Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tư tưởng đạo đức trong Chu Dịch Luận văn ThS. Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.12 KB, 112 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







HOÀNG MẠNH TRINH






TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CHU DỊCH






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học












Hà Nội - 2014

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







HOÀNG MẠNH TRINH







TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CHU DỊCH







Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.03.01



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Tài Đông







Hà Nội - 2014

3



LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan Luận văn này được thực hiện trên cở sở nghiên cứu tìm tòi
độc lập của bản thân.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Hoàng Mạnh Trinh




























4


LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình thực hiện luận văn tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ
chân thành của các thầy cô giảng viên Khoa Triết học, các học viên lớp Triết
học K20 (Khóa học 2012 - 2014), đơn vị công tác và người hướng dẫn khoa
học.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy cô giảng viên
Khoa Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
luận văn;
Đến các học viên lớp Triết học K20 (Khóa học 2012 – 2014) đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm tài liệu nghiên cứu;
Đến đơn vị cơ quan công tác - Trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Hà
Giang, đã tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và kế hoạch công tác để tôi
hoàn thành đề tài luận văn;
Đặc biệt đó là sự biết ơn đối với PGS.TS Nguyễn Tài Đông - người
hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều tâm huyết giúp đỡ tôi định hướng và hoàn
thành đề tài nghiên cứu của mình.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Mạnh Trinh









5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG
ĐẠO ĐỨC TRONG CHU DỊCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ CHU DỊCH 7
1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời tƣ tƣởng đạo đức trong Chu Dịch 7
1.2. Khái quát về Chu Dịch 24
Tiểu kết chƣơng 1 28
CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN TRONG
CHU DỊCH 31
2.1. Tƣ tƣởng “Thiên Nhân Hợp Nhất” 31
2.2. Tƣ tƣởng về “Trung” 52
2.3. Mối quan hệ giữa Nghĩa và Lợi 68
2.4. Quan niệm “Nội Ngoại Kiêm Tu” 82
Tiểu kết chƣơng 2 99
KẾT LUẬN 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104




1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn minh Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong văn minh phương
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Trước thời kỳ cận đại, ngoài Ấn Độ
thì Việt Nam có giao lưu văn hóa và tiếp thu nhiều yếu tố của văn minh Đông
Á và Đông Nam Á. Nhiều giá trị của nền văn minh Đông Á; đặc biệt văn
minh Trung Quốc đã để lại những dấu ấn nhất định trong suy tư, hành xử của
người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ rất mật thiết về mặt lịch sử cũng
như về văn hóa. Trong lịch sử, Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh,
song không có cuộc chiến tranh nào dai dẳng bằng chiến tranh với Trung
Quốc - khoảng nghìn năm Bắc thuộc. Trong nghìn năm Bắc thuộc đó, văn hóa
Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu đậm lên các thế hệ người Việt Nam thời phong
kiến. Tuy vậy, với nền văn hóa dân gian của mình, dân tộc Việt Nam đã tinh
lọc những giá trị văn hóa Trung Quốc mà phát huy làm giàu cho văn hóa
truyền thống. Một trong những giá trị văn hóa nổi bật, đó là các giá trị đạo
đức và ứng xử trong các Kinh điển của Nho gia, điển hình là Ngũ Kinh và Tứ
Thư của Trung Quốc; nhất là tinh hoa ứng xử đạo đức trong Chu Dịch.
Trong xu thế giao lưu toàn cầu hóa hiện nay, việc mở cửa ra thế giới,
giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa trở nên cấp thiết. Khoa học kỹ thuật và
công nghệ đã tạo điều kiện cho phát triển giao lưu; đặc biệt đã hỗ trợ việc
khám phá, phát triển những giá trị truyền thống. Những thành tựu trong việc
nghiên cứu Chu Dịch của các học giả toàn thế giới cũng cùng dòng chảy đó.
Do vậy, việc nghiên cứu Chu Dịch ở Việt Nam lúc này có nhiều thuận lợi.
Mặt khác, Việt Nam thời phong kiến, cha ông ta đã đặt Ngũ Kinh và Tứ
Thư vào hàng sách giáo khoa để học tập và tuyển chọn nhân tài; tuy vậy, việc
nghiên cứu Ngũ Kinh, nhất là nghiên cứu Chu Dịch chỉ dừng lại ở mức độ

