thức thực hiện
Sau khi hoàn thành cột K (điều đã biết), giáo viên cho học sinh điền tiếp
vào cột W (điều muốn biết). Đối với dạy Văn nói chung, dạy thơ Việt Nam hiện
đại ở lớp 9 nói riêng, việc điền vào cột W hiện vẫn phải căn cứ chủ yếu theo
định hướng chuẩn kiến thức kĩ năng. Nghĩa là, nội dung cột W nên là những câu
hỏi đặt ra theo tiến trình nội dung phân tích bài thơ. Tuy nhiên, giờ học sẽ sôi
nổi hơn rất nhiều khi học sinh được tự bộc lộ những suy nghĩ cá nhân, được nói
lên mong muốn riêng của mình về tác phẩm.
Học sinh có thể hoạt động độc lập hoặc theo nhóm. Vì đây là vấn đề khó
nên khuyến khích học sinh chia sẻ, thống nhất trong nhóm. Ví dụ, chủ đề bài thơ
“Con cò” là một vấn đề khó. Chủ đề này không được phát biểu trực tiếp mà hàm
ngôn sau hình ảnh con cò, cánh cò trắng và lời ru của mẹ. Vì vậy, câu hỏi “Chủ
đề bao trùm bài thơ là gì?” phải là một câu hỏi then chốt trong cột W khi dạy
học bài thơ này.
Sau khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng của mình, giáo viên xét xem
nếu các câu hỏi chưa đi sâu vào trọng tâm văn bản, hãy gợi ý, điều chỉnh, bổ
sung để biến nó thành câu hỏi đúng hướng, đúng trọng tâm của bài trước khi cho
học sinh ghi vào cột W.

Giáo viên hỏi những câu hỏi nối tiếp và gợi mở. Giáo viên cần chuẩn bị
một số câu hỏi then chốt giúp học sinh điền vào cột W để định hướng trong quá
trình phân tích. Vì như đã nói, tự đặt câu hỏi là một vấn đề khó. Kĩ năng này
phải được dần hình thành từng bước. Cuối cùng, học sinh nêu danh sách các câu
hỏi hoặc những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề, văn bản này.
Ví dụ: Dạy bài “Sang thu” (Hữu Thỉnh - Tiết 121, Ngữ văn 9), sau khi học
sinh đã điền được nội dung cột K, giáo viên tiếp tục cho học sinh điền nội dung
cột W (Điều muốn biết) theo phiếu học tập:
K
W
L
Điều muốn biết về bài
“Sang thu”
- Nhà thơ Hữu Thỉnh.
- Những dấu hiệu nào
- Chủ đề mùa thu trong cho thấy thiên nhiên
thơ ca.
đang chuyển từ cuối hạ
- Bài thơ in trong tập “Từ sang thu?
chiến hào đến thành - Tâm trạng của tác giả
phố”
chuyển biến như thế nào
12


- Thể thơ 5 chữ.


từ khổ 1 đến khổ 3?
- Sự cảm nhận của Hữu

Thỉnh về bước giao mùa
có gì đặc biệt, độc đáo?
- Đằng sau bức tranh
thiên nhiên giao mùa, tác
giả muốn gửi gắm điều
gì?


