ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
CẤN THỊ QUỲNH TRANG
VẤN ĐỀ DINH DƢỠNG CỦA TRẺ EM
TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
CẤN THỊ QUỲNH TRANG
VẤN ĐỀ DINH DƢỠNG CỦA TRẺ EM
TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí
Mã số: 60.32.01.01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quý Phương
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Tác giả
Cấn Thị Quỳnh Trang
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Quý
Phương, là người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các Thầy cô và các cán bộ trong khoa Báo chí đã cung cấp
cho tôi những kiến thức chuyên môn quý báu, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận
lợi về cơ sở vật chất trong suốt thời gian tôi học tập và thực hành ở Khoa.
Tôi cũng xin cảm ơn Phòng sau đại học, Trường Đại học Khoa Xã hội và
Nhân văn đã tạo điều kiện cho tôi có thời gian hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân và bạn
bè, những người đã luôn ở bên cạnh cổ vũ, động viên và tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cấn Thị Quỳnh Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DINH DƢỠNG TRẺ EM VÀ VAI
TRÒ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ DINH DƢỠNG TRẺ EM
9
1.1. Các khái niệm
9
1.2. Khái quát về dinh dưỡng trẻ em và thực tiễn tại Việt Nam
12
1.3. Vai trò của báo chí đối với công tác chăm sóc dinh dưỡng của trẻ em
22
1.4. Thực trạng thông tin trên báo chí về dinh dưỡng trẻ em
31
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT VẤN ĐỀ DINH DƢỠNG CỦA TRẺ EM
TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY
39
2.1. Các tờ báo khảo sát
39
2.2. Nội dung vấn đề dinh dưỡng của trẻ em trên các báo khảo sát
43
2.3. Hình thức thể hiện
62
2.4. Phản hồi của công chúng về hiệu quả tuyên truyền của các tờ báo khảo
sát
70
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA BÁO CHÍ TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN DINH
DƢỠNG TRẺ EM
84
3.1. Những đóng góp tích cực của báo chí đối với công tác tuyên truyền dinh
dưỡng cho trẻ em
84
3.2. Một số hạn chế trong công tác tuyên truyền dinh dưỡng cho trẻ em trên
báo chí
89
3.3. Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền dinh dưỡng
cho trẻ em trên báo chí
91
KẾT LUẬN
99
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BYT
Bộ Y tế
FAO
Tổ chức lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
VDDQG
Viện Dinh dưỡng Quốc gia
UNICEF
Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc
WHO
Tổ chức Y tế thế giới
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
KHCN
Khoa học công nghệ
VSANTTP
Vệ sinh an toàn thực phẩm
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1
Nội dung vấn đề dinh dưỡng trẻ em độc giả quan tâm
71
Bảng 2.2
Mức độ thường xuyên quan tâm về thông tin dinh dưỡng
trẻ em
73
Bảng 2.3
Đánh giá của công chúng về tin, bài có thông tin dinh
dưỡng trẻ em
75
Bảng 2.4
Kết quả độ tin cậy về vấn đề tuyên truyền dinh dưỡng trẻ
em trên báo
75
Bảng 2.5
Đánh giá của công chúng về hiệu quả thông tin dinh
dưỡng trẻ em của 03 tờ báo khảo sát
77
Bảng 2.6
Vấn đề dinh dưỡng trẻ em trong tương lai
78
Bảng 2.7
Giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền về dinh
dưỡng trẻ em
79
Bảng 2.8
Chất lượng nội dung tuyên truyền trên các báo khảo sát
80
Bảng 2.9
Cách thể hiện tin, bài trên các báo khảo sát
81
Bảng 2.10.
Hình thức tuyên truyền trên các báo khảo sát
81
Biểu đồ 2.1
Nội dung tuyên truyền về dinh dưỡng trẻ em trên các báo
khảo sát
72
Biểu đồ 2.2
Đánh giá của công chúng về tần xuất xuất hiện thông tin
dinh dưỡng trẻ em trên các tờ báo khảo sát
72
Biểu đồ 2.3
Mức độ thường xuyên quan tâm về thông tin dinh dưỡng
trẻ em
74
Biểu đồ 2.4
Đánh giá của công chúng về tính cập nhật của thông tin
dinh dưỡng trẻ em trên 03 tờ báo khảo sát
76
Biểu đồ 2.5
Thay đổi hình thức tuyên truyền trên các báo khảo sát
82
1
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh, hội nhập
quốc tế sâu rộng và ứng dụng các thành tựu khoa học thực phẩm dinh dưỡng đã
góp phần cải thiện đời sống và tạo sự thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin, kiến
thức về sức khỏe và dinh dưỡng cho trẻ em.