2

bình giảng hoặc vận dụng giải quyết những thực tiễn trực tiếp mà chưa có đủ
phương tiện phục vụ việc nghiên cứu về học thuật; chỉ nhấn mạnh đến xử thế
mà chưa có điều kiện khảo cứu, chú giải, luận chứng cho các nội dung đạo
đức trong Chu Dịch.
Nghiên cứu Ngũ Kinh và Tứ Thư là nền tảng cho nghiên cứu hệ thống tư
tưởng Trung Quốc. Nhất là, nghiên cứu Chu Dịch tạo tiền đề cho nghiên cứu
các tư tưởng chính trị, triết học, lịch sử, văn hóa, đạo đức của Trung Quốc.
Ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu Chu Dịch còn là sự khẳng định giá trị
đúng đắn của nó và ngăn ngừa những xu hướng lợi dụng Chu Dịch phục vụ
mê tín dị đoan.
Vì những lý do trên mà tác giả luân văn lựa chọn vấn đề tư tưởng đạo
đức trong Chu Dịch làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu Chu Dịch ở Phương Đông (Trung Quốc, Đài Loan và Hồng
Kông) và Phương Tây phát triển rất mạnh.
Nghiên cứu Chu Dịch tại Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông đương
đại đã qua hai chu kỳ, tập trung vào một số mũi nhọn như: 1. Vấn đề chú
thích Chu Dịch; 2. Vấn đề nghiên cứu Dịch học sử; 3. Vấn đề nghiên cứu Chu
Dịch liên hợp với các môn khoa học hiện đại; 4. Nghiên cứu mô thức tư duy
của Chu Dịch; 5. Nghiên cứu vấn đề Kinh, Truyện; 6. Vấn đề tính chất của
Chu Dịch.
Nhiều trường Đại học, Viện Nghiên cứu của Trung Quốc có các phân
khoa, trung tâm nghiên cứu Dịch học; nhiều tập san chuyên về Chu Dịch ra
đời từ khá sớm và tiếp tục tồn tại, như Chu Dịch nghiên cứu của Đông Sơn
Đại học, Dũ Lý Dịch học,
Ở Phương Tây có một số nhà nghiên cứu nổi bật, như: Gottfried
Winhelm Leibniz (người Đức) phát hiện ra Nhị tiến chế nguyên lý trong Kinh
Dịch (tức Nguyên lý của hệ thống nhị phân), James Legge (người Anh) với