2.4.4. Hướng dẫn học sinh hệ thống hóa những điều đã học được (L) từ văn
bản
2.4.4.1. Mục tiêu
Cột L (những điều đã học được) là cơ sở để giáo viên đánh giá kết quả đạt
được của học sinh qua quá trình đọc - hiểu văn bản thơ. Học sinh nào không
trình bày được nội dung này hoặc trình bày sơ sài, thiếu hệ thống, nghĩa là các
em chưa cảm hiểu nội dung, giá trị của tác phẩm, chưa đạt được mục tiêu bài
học. Đây là thông tin phản hồi kịp thời để giáo viên có biện pháp tác động, điều
chỉnh phương pháp dạy học phù hợp, giúp học sinh thông hiểu giá trị nội dung,
nghệ thuật của văn bản. Điều học được trong mỗi văn bản thơ không chỉ là nội
dung, nghệ thuật của bài thơ đó, mà còn là những cảm nhận riêng của mỗi cá
nhân học sinh.
Mục tiêu của cột L còn là cơ sở để họ sinh tự đánh giá kết quả học tập, sự
tiến bộ của chính mình, từ đó điều chỉnh phương pháp tự học. Đây cũng là một
thao tác rèn cho học sinh khả năng hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức, hiểu
biết về tác phẩm.
2.4.4.2. Nội dung, phạm vi kiến thức cần huy động
Ở cột L (điều đã học được), nội dung, phạm vi kiến thức mà học sinh cần
phải khái quát, hệ thống hóa chính là những nhận định, nhận xét, kết luận, khái
quát về giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Ngoài ra, điều đã học được
còn có thể vượt ra ngoài tác phẩm. Đó là những cảm xúc, suy nghĩ, phát hiện
riêng của học sinh về tác phẩm. Học sinh cảm nhận, đối chiếu với điều đã biết

(K), từ đó nâng lên thành nội dung bài học.
Kết quả phân tích, tìm hiểu chi tiết mỗi bài thơ là sự cảm nhận cái hay, cái
đẹp, đúc kết tinh hoa, giá trị thẩm mĩ, những điều tác giả gửi gắm qua tác phẩm
để biến thành những tri thức của chính học sinh. Thế nhưng, không phải học
sinh nào cũng thu nhận được điều đó. Vì vậy, trong quá trình giảng bình, giáo
viên luôn hướng học sinh tới chuẩn kiến thức, từ đó kích thích tư duy độc lập
13


suy nghĩ của các em. Học sinh tự biết mình học được gì qua tiết học đã là một
thành công lớn của bài học, giờ học.
Hiện nay, không thiếu những tài liệu tham khảo phục vụ việc phân tích,
bình thơ. Thế nhưng, không phải học sinh nào cũng tự đọc, tự thẩm thấu, cảm
nhận điều người viết đề cập. Do đó, trong giờ dạy học thơ, người giáo viên vẫn
luôn đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt học sinh tự chiếm lĩnh tác phẩm.
Học sinh học được điều gì đều chủ yếu nhờ vào sự dẫn dắt, định hướng của giáo
viên. Trên cơ sở đó, các em phát huy sự sáng tạo của bản thân để mở rộng và
nâng cao những khám phá, phát hiện về ý nghĩa giá trị của bài thơ. Có như vậy
giờ học Văn nói chung, thơ nói riêng mới không nhàm chán, nội dung kiến thức
lại gần gũi và thiết thực với đời sống xã hội và đời sống cá nhân học sinh.
Ví dụ: Dạy bài “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận), giáo viên cần hướng
học sinh thông hiểu và hệ thống hóa được những kiến thức cơ bản sau:
- Bài thơ đã ca ngợi con người lao động mới của một vùng quê làng
chài Quảng Ninh trong niềm vui phấn khởi, lạc quan, niềm tin vào con đường
làm ăn tập thể, làm chủ tự nhiên, làm chủ cuộc đời.
- Hình ảnh tự nhiên vũ trụ tươi đẹp, rộng lớn, bao la; biển cả giàu có
hứa hẹn nhiều tiềm năng dâng hiến và ban tặng cho con người.
- Từng khổ thơ tứ tuyệt gieo vào lòng người đọc một cảm hứng say
sưa, nhiệt tình, hứng khởi.
- Hình ảnh thơ khỏe khoắn, tươi đẹp, kì vĩ, lớn lao, nhịp thơ thay