Hầu hết các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn
2001-2010 đã đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Tại kỳ họp thường niên lần thứ 35
của Ủy ban thường trực về Dinh Dưỡng Liên hợp quốc tổ chức tại Hà Nội
(3/2008), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) đa
̃
đánh giá Việt Nam là một trong số ít các quốc gia đạt mức giảm
suy dinh dưỡng tre
̉
em gần với Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Có thể khẳng định, để đạt được những kết quả trên có sự vào cuộc mạnh
mẽ của các cơ quan báo chí, tuyên truyền tới đông đảo người dân, các cấp
chính quyền, giúp họ hiểu tình hình dinh dưỡng trẻ em và các vấn đề liên
quan dến dinh dưỡng, cách làm ra sao, chỉ ra những khó khăn cần tháo gỡ,
những bất cập cần giải quyết…. Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng
trẻ em đã được triển khai liên tục và rộng rãi trong hơn 10 năm qua trên đài
truyền hình Việt Nam. Các thông điệp phòng, chống suy dinh dưỡng được
phát thường xuyên 3 lần/tuần (thứ 2, thứ 4 và thứ 7) trên sóng truyền hình của
đài VTV1, VTV3, HTV9, truyền hình huế, VTV5 (kênh truyền hình bằng
tiếng dân tộc). Các chương trình phổ biến kiến thức Phòng chống suy dinh
dưỡng Trẻ em trên VTV2 cũng được phát sóng định kỳ hàng tháng.Đài tiếng
nói Việt Nam/ (trung ương/ tỉnh-thành phố) với chuyên mục hướng dẫn nuôi
trẻ/phòng, chống suy dinh dưỡng bằng tiếng dân tộc vẫn tiếp tục được duy trì
triển khai liên tục trong các năm qua. Bên cạnh việc duy trì đều đặn thông tin
2
trên sóng phát thanh, việc tập trung giáo dục truyền thông trong ngày vi chất
dinh dưỡng và tuần lễ dinh dưỡng và phát triển cũng được trú trọng. Đối với
báo in, theo chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Y tế, chuyên mục dinh dưỡng đã được
đăng thường xuyên trên báo Sức khoẻ và Đời sống. Chương trình Phòng
chống suy dinh dưỡng Trẻ em cùng với các dự án thuộc chương trình mục
tiêu quốc gia đã cấp báo miễn phí đến 100% số trạm y tế xã trong cả nước từ
năm 2005. Báo in đã ra đời những tờ báo chuyên biệt dành cho các bậc cha
mẹ tìm hiểu về trẻ, trong đó các vấn đề về dinh dưỡng trẻ em chiếm vị trí
trung tâm như tạp chí Mẹ và bé, Mẹ yêu bé, Gia đình và trẻ em ……Các bài
viết về hoạt động Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em và các kiến thức dinh
dưỡng đã được chuyển tải rất đa dạng trên các báo, tạp chí từ trung ương đến
địa phương. Có thể nói, chưa bao giờ những vấn đề dinh dưỡng của trẻ em lại
chiếm nhiều diện tích, thời lượng trên báo chí như hiện nay.
Mặc dù đa
̣
t đươ
̣
c các thành tựu đa
́
ng ghi nhâ
̣
n tro ng thời gian qua nhưng
Việt Nam vẫn phải đương đầu với những thách thức lớn về dinh dưỡng.
Trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi vẫn còn ở mức
cao thì tình trạng thừa cân - béo phì và một số bệnh mạn tính không lây liên
quan đến dinh dưỡng đang có xu hướng gia tăng, đó là gánh nặng kép về dinh
dưỡng.
Do vậy, triển khai các hoạt động truyền thông đại chúng với các loại
hình, phương thức, nội dung phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm
nâng cao hiểu biết và thực hành dinh dưỡng hợp lý đặc biệt là phòng
chống suy dinh dưỡng thấp còi, khống chế thừa cân - béo phì và các
bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng cho mọi tầng lớp
nhân dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông trên báo chí nhằm nâng cao
kiến thức về tầm quan trọng của công tác dinh dưỡng đối với sự phát
3
triển toàn diện về tầm vóc, thể chất và trí tuệ của trẻ em đang là đòi hỏi
bức thiết của xã hội.
Báo chí với tư cách là công cụ tuyên truyền đắc lực các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước tuy đã có những đóng góp đáng kể trong
việc tuyên truyền vấn đề dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam hiện nay, cung cấp
những kiến thức phòng chống suy dinh dưỡng, thừa cân béo phì, vệ sinh an
toàn thực phẩm, những thành tựu về y học trong công tác dinh dưỡng cho
trẻ em, cảnh báo những vấn đề ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em có liên quan
đến dinh dưỡng… Nhưng bên cạnh những vấn đề tích cực, đạt hiệu quả
cao còn có những vấn đề về dinh dưỡng trẻ em không mang tính khoa học
ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của người dân về dinh dưỡng cho trẻ
hoặc chưa có cách thông tin đạt hiệu quả.
Xuất phát từ những điều nêu trên, tác giả lựa chọn: "Vấn đề dinh dưỡng
của trẻ em trên báo chí Việt Nam" - Khảo sát Báo Sức khỏe và Đời sống,
Thanh niên, Tạp chí Mẹ và bé từ 1/2012 đến 12/2013, làm đề tài luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ ngành Báo chí của mình. Song để nghiên cứu vấn đề này
đòi hỏi phải khảo sát, nghiên cứu hoạt động của nhiều tờ báo trong các giai
đoạn khác nhau của thực tiễn. Trong những điều kiện và những yêu cầu
thực tế của một luận văn, tôi chỉ xin thực hiện việc nghiên cứu đề tài này ở
ba tờ báo (Sức khỏe và Đời sống, Thanh niên, Tạp chí Mẹ và bé) và chỉ xin
giới hạn ở một khoảng thời gian nhất định (1/2012 đến 12/2013). Do vậy,
đề tài của luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Báo chí có tên là: " Vấn đề
dinh dưỡng của trẻ em trên báo chí Việt Nam " (Khảo sát Báo Sức khỏe và
Đời sống, Thanh niên, Tạp chí Mẹ và bé từ 1/2012 đến 12/2013).