3

tác phẩm phiên dịch Kinh Dịch nổi tiếng: The Yih-king (Dịch Kinh), Richard
Winhelm (người Đức) cũng với tác phẩm phiên dịch nổi tiếng về Kinh Dịch
(dịch ra tiếng Đức): I Ging, Das Buch der Wandlungen, aus dem
Chinesischen verdeutscht und erlauter von Richard Wilhelm (Dịch Kinh,
quyển sách về những biến dịch, R. Wilhelm dịch từ Hán văn và chú giải).
Ở Việt Nam, nghiên cứu, học tập Chu Dịch có từ khá sớm, nhưng không
thành trường phái và không xuất hiện các chuyên gia. Việc nghiên cứu Chu
Dịch giới hạn trong một số nội dung, như:
Nghiên cứu khái quát các nội dung trong Chu Dịch: Nổi bật đó là các tác
giả: Nguyễn Hiến Lê với tác phẩm Kinh Dịch đạo của người quân tử, Đại
cương triết học Trung Quốc; Lê Văn Quán với các tác phẩm Chu Dịch vũ trụ
quan, Khảo luận tư tưởng Chu Dịch. Hai tác giả trên đã nghiên cứu Chu Dịch
ở nhiều khía cạnh, song cũng chỉ ở mức độ đại cương. Đặc biệt vấn đề đạo
đức trong Chu Dịch được đặt ra song chỉ là liệt kê một số phẩm chất đạo đức
mà chưa có lý giải hệ thống về cơ sở và nội dung của chúng. Tác giả Lê Văn
Quán đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội cho sự tồn tại các tư tưởng đạo đức trong
Chu Dịch nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ gợi ý nghiên cứu.
Chú giải và bình luận Chu Dịch: Nổi bật nhất đó là các tác giả, như: Sào
Nam Phan Bội Châu với tác phẩm Chu Dịch, Thu Giang Nguyễn Duy Cần
với tác phẩm Dịch Kinh tường giải. Tác giả Phan Bội Châu và Nguyễn Duy
Cần thường bám sát nội dung Dịch Kinh khi chú giải và bình luận Chu Dịch
mà dịch, chú giải khiêm tốn về Dịch Truyện. Tác giả Phan Bội Châu hầu như
chỉ chú ý đến Hệ Từ truyện song cũng chỉ dịch và chú giải một phần của Hệ
Từ truyện. Tác giả Nguyễn Duy Cần không dịch phần Dịch Truyện trong tác
phẩm nói trên cũng như trong nhiều tác phẩm khác. Tác giả này cũng chỉ xen
kẽ vào Dịch Kinh khi luận giải các quẻ.
Nghiên cứu về Hà Đồ, Lạc Thư, Bạch thư Chu Dịch, Cấu hình tư duy
Trung Quốc gồm một số tác giả như: Thu Giang Nguyễn Duy Cần với tác

4

phẩm Dịch học tinh hoa, Nguyễn Hữu Lương với tác phẩm Kinh Dịch với vũ
trụ quan đông phương, Nguyễn Duy Hinh với tác phẩm Dịch học văn hóa dự
báo cổ truyền, Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh với tác phẩm Kinh Dịch
cấu hình tư tưởng Trung Quốc. Ở lĩnh vực này, các tác giả chỉ đề cập đến các
khía cạnh riêng biệt liên quan đến tác giả Hà Đồ, Lạc Thư; văn bản Bạch thư
Chu Dịch, vũ trụ quan phản ánh trong Chu Dịch, tính chất dự báo của Chu
Dịch, cấu hình tư tưởng Trung Quốc nói chung mà chưa quan tâm đúng mức,
cũng như lý giải hệ thống về các vần đề trong Dịch Truyện, đặc biệt vấn đề
đạo đức phản ánh trong Dịch Truyện gần như ít bàn tới.
Các tác phẩm phiên dịch Chu Dịch: Đây là loại phổ biến ở Việt Nam; có
thể kể đến như: Chu Dịch dịch chú của Hoàng Thọ Kỳ và Trương Thiện Văn
(Vương Mộng Bưu và Hoàng Trung Thuần dịch), Kinh Chu Dịch bản nghĩa
(Nguyễn Duy Tinh dịch), Kinh Dịch trọn bộ (Ngô Tất Tố dịch), Chu Dịch và
Đông y học của Dương Lực (Lê Quý Ngưu và Lương Tú Vân dịch), Dịch học
toàn tập của Chu Bá Côn (Nguyễn Viết Dần dịch và Nguyễn Bích Hằng hiệu
đính), Bí ẩn của Bát Quái của Vương Ngọc Đức, Diệu Vĩ Quân, Trịnh Vĩnh
Tường (Trần Đình Hiếu dịch). Nhìn chung, đối với các tác phẩm phiên dịch,
các tác giả chỉ dịch phần Dịch Kinh mà ít chú trọng phần Dịch Truyện. Trong
số tác phẩm dịch kể trên, bản dịch Chu Dịch dịch chú của Hoàng Thọ Kỳ và
Trương Thiện Văn được xem là cập nhật nhất nhưng dịch phẩm này cũng chỉ
có phiên âm Hán Việt mà không có nguyên tác Hán văn phần Dịch Truyện.
Luận văn sau đại học nghiên cứu về Chu Dịch còn khiêm tốn, có một số
tác giả như: Vũ Phú Dưỡng với đề tài Triết học Kinh Dịch trong tư tưởng
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Văn Nguyên với tác phẩm Tìm hiểu một số tư tưởng
triết học trong Kinh Dịch. Trong hai luận văn trên, các tác giả cũng chỉ nhắc
đến vấn đề đạo đức với tư cách những phẩm chất đạo đức riêng lẻ mà chưa lý
giải cơ sở, nguồn gốc cho sự tồn tại của chúng.