đổi phù hợp với không khí người lao động.
- Bồi đắp thêm tình yêu mỗi miền đất của quê gương, xứ sở.
2.4.4.3. Cách thức thực hiện
Thảo luận, thống nhất và hệ thống hóa nội dung - điều đã học được - là
một trong những trọng tâm của giờ đọc - hiểu thơ sử dụng kĩ thuật KWL. Để
thực hiện nội dung ở cột L, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện nhiều
thao tác:
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh đọc, giải thích, phân tích, cắt
nghĩa, so sánh, đánh giá, khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của từng đoạn
thơ, khổ thơ trong bài thơ. Quá trình này được thực hiện tùy thuộc vào nội dung,
đặc điểm, giá trị của từng tác phẩm thơ cụ thể.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho học sinh phát biểu những cảm xúc,
suy nghĩ riêng về tác phẩm, về nhân vật trữ tình, hoặc về một hình ảnh, biểu
tượng, một biện pháp tu từ trong tác phẩm… Đây là điểm mới mà chúng ta đang
chú trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học Văn. Thơ là cảm xúc, là
suy nghĩ về cuộc sống theo lối riêng của nhà thơ. Vì vậy đọc thơ cũng khuyến

14


khích học sinh phát biểu những điều các em ưa thích, lí thú hoặc có quan điểm
riêng. Từ đó học sinh có hứng thú, có động cơ học và sáng tạo.
- Cho học sinh thảo luận, thống nhất nội dung chính sẽ điền ở cột L. Đây là
nội dung khái quát, nhận xét, đánh giá, kết luận về bài học nên cần có tính chính
xác cao. Do đó, cần cho học sinh thảo luận nhóm để phát huy năng lực tập thể.
- Hướng dẫn học sinh tổng hợp kiến thức theo nhiều cách khác nhau. Có
thể theo hệ thống dàn ý hoặc theo sơ đồ tư duy.
+ Theo hệ thống dàn ý; chẳng hạn, với bài “Sang thu” (Hữu Thỉnh), hệ
thống dàn ý học sinh cần đạt được như sau:
* Tác giả, tác phẩm: Nhà thơ Hữu Thỉnh (1942). Bài thơ in trong

tập “Từ chiến hào đến thành phố” (1977)
* Nội dung: Cảm nhận sự giao mùa từ cuối hạ sang thu:
Tín hiệu báo thu: hương ổi, gió se, sương chùng chình; cùng với
cảm xúc ngỡ ngàng, xao xuyến.
Sự thay đổi của cảnh vật: sông dềnh dàng, chim vội vã, mây vắt
nửa mình sang thu; cùng với cảm xúc say sưa giao cảm với thiên nhiên.
Tâm trạng, suy ngẫm của nhà thơ: Từ ngạc nhiên trước sự chuyển
mùa đến triết lí về cuộc đời (khi con người đã từng trải sẽ vững vàng hơn trước
những thử thách của cuộc đời)
* Nghệ thuật: Thể thơ 5 chữ; sử dụng nhân hóa, ẩn dụ sáng tạo;
hình ảnh giàu tính biểu cảm, mang ý nghĩa tượng trưng.

15


+ Theo sơ đồ tư duy; chẳng hạn, bài “Mùa xuân nho nhỏ”:

Trong sơ đồ này, nội dung cột L bao gồm sự kết hợp cả những điều đã biết
(K) với những điều đã học được. Sơ đồ tư duy giúp học sinh bao quát kiến thức cần
đạt được của bài học. Học sinh vẽ được sơ đồ tư duy nghĩa là các em đã thực sự
hiểu bài và hệ thống được kiến thức một cách khoa học, dễ nhớ, dễ hiểu. Đây cũng
là sự khéo léo của giáo viên khi kết hợp kĩ thuật dạy học KWL với các kĩ thuật dạy
học khác, làm cho giờ dạy thêm phong phú, lôi cuốn và hiệu quả.