4
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực tế ở Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy vẫn còn thiếu rất
nhiều các công trình nghiên cứu lí luận cho những vấn đề cụ thể như tuyên
truyền về dinh dưỡng cho trẻ em, mặc dù những tài liệu mang tính chất
nghiên cứu lí luận chung về dinh dưỡng cho trẻ em có rất nhiều. Ví dụ như:
Dinh dưỡng dành cho trẻ em của tác giả William H. Dietz, biên dịch: Lưu
Văn Hy; Dinh dưỡng cho trẻ nhỏ của tác giả Nguyễn Thị Hoa; Giáo trình dinh
dưỡng trẻ em của bác sĩ Bùi Thuý Ái (ch.b.); Dinh dưỡng cho trẻ của tác giả
Đỗ Thanh Loan … đã đề cập đến những vấn đề thuộc về dinh dưỡng cho trẻ
em theo lứa tuổi, tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với trẻ em, những hướng
dẫn dinh dưỡng toàn diện cho trẻ em từ sơ sinh, chập chững biết đi cho đến
tuổi thiếu niên.
Trong những năm gần đây, các vấn đề về sức khỏe con người được
truyền thông phản ánh ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của người
dân. Một số luận văn nghiên cứu về mối liên hệ này như: “Báo chí với việc
tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên” luận văn của Trần
Thanh Huyền (2005), luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của sức khỏe sinh sản
và chăm sóc sức khỏe sinh sản, trong đó đặc biệt quan tâm tới những vấn đề
có ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản vị thành niên, phân tích và tìm ra nguyên
nhân, giải pháp đóng góp cho việc tuyên truyền giáo dục sức khỏe sinh sản vị
thành niên trên báo chí hiện nay; “Thông tin sức khỏe trên báo chí Việt Nam
hiện nay - Vấn đề và thảo luận” luận văn của Bùi Thị Thu Thủy (2010), luận
văn khái quát hóa và chuẩn hóa hệ thống lý luận về lí thuyết kênh, chương
trình truyền thông chuyên biệt và nhu cầu của công chúng chuyên biệt đối với
vấn đề thông tin sức khỏe. Cung cấp một bức tranh toàn cảnh về tình hình
thông tin sức khoẻ trên báo chí hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả truyền thông; “Thông tin y tế – sức khoẻ trên
5
báo in hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Hoà (2012), cung cấp một bức tranh
toàn cảnh về tình hình thông tin sức khoẻ trên báo chí hiện nay, từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
Sau khi tìm hiểu các tài liệu liên quan, những luận văn của các đồng nghiệp
cho thấy “vấn đề dinh dưỡng của trẻ em trên báo chí Việt Nam” cho đến nay
chưa có công trình nào tiến hành một cách có hệ thống chuyên sâu và xem nó
như một đối tượng nghiên cứu độc lập. Vì vậy, đề tài:"Vấn đề dinh dưỡng
của trẻ em trên báo chí Việt Nam" là một đề tài mới, hết sức hữu ích đối với
nhà báo – những người hoạt động trên lĩnh vực thông tin tuyên truyền.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát, đánh giá về công tác truyền thông dinh dưỡng trẻ em trên 3
tờ báo Sức khỏe và Đời sống, Mẹ và Bé. Nêu lên những thành công cũng
như hạn chế trong công tác tuyên truyền, từ đó đề ra những giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả công tác truyền thông dinh dưỡng trẻ em trên báo
chí nói chung và báo in nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài cần triển khai các nhiệm vụ sau:
- Khảo sát, phân tích các tin, bài về dinh dưỡng trẻ em trên báo Thanh
niên, Sức khỏe và Đời sống, Mẹ và Bé từ tháng 1/2012 đến tháng
1/2013.
- Đánh giá về nội dung và hình thức truyền thông, chất lượng, hiệu quả
của báo chí trong công tác truyền thông dinh dưỡng trẻ em trên báo chí
Việt Nam hiện nay;
- Rút ra những bài học kinh nghiệm, ý kiến đề xuất cũng như những giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông dinh dưỡng
trẻ em trên báo in riêng và báo chí nói chung.
6
IV. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: thông tin dinh dưỡng trẻ em trên
báo chí Việt Nam. Bằng việc khảo sát 3 tờ báo Thanh niên, Sức khỏe và Đời
sống, Mẹ và bé trong vòng 2 năm, luận văn sẽ làm rõ vấn đề này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này một cách toàn diện, tác giả xác định phạm vi
nghiên cứu về mặt thời gian tương đối dài, gồm các tác phẩm báo chí về dinh
dưỡng cho trẻ em đã được đăng trên 3 tờ báo trong vòng 2 năm bao gồm báo
Sức khỏe và Đời sống trong 2 năm từ 1/2012 đến 12/2013, báo Thanh niên từ
1/2012 đến 12/2013, Tạp chí Mẹ và bé từ 1/2012 đến 12/2013. Đề tài chọn
khoảng thời gian trong vòng 2 năm gần đây vì thông tin về dinh dưỡng trong
thời gian này vẫn còn mới, phù hợp với thực tiễn nhu cầu của độc giả. Đồng
thời khoảng thời gian 2 năm khảo sát cũng phản ánh được đầy đủ lượng thông
tin cần thiết cho luận văn.
Tác giả cũng hướng tới phân tích các tác phẩm báo chí viết về dinh dưỡng
cho nhóm đối tượng là trẻ em có lứa tuổi từ sơ sinh đến 18 tuổi. Đây là nhóm
đối tượng được các báo phản ánh nhiều nhất và trọng tâm về dinh dưỡng.
Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, đề tài tập
trung khảo sát trên 3 báo, và tạp chí điển hình. Báo Sức khỏe và đời sống là
một trong những tờ báo hàng đầu về sức khỏe, 1 tuần phát hành 4 số. Báo
thông tin nhanh nhạy các tiến bộ về y học của thế giới và Việt Nam, phổ biến
kiến thức khoa học y dược, hướng dẫn kỹ năng sống khoa học, tư vấn về dinh
dưỡng, sức khỏe, ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ cuộc sống. Thanh
niên nhật báo là một trong những tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất Việt
Nam, Thanh niên luôn khẳng định là tờ báo của giới trẻ, của mọi gia đình.
7
Tạp chí Mẹ và bé là một tờ tạp chí chuyên biệt dành cho những ông bố bà mẹ
cung cấp thông tin cho độc giả những vấn đề gia đình, cách nuôi dạy con cái
bằng những bài viết, những thông tin về sản khoa, nhi khoa, dinh dưỡng tâm
lý, giáo dục
Ngoài ra nhóm độc giả mà tác giả đi sâu tìm hiểu, lấy ý kiến là các bậc phụ
huynh có con trong độ tuổi dinh dưỡng từ sơ sinh đến 18 tuổi.
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Triển khai thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp chính sau:
- Căn cứ vào các luận điểm được trình bày và được giải thích dựa trên cơ
sở phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin,
trên tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về báo chí,
những quan điểm lý luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về dinh dưỡng, chăm sóc
sức khỏe trẻ em.
- Căn cứ vào phương pháp thu thập thông tin bao gồm:
Nghiên cứu tài liệu với hai nguồn tư liệu chủ yếu là: thứ nhất, các văn kiện,
Nghị định của Đảng và Nhà nước, các đề tài khoa học cấp Bộ và Nhà nước,
hệ thống chính sách, luật pháp của Nhà nước Việt Nam, Bộ Y tế về dinh
dưỡng. Nguồn tư liệu thứ hai là các tác phẩm giáo khoa về báo chí.
Xử lý thông tin, với các phương pháp thống kê và phương pháp tổng hợp,
tác giả thu thập và thống kê các số liệu cụ thể, các sản phẩm báo chí liên quan
đến vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em. Xử lý thông tin xuất phát từ thực tiễn các
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam, về vai trò của báo chí trong trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội, trong đó có vấn đề về bồi dưỡng nguồn lực
con người.
- Các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn, trong đó có sử
dụng một số phương pháp chính như nghiên cứu nhóm công chúng chuyên
biệt với tư cách là đối tượng hưởng thụ các sản phẩm báo chí, phương pháp
8
nghiên cứu các tác phẩm báo chí viết về dinh dưỡng trẻ em, phân tích kết hợp
với phỏng vấn sâu nhằm có được các kết quả khách quan. Thông qua việc
phân tích định lượng các tác phẩm, kết hợp với phương pháp định tính: phỏng
vấn sâu, quan sát đề tài này được trình bày theo phương pháp phân tích,
tổng hợp, chứng minh để làm sáng tỏ các khía cạnh về vấn đề dinh dưỡng của
trẻ em trên báo chí Việt Nam.
VI. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ một số lý luận về dinh dưỡng trẻ em và về vai
trò của báo chí Việt Nam trong việc tuyên truyền, phản ánh về lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, luận văn khảo sát có hệ thống các cách thức tuyên truyền,
phản ánh về vấn đề dinh dưỡng của trẻ em, làm rõ vai trò của báo chí trong
việc tuyên truyền về vấn đề dinh dưỡng của trẻ em
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn chỉ ra những thành công và hạn chế của các tờ
báo khảo sát nhằm đưa ra những giải pháp để các tờ báo phát huy được những
mặt mạnh và hạn chế để các tờ báo có kế hoạch tuyên truyền phù hợp với chủ
trương của Đảng, của ngành.
Đồng thời luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý,
các nhà báo, các bạn sinh viên và những người quan tâm tới đề tài.
VII. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về dinh dưỡng trẻ em và vai trò của báo chí đối với
vấn đề dinh dưỡng trẻ em
Chương 2: Khảo sát vấn đề dinh dưỡng của trẻ em trên báo chí Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của báo chí trong công tác
tuyên truyền dinh dưỡng trẻ em.
9
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DINH DƢỠNG TRẺ EM VÀ
VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ DINH DƢỠNG TRẺ EM
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Dinh dưỡng
Con người là một thực thể sống, nhưng sự sống của con người không thể
tồn tại được nếu con người không có dinh dưỡng thường xuyên. Dinh dưỡng
là nhu cầu sống hàng ngày của con người, trẻ em cần dinh dưỡng để phát triển
thể lực và trí lực, người lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm việc,
hay nói cách khác, dinh dưỡng quyết định sự tồn tại và phát triển của cơ thể.
Vậy, “Dinh dưỡng là một quá trình phức hợp bao gồm việc đưa vào cơ thể
những thức ăn cần thiết qua quá trình tiêu hóa và hấp thụ để bù đắp hao phí
năng lượng trong quá trình hoạt động sống của cơ thể, tạo ra sự đổi mới các tế
bào và mô cũng như điều tiết các chức năng sống của cơ thể”[3,tr. 6].