5
Đặc biệt những sách báo mạo danh Chu Dịch có tính chất mê tín dị đoan

tràn ngập thị trường Việt Nam. Những loại tài liệu này đặc biệt nhấn mạnh
tính chất chiêm bốc trong Chu Dịch; thậm chí làm sai lệch những nội dung về
đạo đức, chính trị, văn hóa được đề cập trong Chu Dịch.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Khái quát, hệ thống hóa về tư tưởng đạo đức trong Chu Dịch.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích, khái quát về bối cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời các tư tưởng
đạo đức cơ bản trong Chu Dịch .
+ Phân tích và tổng hợp nội dung các tư tưởng đạo đức cơ bản trong
Chu Dịch.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng hợp, Lôgic và lịch sử, so
sánh văn bản.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng: Lĩnh vực đạo đức trong Chu Dịch.
- Phạm vi: Lĩnh vực đạo đức trong Chu Dich, đặc biệt là trong Dịch Truyện.
- Văn bản: Tác giả luận văn chủ yếu sử dụng bản dịch Kinh Dịch đạo của
người quân tử của Nguyễn Hiến Lê; vì bản dịch này được phiên dịch “…nhẹ,
thoáng mà chính xác, phong phú sáng sủa, thuần khiết; phần biên khảo, chú
thích rõ ràng, khoa học” - như trong phần “Lời nhà xuất bản” của nhà xuất
bản Văn học ghi nhận. Bản thứ hai, đó là Chu Dịch của Sào Nam Phan Bội
Châu. Tác giả Sào Nam Phan Bội Châu đã bình luận và phân tích sâu sắc, tinh
tế về Dịch Kinh và Dịch Truyện. Bản thứ ba, đó là Chu Dịch đại truyện – tức
phần Dịch Truyện - của Lê Anh Minh. Tác giả Lê Anh Minh đã đưa vào tác
phẩm này nhiều tư liệu tham khảo hiện đại khi chú giải cũng như bổ sung đầy
đủ nguyên văn chữ Hán vào bản dịch (bản của Phan Bội Châu và Nguyễn

6
Hiến Lê đều không có nguyên văn chữ Hán trong phần Dịch Truyện). Bản thứ

tư, đó là Kinh Dịch cấu hình tư tưởng Trung Quốc của Dương Ngọc Dũng và
Lê Anh Minh. Hai tác giả đã dịch và chú thích chi tiết về Dịch Kinh (bản dịch
này không có phần Dịch Truyện) dựa trên nhiều tư liệu hiện đại.
6. Đóng góp của Luận văn: Nghiên cứu hệ thống một số tư tưởng đạo
đức cơ bản trong Chu Dịch, nhất là trong Dịch Truyện.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Khái quát, hệ thống hóa một số tư tưởng đạo đức cơ
bản trong Chu Dịch.
- Ý nghĩa thực tiễn: Tăng cường nhận thức về Chu Dịch; ngăn chặn xu
hướng lợi dụng Chu Dịch vào mục đích mê tín dị đoan; thúc đẩy nghiên cứu
vấn đề đạo đức trong Chu Dịch và cung cấp cơ sở cho việc tìm hiểu những
nội dung tư tưởng khác trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc.
8. Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết Luận, Luận văn
được bố cục thành 2 chương, chia làm 6 tiết.