16


2.5. Hiệu quả
Chúng tôi thấy rằng, vận dụng kĩ thuật KWL trong các tiết học về thơ hiện
đại Việt Nam ở lớp 9 học sinh học tập tích cực hơn. Nhờ việc đưa ra ý kiến để

điền vào bảng KWL đã phát huy được khả năng tư duy độc lập, suy nghĩ và
năng lực sáng tạo ở các em; từ đó kích thích sự tìm tòi, đọc tài liệu và chuẩn bị
bài chu đáo. Chính điều này đã làm cho lớp học sôi nổi, học sinh nhiệt tình tham
gia phát biểu ý kiến xây dựng bài. Đặc biệt, các em được tôn trọng khi có những
ý kiến riêng của mình, qua đó rèn kĩ năng hoạt động nhóm, khả năng trình bày
vấn đề trước tập thể. Và kết quả học tập cũng được nâng cao.
Để kết quả đánh giá sát thực hơn, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra học sinh
nhằm đánh giá khả năng vận dụng kĩ thuật KWL trong bài học mới bằng yêu
cầu:
- Em hãy kẻ bảng KWL điền vào hai cột K và W khi chuẩn bị bài
mới “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật).
Một số tiêu chí sau được dùng để đánh giá kết quả bài làm của học sinh:
- Kết quả chuẩn bị bài ở cột K.
- Những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh về bài thơ.
- Nhu cầu, sự quan tâm, hứng thú của học sinh với bài thơ.
- Kĩ năng đặt câu hỏi của học sinh.
Cụ thể, học sinh cần phải nêu được các ý cơ bản sau:
K
W
L
(Những điều tôi đã biết (Những điều tôi muốn biết về
liên quan đến “Bài thơ về “Bài thơ về tiểu đội xe không
tiểu đội xe không kính”) kính”)
- Tác giả Phạm Tiến - Nhan đề bài thơ có ý nghĩa gì?
Duật.
- Hình ảnh người chiến sĩ lái xe
- Hoàn cảnh sáng tác bài Trường Sơn hiện lên như thế
thơ.
nào?
- Hình ảnh người lính - Hình ảnh những chiếc xe có gì

trong kháng chiến.
độc đáo? Qua đó tác giả muốn
- Chất hiện thực hòa khẳng định điều gì?
cùng chất lãng mạn.
- Hình ảnh “trái tim” trong khổ
-…
thơ cuối tượng trưng cho điều
gì? Điều ấy có ý nghĩa như thế
nào?
-…
Kết quả bài làm mà chúng tôi thu được cho thấy học sinh trình bày nội
dung phong phú, đa dạng, có sự mở rộng, liên hệ, không bị gò bó trong hệ thống
17


câu hỏi của giáo viên. Trong đó, những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm, hình ảnh người lính, chất hiện thực và chất lãng mạn... được học
sinh ghi nhận. Những kiến thức hướng tới như ý nghĩa nhan đề, hình ảnh người
lính và những chiếc xe không kính, lòng nhiệt huyết, trái tim hừng hực lửa đang
hướng ra trận tuyến... mà học sinh đưa ra là cơ sở, định hướng cho bài giảng. Từ
đó, giáo viên biết được tâm tư, nguyện vọng của các em trong bài học.
Cụ thể, kết quả thu được từ bài kiểm tra đầu năm và cuối năm của hai lớp
như sau:

Khối lớp

Đầu
năm
Cuối
năm


Tổng
số học
sinh

KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi

Khá

SL

%

SL

%
19%

9H

54

0

0%

10

9K


55

0

0%

12

9H

54

12

22,2%

20

Trung
bình
SL

%

32 59,3%

12

21,7%


21,8% 32 58,1%

11

20,1%

2

3,8%

37%

SL

20

%

Yếu

37%

9K
55
15 27,3% 29 52,7% 10 18,2%
1
1,8 %
Với kết quả như trên, chúng ta có thể khẳng định những ưu điểm của kĩ
thuật KWL. Việc vận dụng kĩ thuật này vào dạy học nói chung, dạy thơ Việt

Nam hiện đại ở lớp 9 nói riêng giúp cho giờ học thêm sôi nổi, phát huy được
tính chủ động, sáng tạo ở học sinh, đồng thời khắc phục được sự nhàm chán, thụ
động trong giờ giảng Văn.
Tuy việc áp dụng mới chỉ diễn ra ở một trường học, với số lượng học sinh
còn hạn chế, song kết qủa kiểm tra đánh giá đã nói lên phần nào tính khả thi của
đề tài. Học sinh đã có hứng thú trong học tập, luôn mong muốn bộc lộ suy nghĩ
cá nhân, từ đó biết tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ. Chính điều này đã
kích thích khả năng nghiên cứu, đầu tư cho tiết dạy của giáo viên.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận

18


KWL là một kĩ thuật dạy học tích cực có nhiều lợi thế, ưu điểm trong dạy
học Ngữ văn nói chung, dạy học thơ Việt Nam hiện đại ở lớp 9 nói riêng. Trong
mỗi giờ học, tùy từng thời điểm thích hợp mà giáo viên có thể vận dụng linh
hoạt kĩ thuật này, phối hợp với các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực
khác, từ đó tạo hứng thú học tập cho học sinh, bởi những điều các em đã biết,
muốn biết và học được qua từng bài học phù hợp với nhu cầu nhận thức của học
sinh, giúp các em dần hình thành khả năng định hướng trong học tập, tự tìm ra
cách học phù hợp nhất cho bản thân. Sử dụng kĩ thuật KWL còn giúp giáo viên
và học sinh tự đánh giá kết quả học tập, có sự điều chỉnh và định hướng cho các
hoạt động học tập tiếp theo.
Mặt khác, kĩ thuật KWL rất thích hợp trong dạy các môn khoa học xã hội,
lại có khả năng kết hợp linh hoạt với các phương pháp dạy học mới như thảo
luận nhóm, trình bày 1 phút, động não… nên dễ dàng rèn cho học sinh nhiều kĩ
năng cần thiết. KWL tạo bầu không khí thoải mái cho giờ học, giúp hoc sinh chủ
động bộc lộ hiểu biết, từ đó sẽ ghi nhớ lâu hơn; biết vận dụng, liên hệ với cuộc

sống, biến những điều trên sách vở thành việc làm thiết thực.
Vận dụng kĩ thuật KWL vào dạy học thơ Việt Nam hiện đại trong chương
trình Ngữ văn 9 là cần thiết nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản như:
bám sát mục tiêu, chuẩn kiến thức kĩ năng các bài đọc - hiểu thơ Việt Nam hiện
đại; đảm bảo khuyến khích và tôn trọng những cảm nhận chủ quan của bạn đọc
học sinh; chú trọng rèn cho học sinh kĩ năng tự đặt câu hỏi, kĩ năng tự đánh giá
kết quả trong quá trình đọc - hiểu văn bản; sử dụng phối hợp linh hoạt kĩ thuật
KWL với các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác để KWL phát huy hết ưu điểm
của nó.
3.2. Kiến nghị
Vận dụng kĩ thuật KWL vào dạy học thơ Việt Nam hiện đại ở lớp 9 tuy đã
đạt được những kết quả đáng kể, nhưng bên cạnh đó, để triển khai sáng kiến
kinh nghiệm này rộng rãi cho giáo viên giảng dạy cũng cần phải có thời gian và
sự phối kết hợp thực hiện của nhà trường, giáo viên và học sinh. Chúng tôi mạnh
dạn đưa ra một số đề xuất sau:
Trước hết, đối với giáo viên, dù dạy môn gì, vận dụng phương pháp, kĩ
thuật như thế nào cũng cần phải trau dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm từ đồng
nghiệp để vận dụng vào quá trình giảng dạy đạt hiệu quả hơn. Muốn vậy, Phòng
giáo dục, nhà trường cần phối kết hợp với các trường đào tạo (ở địa phương
Thanh Hóa là trường Đại học Hồng Đức) tổ chức các lớp học chuyên đề, bồi
dưỡng kiến thức, tiếp cận các công trình nghiên cứu mới về phương pháp và kĩ
thuật dạy học. Đặc biệt, các đề tài nghiên cứu ở các luận văn cần được triển khai

19


vận dụng trong đông đảo giáo viên, biến những kiến thức lí luận, sách vở thành
việc làm thiết thực, phục vụ công tác giảng dạy tốt hơn. Thực tế cho thấy, hàng
năm đều có những lớp bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên nhưng chỉ mang
tính hình thức, chiếu lệ. Bản thân người giáo viên không tiếp cận được với sự