1.1.2. Trẻ em
Theo Từ điển Xã hội học, trẻ em đó là nhóm ở trong quá trình xã hội hóa
(tiếp nhận những kỹ năng và tri thức để có thể tham gia hoạt động xã hội độc
lập), nói đúng hơn đó là nhóm ở trong giai đoạn đầu tiên của xã hội hóa. Về
luật pháp người ta coi đó là vị thành niên.
Ngay từ khi xã hội loài người hình thành, đã có những quan niệm cho rằng
trẻ em là những cá thể còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần. Một thời kỳ
dài trong lịch sử, trẻ em chỉ được coi như những cá thể phụ thuộc, thậm chí bị
coi như một tài sản riêng của các bậc cha mẹ, phụ thuộc vào cha mẹ và người
nuôi dưỡng một cách thụ động.
Trong thực tế có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau khi xem xét, giải
quyết những vấn đề liên quan đến quyền và bổn phận của trẻ em. Người ta
10
thường sử dụng cụm từ “trẻ em”, “trẻ con” hay “trẻ thơ” để chỉ những người
ở một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của con người. Ở góc độ khoa
học, trẻ em được định nghĩa tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ
thể, như trong triết học, trẻ em được xem xét trong mối quan hệ biện chứng
với sự phát triển xã hội nên ở mọi thời đại, tương lai của quốc gia, dân tộc đều
tuỳ thuộc vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đối với chuyên
ngành xã hội học, trẻ em được xác định là người có vị thế, vai trò xã hội khác
với người lớn, vì vậy, cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh trưởng,
nuôi dưỡng, bảo vệ, chăm sóc phát triển thành người lớn. Trong tâm lý học,
khái niệm trẻ em được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý -
nhân cách con người. Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em thường được
tiếp cận theo độ tuổi. Điều này có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là
người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác
định.
Mặc dù còn có nhiều cách gọi tên hay vận dụng khác nhau nhưng chúng ta
có thể thống nhất khái niệm trẻ em như sau: “Trẻ em là một thuật ngữ nhằm
chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của
sự phát triển con người”. Từ cách tiếp cận này, chúng ta có thể hiểu khái niệm
về độ tuổi của trẻ em là khoảng thời gian đã tồn tại từ khi ra đời cho đến năm
16 (theo pháp luật Việt Nam) hoặc năm 18 tuổi (theo pháp luật quốc tế).
Điều 1, công ước Quốc tế Quyền trẻ em ghi rõ: “Trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
thành niên sớm hơn”. Theo luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt
Nam quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”, “Những người
dưới 18 tuổi là người chưa thành niên”. Có thể thấy, độ tuổi từ 16-18 tuổi vẫn
được các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam coi là chưa thành niên.
11
Các giáo trình dinh dưỡng trẻ em cũng quy định cụ thể độ tuổi dinh dưỡng trẻ
em từ sơ sinh đến 18 tuổi.
Vậy, luận văn sẽ đề cập đến vấn đề dinh dưỡng trẻ em trong lứa tuổi từ sơ
sinh đến 18 tuổi. Lựa chọn lứa tuổi dinh dưỡng như vậy phù hợp với các quy
định của quốc tế cũng như các giáo trình dinh dưỡng đang được giảng dạy
hiện nay.
1.1.3. Dinh dưỡng của trẻ em
Dinh dưỡng chiếm một vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển
cơ thể và giữ gìn sức khỏe của con người. Ở mỗi thời kỳ phát triển của một
đời người, nhu cầu về dinh dưỡng hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên việc đáp
ứng nhu cầu ấy một cách hợp lý lại luôn luôn là vấn đề đáng chú ý, vì đó là
nền tảng của sức khỏe. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với trẻ nhỏ, vì
các sai lầm về dinh dưỡng trong giai đoạn ấu thơ có khi gây những hậu quả
nghiêm trọng và không thể phục hồi kéo dài đến suốt đời.
Vậy, “Dinh dưỡng trẻ em nghiên cứu ảnh hưởng của các chất dinh dưỡng
đối với cơ thể trẻ em và xác định nhu cầu về các chất dinh dưỡng đó, nhằm
giúp trẻ phát triển khỏe mạnh, phòng tránh các bệnh do dinh dưỡng không
hợp lý gây nên”[11, tr.7].
Dinh dưỡng trẻ em theo sách “Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm”
của Nhà xuất bản Y học năm 2004, “Giáo trình dinh dưỡng trẻ em” Nhà xuất
bản Giáo dục và cuốn “Giáo trình dinh dưỡng trẻ em” Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia đều chia vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em theo các nhóm tuổi:
Dinh dưỡng trẻ em dưới 1 tuổi: dinh dưỡng của trẻ dưới 1 tuổi có ý nghĩa
quan trọng tới sức khỏe và cả quá trình phát triển của trẻ. Trẻ dưới 1 tuổi có
sự phát triển rất nhanh, nên cần đáp ứng cho trẻ đầy đủ chất dinh dưỡng về
protein, lipit, gluxit, các vitamin và muối khoáng.tính theo cân nặng, nhu cầu
12
ở trẻ cao hơn nhiều so với người lớn. Để cơ thể trẻ em phát triển tốt, đề phòng
các bệnh tật, cần biết cách thực hành dinh dưỡng hợp lý.
Dinh dưỡng trẻ nhỏ đến vị thành niên (dinh dưỡng học đường). Trong
nhóm tuổi này, dinh dưỡng được chia nhỏ theo các lứa tuổi tương ứng như:
dinh dưỡng nhóm tuổi từ 1-3 tuổi; dinh dưỡng nhóm tuổi từ 4-6 tuổi; nhóm
tuổi từ 7-15 tuổi; dinh dưỡng nhóm tuổi từ 16-18 tuổi.