7
CHƢƠNG 1

BỐI CẢNH LỊCH SỬ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG CHU DỊCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ CHU DỊCH

1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời tƣ tƣởng đạo đức trong Chu Dịch
1.1.1. Tiền đề kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa
Trung Quốc thời cổ đại, cũng như nhiều dân tộc, quốc gia khác, sản xuất
chậm tiến. Dân đời Thương (1766 - 1112 TCN) còn dùng những công cụ rất
thô sơ, chưa biết dùng lưỡi cày để canh tác. Đời Chu (1111 - 256 TCN), kinh
tế đã phát triển hơn. Thời Chu thi hành chế độ tỉnh điền, vua chia nhiều đất
cho nông dân để sản xuất. Đất ruộng là công điền, của triều đình và quý tộc.
Triều đình và quý tộc chia đều cho dân làm, đủ cung cấp cho bề trên dư sống,
nên nhà Chu không cần dùng nô lệ như La Mã thời cổ. Tiểu công nghệ có tính
chất gia đình, cha truyền con nối do vậy nô lệ không cần thiết trong công
nghiệp.
Sự trao đổi sản vật giữa các nước dần thịnh lên; về sau đúc được tiền
đồng (đời Thương hoặc trước nữa người ta dùng vỏ sò làm tiền).
Đánh giá về mặt tích cực của chế độ tỉnh điền, Nguyễn Hiến Lê viết “Dù
sao chế độ đó cũng có cái lợi cho dân là được một đời sống bảo đảm. Khi tới
60 tuổi, không làm việc được nữa thì trả lại đất cho vua chúa và được nhà
nước nuôi nấng. Những con côi, kẻ tàn tật cũng được trợ cấp. Nếu được như
vậy thì họ sướng hơn bọn nông nô của châu Âu thời cổ” [29, tr. 73]. Tuy
nhiên cùng với sự tan dã của chính quyền nhà Tây Chu thì việc duy trì chế độ
này là vật cản đối với sản xuất kinh tế.
Bước sang thời kỳ Đông Chu (Xuân Thu Chiến Quốc) (722 - 221 TCN)
kinh tế có nhiều thay đổi. Nông nghiệp phát triển mạnh do có sự xuất hiện của
sắt mà lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử dần được khai phá. Diện tích đất

8
đai canh tác được mở rộng, dân số tăng lên, chế độ tỉnh điền không còn hợp
nữa. Cũng vì muốn mở mang cho mau, người ta bỏ phép tỉnh điền, cho dân tự

khai phá thêm những đất mới, để thu thuế bằng lúa được nhiều. Sự khẩn hoang
từ biến pháp của Thương Ưởng phát triển mạnh và có hàng vạn người trở thành
phú nông. Họ muốn khuếch trương công việc thủy lợi do vậy cần thống nhất đất
đai, nhất là thống nhất các nước nhỏ cùng nằm trên một dòng sông.
Thương mại thịnh đạt, nhiều người trong tầng lớp phú thương trở nên nổi
tiếng như: Phạm Lãi, Đoan Mộc Tứ; họ chẳng những muốn buôn bán hàng
hóa mà còn muốn buôn cả vua (như Lã Bất Vi). Tầng lớp phú thương tham
gia chính trị, mua quan bán tước, muốn phá bỏ những biên giới giữa các nước
chư hầu, mong thống nhất Trung Quốc để hàng hòa dễ lưu thông mà không
phải trả nhiều thuế. Nông vẫn là gốc nhưng công thương không bị coi là mạt
nữa, không còn chủ trương ức thương nữa. Lúc này Trung Quốc đã chuyển từ
văn minh phù sa sang văn minh thương mại như lời tác giả Nguyễn Hiến Lê
trong tác phẩm Sử Trung Quốc cho biết.
Kinh tế biến chuyển mạnh mẽ dẫn đến cục diện xã hội phức tạp thời
Xuân Thu Chiến Quốc; đồng thời tạo tiền đề cho tư tưởng, văn hóa tự do nảy
nở, phát triển.
Triều đại nhà Chu bắt đầu vào năm 1027 TCN, đó là thời Tây Chu, cho
đến khi dời đô qua phía đông vào năm 770 TCN và sụp đổ hoàn toàn vào năm
256 TCN. Chu Văn Vương là một chư hầu của vua nhà Thương và nổi loạn
chống lại Trụ Vương. Chu Vũ Vương là người cuối cùng hoàn thành tâm
nguyện lật đổ nhà Thương của Văn Vương và lên ngôi như vị vua chính thức
mở đầu chiều đại nhà Chu; tuy nhiên, Vũ Vương ở ngôi không lâu (7 năm) thì
mất, con Thành Vương còn nhỏ nối ngôi; em Vũ Vương là Chu Công Đán,
phụ tá giúp Thành Vương trị quốc. Công lớn nhất của Chu Công Đán là hoàn
thiện chế độ phong kiến, chế độ tôn pháp; làm cho văn minh nhà Chu rực rỡ
lên, thành một nền văn vinh đặc biệt Trung Hoa.