đổi mới đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay.
Đối với nhà trường THCS, cần đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ
dạy học như máy chiếu, ti vi, máy tính… Bởi các kĩ thuật dạy học mới đều đòi
hỏi thực hiện nhanh chóng, không làm mất thời gian, ảnh hưởng đến tiến trình
bài học. Ngoài ra, nhà trường cần quan tâm đến công tác chuyên môn, cho giáo
viên dự giờ thăm lớp, đúc rút kinh nghiệm, trao đổi ở nhóm, tổ để tìm ra những
phương pháp, kĩ thuật dạy học hiệu quả, nâng cao hứng thú học tập cho học
sinh.
Quá trình dạy học có đạt kết quả hay không còn phụ thuộc một phần lớn
vào đối tượng học sinh. Vì vậy, kích thích tư duy sáng tạo, năng lực phát hiện ở
học sinh, cho các em tiếp cận, làm quen với những kĩ thuật và phương pháp dạy
học mới là điều quan trọng trong dạy học. Hiện nay, nhiều học sinh rất ngại học
văn, ngại viết văn, thơ ca trở thành một thứ xa lạ với các em, cho nên, giáo viên
cần khơi gợi tình yêu văn thơ, niềm ham thích đọc sách ở các em…
KWL là những vấn đề lí luận mới, nghiên cứu ứng dụng của chúng tôi vì
vậy mới chỉ là bước đầu, KWL cần được nghiên cứu ứng dụng sâu rộng và đa
dạng trong dạy học Văn ở nhà trường phổ thông Việt Nam.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi qua việc thực hiện đề tài ở trường
THCS Minh Khai. Đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chủ quan của bản thân và
mới áp dụng trong phạm vi hẹp. Rất mong sự đóng góp ý kiến, trao đổi, bổ sung
của bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Minh Khai, ngày 02 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của
người khác.

Người viết

20


Tống Thị Tuyết

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ
năng môn Ngữ văn Trung học cơ sở, Nxb Giáo dục.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dạy và học tích cực, Dự án Việt - Bỉ, Nxb Đại học
Sư phạm.
21


3. Tạ Phong Châu (1961), Một số vấn đề về phương pháp giảng văn, tập 1, Giáo
dục.
4. Trần Thanh Đạm (1978), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn chương theo loại
thể, Nxb Giáo dục.
5. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Giáo dục.
6. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, Hà Nội.
7. Bùi Minh Đức (2010), “Các nhà văn bàn về dạy học văn trong nhà trường”,
Tạp chí Dạy và học ngày nay.
8. Nguyễn Trọng Hoàn (2012), Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 9, Nxb Giáo dục.
9. Trần Bá Hoành (1994), Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, Tạp chí nghiên
cứu Giáo dục số 1.
10. Nguyễn Thanh Hùng (2009), Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà
trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Phan Trọng Luận (1997), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Phan Trọng Luận(1978), Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
13. Nhiều tác giả, Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1- 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Nhiều tác giả, Sách bài tập Ngữ văn 9, tập 1 - 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Nhiều tác giả, Sách giáo viên Ngữ văn 9, tập 1- 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Nhiều tác giả, Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nhiều tác giả, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn
THCS, tập một, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Nhiều tác giả, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn
THCS, tập hai, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Cao Đức Tiến, Lấy HS làm trung tâm trong dạy học Văn, Kỉ yếu Hội thảo
Đổi mới PPDH Văn và Tiếng Việt ở trường THCS, Hà Nội tháng 12/1996.
20. Hoài Thanh - Hoài Chân (2008), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn Hóa Sài Gòn.
21.Trang mạng xã hội, Internet, Google…

MỤC LỤC
Nội dung
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu

Trang
1
2
2
22


1.3. Đối tượng nghiên cứu

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2
2

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng vấn đề
2.3. Các khái niệm
2.4. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
2.5. Hiệu quả

3
3
3
6
7
17

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

19
19
19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22


23



×