Cơ thể trẻ em là cơ thể đang lớn và trưởng thành, quá trình trưởng thành
của trẻ em đòi hỏi phải được cung cấp đầy đủ năng lượng, các chất dinh
dưỡng để kiểm soát sự phát triển của cơ thể. Nếu thiếu dinh dưỡng, cơ thể sẽ
chậm lớn, chậm phát triển . Kéo dài tình trạng trên sẽ dẫn đến sụt cân, suy
dinh dưỡng. Ngược lại, nếu thiếu dinh dưỡng sẽ làm tăng nguy cơ mắc các
bệnh béo phì, tim mạch, cao huyết áp….Vì vậy, dinh dưỡng hợp lý là vấn đề
vô cùng quan trọng đối với sức khỏe trẻ em. Việc cung cấp đầy đủ các yếu tố
dinh dưỡng cho cơ thể trẻ em là rất cần thiết.
1.2. Khái quát về dinh dƣỡng trẻ em và thực tiễn tại Việt Nam:
1.2.1. Vấn đề dinh dưỡng trong quyền được chăm sóc của trẻ em:
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta, công tác bảo vệ,
giáo dục và chăm sóc trẻ em luôn được coi trọng. Việt Nam là nước đầu tiên ở
Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước Quốc tế về quyền
trẻ em của Liên hợp quốc. Kể từ ngày 02/09/1990, Công ước này bắt đầu có
hiệu lực, 30 ngày sau đã có 20 quốc gia phê chuẩn. Đến nay đã có 191 quốc
gia phê chuẩn bản Công ước này. Trong lịch sử nhân loại, đây là công ước
được các nước phê chuẩn, tham gia ký nhanh chóng nhất. Theo công ước này,
trẻ em có các quyền cơ bản và các nước thành viên có nghĩa vụ phải đảm bảo
việc thực hiện các quyền đó. Việc Việt Nam tham gia công ước ngay từ khi
13
ban hành đã chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với
trẻ em.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn bản đầu tiên đề cập toàn diện và
chính xác về mặt pháp lý các quyền trẻ em theo hướng tiến bộ và nhân đạo
trên cơ sở thừa nhận trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ giúp đỡ đặc biệt.
Thực hiện công ước, Việt Nam đã xúc tiến việc thực hiện quyền trẻ em một
cách toàn diện. Điều 17 nói rằng: “Các quốc gia thành viên công nhận chức
năng quan trọng của các phương tiện thông tin đại chúng và phải đảm bảo
rằng trẻ em được thu nhận thông tin và tư liệu từ nhiều nguồn quốc gia và
quốc tế khác nhau, đặc biệt là những thông tin tư liệu nhằm mục đích cổ vũ
cho lợi ích xã hội, tinh thần và đạo đức cũng như sức khoẻ về thể chất và tinh
thần của trẻ em”.
Trẻ em luôn là lớp "công dân đặc biệt" được Hồ Chí Minh dành sự quan
tâm cụ thể, sâu sát. Cho dù ở vào những giai đoạn gay go nhất của cách mạng,
cho dù bận trăm công, nghìn việc, quan tâm đến công tác chăm sóc trẻ em là
một trong những công việc Bác thường làm, được Bác coi là quan trọng và
luôn thường trực trong suy nghĩ, việc làm của Người. Chăm lo cho thế hệ trẻ,
cho trẻ em được thể hiện trong phong cách sống, trong đạo đức, trong thế giới
quan khoa học của Hồ Chí Minh. Trẻ em là hiện tại, là một cá thể, có nhu cầu
cần được tôn trọng và bảo vệ. Đối với Hồ Chí Minh, người đã nâng tầm trẻ
em lên vị thế của những công dân nhỏ tuổi. Khi nước nhà có được vị thế độc
lập thì "Các em đã thành những người tiểu quốc dân của một nước độc
lập"[13, tr. 299]. Người phát hiện ở trẻ em những tiềm năng không chỉ cho
tương lai mà có ích ngay trong hiện tại. Người cho rằng: “Vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Tư tưởng đó của Bác được
tiếp tục phát huy trong những chính sách phát triển của Đảng và nhà nước ta.
Theo chỉ thị số 38/CT- TƯ, ngày 30/05/1994: “Trẻ em là nguồn hạnh phúc
14
của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kết tục sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc”.
Trước lúc Người đi xa, cũng dịp 1-6, Bác đã có lời căn dặn toàn Đảng, toàn
dân cần "Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng"
(báo Nhân Dân, số 5526, ngày 1-6-1969). Bác khẳng định: "Nói chung trẻ con
ta rất tốt", Bác nhắc đến các cháu thiếu nhi ở hai miền Nam, Bắc thi đua làm
nghìn việc tốt như thế nào, thành tích ra sao. Tuy nhiên, "vẫn còn một số ít
cháu chậm tiến vì chưa được chăm sóc dạy dỗ đến nơi đến chốn". Người nhấn
mạnh: "Chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ ". Bác kêu gọi mọi người: "Vì
tương lai con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm
sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt".