9
Đánh giá về chế độ phong kiến Nguyễn Hiến Lê cho rằng: “Chế độ đó có
nhiều điểm tốt:

- Nó giúp nhà Chu cai trị được một khu đất rộng mênh mông gấp 10 đất
của Chu mà không dùng đến quân đội, không tốn sức;
- Nó lập được một tổ chức có trật tự, trên dưới đều có quyền lợi và bổn
phận, mà bổn phận của trên (Thiên tử) nặng hơn của dưới, còn quyền lợi của
trên thì ít: chư hầu lâu lâu mới phải cống cho Thiên tử một cách tượng trưng,
mà thiên tử cho lại họ nhiều, phải giúp đỡ những khi có chiến tranh, đói kém;
- Nó cho mỗi nước độc lập trong một liên hiệp, do đó vừa tạo ra được
tinh thần quốc gia, vừa tạo được tinh thần tứ hải giai huynh đệ;
- Tinh thần quốc gia nhờ nó mà không hẹp hòi vì “đất nào cũng là đất
của nhà Chu, người nào cũng là dân nhà Chu”. Cho nên ta thấy khi dân một
nước không chịu được chế độ hà khắc của nhà cầm quyền thì bỏ qua nước
khác; một kẻ sĩ không được trọng dụng ở nước này thì bỏ qua nước khác:
Khổng Tử, Mạnh Tử và tất cả các kẻ sĩ thời Xuân Thu và Chiến Quốc đều
như vậy;
- Nó giúp nhà Chu đem văn minh truyền bá khắp các chư hầu; danh từ
Trung Hoa (xứ văn minh ở trung tâm) có thể xuất hiện từ thời đó;
- Nó trọng ý dân và hòa bình, giải quyết được mâu thuẫn giữa các
nước nhỏ mà không phải dùng đến vũ lực. Nó tạo thành một hình thức
chiến tranh “lễ độ”, “quân tử” rất đặc biệt, khắp thế giới không thấy ở đâu
cả” [29, tr. 60, 61].
Nhà Chu bắt chước nhà Thương, chế độ lập đích tử từ đó được Chu
Công lần lần cải thiện, quy định, bổ túc và sử gọi là Tôn (hay Tông) pháp.
Đánh giá về chế độ Tôn pháp Nguyễn Hiến Lê viết: “Tổ chức gia đình đó rất
thích hợp với chế độ nông nghiệp để đất đai của gia đình khỏi bị phân tán vào
tay người ngoài, mà sự khai thác chung được dễ dàng, sự tiêu pha đỡ tốn kém.
Nó tạo nên tinh thần gia tộc: giúp đỡ nhau, giữ danh dự chung cho nhau.