Trong Di chúc của mình, Bác căn dặn: " Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết…". Vì vậy, Hồ Chí Minh
luôn xác định rõ mục tiêu của công tác chăm sóc trẻ em, trong đó có công tác
dinh dưỡng được người hết sức trú trọng. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác bảo
vệ, chăm sóc trẻ em là trách nhiệm hiện tại, là sự nghiệp lâu dài, góp phần vào
làm hưng thịnh dân tộc và phát triển đất nước. Công tác chăm sóc dinh dưỡng
trẻ em gắn bó chặt chẽ với việc quán triệt, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vì vậy, muốn thực hiện thành công sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ
em, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc tư tưởng của Người.
Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm sóc trẻ em, Đảng và Nhà nước ta
luôn trân trọng các quyền được chăm sóc của trẻ em, quy định cụ thể các
quyền của trẻ em trong hệ thống chủ trương, chính sách và pháp luật. Hiến
pháp đầu tiên năm 1946 đã thể hiện điều đó: “…trẻ em được săn sóc về mặt
15
giáo dưỡng”; “Nhà nước thực hiện nền sơ học cưỡng bức và không học phí,
học trò nghèo được Chính phủ giúp đỡ”. Qua Hiến pháp 1959, 1980,
1992… các quyền được chăm sóc của trẻ em ngày càng được bổ sung, hoàn
thiện, phát triển và được công nhận là một bộ phận quan trọng của quyền con
người. Cụ thể: Trẻ em có quyền được chăm sóc nuôi dưỡng, được chăm sóc
tốt để không bị suy dinh dưỡng, được đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vật chất và
tinh thần ở mức cao nhất có thể là một trong những quyền cơ bản của trẻ em
trong luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em của nước ta đồng thời là mục tiêu phấn
đấu của gia đình, Nhà nước và xã hội. Hiến pháp 1992 khẳng định chế độ bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đồng thời đề cao trách nhiệm của gia đình,
trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái: “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con
thành những công dân tốt”(điều 64) “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”(điều 65).
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, coi việc
bảo vệ, chăm sóc trẻ em là mối quan tâm đặc biệt hàng đầu, với quan điểm
xem con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của
gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị 197/CT-TW ngày 19/3/1960 của Ban Bí thư TW
Đảng đã chỉ rõ: “Quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng là quan tâm đến việc đào
tạo, bồi dưỡng một lớp người mới không những phục vụ cho sự nghiệp xã hội
chủ nghĩa hiện nay mà còn chính là sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản
sau này”[42, tr. 66].
Sau khi ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990, các quyền của trẻ
em trong Công ước đã được cụ thể hoá vào hệ thống pháp luật Việt Nam ngày
càng đầy đủ và hoàn thiện, như trong Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình
sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh
16
về Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Riêng trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em, quyền được chăm sóc trẻ em được quy định cụ thể, rõ ràng và đầy
đủ định rõ trách nhiệm của gia đình, Nhà nước, các cơ quan quản lý Nhà nước
và toàn xã hội trong việc thực hiện quyền được chăm sóc của trẻ em, đảm bảo
lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu Luật quy định tại điều 12:
“Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ,
tinh thần và đạo đức”.
Dinh dưỡng rất cần thiết đối với con người nói chung và đặc biệt quan
trọng đối với trẻ em nói riêng. Sự phát triển thể chất của trẻ ảnh hưởng đến sự
phát triển mọi mặt, đặc biệt là sự phát triển trí tuệ. Đặc điểm phát triển tâm
sinh lý của trẻ lứa tuổi này chưa hoàn thiện, do đó việc chăm sóc giáo dục của
người lớn có ý nghĩa đặc biệt trong sự phát triển nhân cách, thể chất của trẻ
em. Các nhà dinh dưỡng học đã nói: “dinh dưỡng là cái nền của sức khỏe”.
Trẻ em được nuôi dưỡng và chăm sóc tốt thì cơ thể phát triển mới khỏe
mạnh và có sức đề kháng tốt, ít bị mắc bệnh. Vấn đề đặt ra đối với công tác
chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ em là ăn uống thế nào là hợp lý, cơ cấu bữa ăn
như thế nào mới là khoa học, phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Nếu chế dộ ăn của
mỗi người thiếu về số lượng và không cân đối về chất lượng thì cơ thể sẽ bị
giảm cân, giảm khả năng lao động, tăng khả năng mắc bệnh, bệnh tật sẽ
nhiều hơn, nặng hơn và kéo dài hơn. Ngược lại ăn quá nhiều, ăn không cân
đối các chất dinh dưỡng, sẽ gây rối loạn chuyển hóa, gây nên các bệnh dinh
dưỡng và các bệnh không lây như huyết áp cao, tim mạch tiểu đường…
1.2.2. Thực tiễn chăm sóc dinh dƣỡng trẻ em tại Việt Nam
Nhìn lại mấy chục năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn khẳng định nhân tố
con người là quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Từ những ngày
đầu đổi mới khi kinh tế đất nước còn khó khăn, nguyên cố Thủ tướng Chính
17
phủ Võ Văn Kiệt đã phê duyệt “Kế hoạch hành động quốc gia về dinh dưỡng
giai đoạn 1995-2000” ngày 16/9/1995, với hai mục tiêu cơ bản nhằm đảm bảo
an ninh thực phẩm hộ gia đình và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi xuống dưới 30%.
Tiếp theo đó là Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn
2001-2010; Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg ngày 19/3/2001 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ và Chăm sóc sức khoẻ nhân dân;
Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản; Ngày 22/2/2001, Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn
2001-2010” với mục tiêu nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của nhân dân,
các gia đình trước hết là trẻ em và bà mẹ được nuôi dưỡng và chăm sóc hợp
lý, bữa ăn của người dân ở tất cả các vùng đầy đủ hơn về số lượng, cải thiện
hơn về chất lượng, bảo đảm về vệ sinh. Hạn chế các vấn đề sức khỏe mới nảy
sinh có liên quan tới dinh dưỡng.
Cùng với đó là hàng loạt các nghị định, quyết định, chiến lược… và nhiều
văn bản khác đã được ban hành như: Chiến lược Dân số Việt Nam; Nghị định
số 163/2005/NĐ-CP ngày 29/12/2005 về sản xuất và cung ứng muối iốt cho
người ăn; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 149/2007/QĐ- TTg ngày
10/9/2007 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia vệ sinh an toàn thực
phẩm giai đoạn 2006-2010; Nghị định số 21/2006/NĐ-CP ngày 27/02/2006
về kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ; Nghị
quyết số 63/NQ-CP ngày 23/12/2009 của Chính phủ về đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia; Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 23/9/2009 của Chính phủ
về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản;
Luật An toàn thực phẩm; Quyết định số 239/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 09/02/2010 về việc phê duyệt đề án Phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010- 2015; là những văn bản quan trọng thể
18
hiện chủ trương, chính sách hỗ trợ cho chương trình dinh dưỡng trẻ em
của Nhà nước ta, tạo tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu của Chiến
lược dinh dưỡng quốc gia.
Thành công đạt được
Qua 10 năm triển khai, công tác tư vấn, truyền thông, vận động, nâng cao
nhận thức, thay đổi hành vi về dinh dưỡng của trẻ em một cách hợp lý đã
ngày càng đa dạng, phong phú hơn về cả hình thức và nội dung, tiếp cận tốt
hơn các đối tượng nhân dân kể cả ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu
số. Nhờ đó đã có tác động rõ rệt tới nhận thức của các đối tượng trong cộng
đồng. Nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về tầm quan trọng của
dinh dưỡng cũng đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
đã trở thành một trong những chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và
các địa phương. Giảm suy dinh dưỡng trẻ em có ý nghĩa quan trọng đến sự
phát triển giống nòi và góp phần tăng trưởng GDP hàng năm. Tỷ lệ bà mẹ có
kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng cho trẻ ốm tăng từ 44,5% năm 2005
lên 67% vào năm 2009.
Tăng cường nguồn đầu tư cho công tác phòng chống suy dinh dưỡng, đặc
biệt đối với trẻ em trước tuổi học đường. Từ năm 2000, dự án phòng chống
suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi là một trong các dự án thuộc chương trình
mục tiêu quốc gia về phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm
và HIV/AIDS với ngân sách đầu tư khoảng 100 tỷ/năm. Bên cạnh đó, nhờ làm
tốt công tác truyền thông vận động, công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ
em cũng được bổ sung thêm hàng chục tỷ đồng mỗi năm bằng nguồn ngân
sách của địa phương và thông qua sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế Bên cạnh
đầu tư của Nhà nước, trên cơ sở định hướng của Chiến lược, các tổ chức Quốc
tế, Chính phủ các nước và các tổ chức phi chính phủ (UNICEF, WHO, FAO,
19
ADB, các Chính phủ Hà Lan, Nhật Bản, Úc, …) đã quan tâm và hỗ trợ để thực
hiện các mục tiêu của Chiến lược. Nhờ đó chương trình dinh dưỡng đã có các
điều kiện thuận lợi để triển khai đều trên quy mô toàn quốc.
Cải thiện rõ rệt tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể
nhẹ cân (cân nặng/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm mạnh, tính chung cả nước
mỗi năm trung bình giảm khoảng 1,5%, từ 31,9% năm 2001 xuống còn 25,2%
vào năm 2005 và 17,5% vào năm 2010 (vươt chỉ tiêu của Chiến lược đặt ra).
Thành tựu giảm suy dinh dưỡng liên tục và bền vững của Việt Nam đã được
các tổ chức quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp
còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể từ 43,3% năm 2000
xuống còn 29,3% vào năm 2010. Tuy vậy Việt Nam vẫn còn nằm trong số 36
quốc gia có tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi cao trên phạm vi toàn cầu. Tỷ lệ
thừa cân, béo phì ở trẻ em < 5 tuổi chung toàn quốc là 4,8% (thành phố: 5,7%;
nông thôn: 4,2%), đạt so với mục tiêu Chiến lược đề ra là dưới 5%.
Trong 10 năm qua, mỗi năm trên 85% trẻ em trong độ tuổi 6 - 36 tháng và
trên 60% bà mẹ sau sinh trong vòng 1 tháng đầu được uống vitamin A. Các
đối tượng có nguy cơ cao (trẻ em bị viêm phổi, sởi, tiêu chảy kéo dài) đều
được uống bổ sung viên nang vitamin A liều cao và đảm bảo an toàn. Việt
Nam đã thanh toán thiếu vitamin A thể lâm sàng và duy trì bền vững từ năm
2001. Chúng ta đã đạt chỉ tiêu về hạ thấp tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em 8 - 12 tuổi
nhưng chưa đạt về chỉ tiêu duy trì mức Iốt niệu trung vị và độ bao phủ của
muối Iốt (độ bao phủ muối Iốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh năm 2005 là 91,9%
giảm xuống còn 69,5% vào năm 2009).
Khó khăn và hạn chế
Trong 10 năm qua mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư cho
các chương trình dinh dưỡng trẻ em, nhưng ngân sách đầu tư còn hạn chế,