10
Nhưng cũng gây ra nhiều cái tệ…: nó bó buộc cá nhân quá, gây nhiều sự bất
công, bất bình nếu gia trưởng không đàng hoàng, nó không khuyến khích tinh

thần tự lập, nhiều kẻ hóa ra ăn bám… Chế độ tôn pháp rất quan trọng về
chính trị: nó chấm dứt chế độ thị tộc mà thay bằng chế độ gia tộc. Ngôi vua
không còn do cả thị tộc lựa người tài năng nhất nữa, mà do cha truyền cho
con, không truyền hiền nữa mà truyền tử. Chế độ đó theo truyền thuyết, có từ
đời Hạ, nhưng đời Chu mới quy định rõ ràng. Khi còn là một bộ lạc vài vạn
người thì có thể truyền hiền được; khi đã phát triển thành một nước có cả triệu
người thì sự truyền tử (quân chủ) là một giai đoạn cần thiết, trước khi nhân
loại tiến bộ, có đủ điều kiện thành lập chế độ dân chủ, đại nghị.
Nhưng nó có nhiều cái hại. Anh em, chú cháu tranh giành nhau, chém
giết nhau, …; lại thêm cũng vì ham ngôi báu mà vợ vua xen vào việc nước,
lấn hết quyền của người chồng nhu nhược, hiếu sắc hoặc là của con, nhất là
khi nó còn nhỏ, nạn đó là nạn ngoại thích; nạn thứ ba là phải dùng toàn hoạn
quan ở trong cung, sợ mất huyết thống mà ngôi báu vào một kẻ không cùng
dòng máu với mình. Hai nạn ngoại thích và hoạn quan đã xảy ra từ đời Chu
(có thể từ đời Thương nữa) và càng về sau nó càng tệ… Triều đại bị hai cái tệ
ngoại thích và hoạn quan cùng một lúc, nhất định là phải sụp đổ trong sự nhục
nhã” [29, tr. 64 - 66].
Chế độ Phong kiến và Tông pháp đều là sản phẩm mang đậm nét hiện
thực thời Tây Chu và cũng chính chúng đã làm cho Tây Chu tồn tại cũng như
tiêu vong ở thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Tóm lại chế độ Phong kiến và chế độ Tông pháp có mục đích giữ vững
quyền lực trung ương, quyền lực nhà Chu đối với chư hầu; ngăn cản xu
hướng ly tâm của chính quyền. Các nước chư hầu xây dựng những cơ cấu địa
phương tương tự để có thể nắm vững chính quyền của mình, đồng thời hướng
về chính quyền thiên tử nhà Chu; đảm bảo chuyên chính của giai cấp trên đối
với thần bộc, thứ dân.

11
Thời Đông Chu chế độ Phong kiến bắt đầu suy yếu theo đó chế độ tông
pháp cũng dần mất uy quyền tối hậu của nó. Lúc này chiến tranh, loạn lạc nổ

ra khắp nơi; năm nào cũng có chiến tranh. Theo Xuân Thu (Lỗ sử) trong 242
năm có 483 lần hành quân. Kinh Thi ghi lại những lời than thở vì chiến tranh,
vì sự đàn áp bóc lột của tầng lớp cầm quyền đối với người dân thời đó.
Thời Xuân Thu xuất hiện cục diện Ngũ Bá (Bá đạo), xã hội loạn xạ,
không còn kỷ cương; trên mọi mặt người ta bắt đầu lừa dối, đàn áp nhau. Thế
kỷ VII – VI TCN là thời kỳ tranh giành ảnh hưởng của 5 chư hầu mạnh nhất
lúc đó, là:
Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Mục Công nước Tần, Tương
Công nước Tống và Trang Vương nước Sở.
Lúc này vai trò của Thiên Tử chỉ là tấm bình phong để các chư hầu lợi
dụng mà thôn tính các nước yếu, nhỏ hơn. Chế độ tông pháp suy yếu nhưng
vẫn giữ lại làm tượng trưng để tôn vương nhương di – tôn vua Chu chống sự
xâm lăng của ngoại tộc.
Tới thời Chiến Quốc các chư hầu không mượn danh Thiên Tử nữa. Số
chư hầu giảm nhiều, mỗi khi một nước nhỏ bị thôn tính là một số quý tộc bị
mất địa vị tụt xuống hàng sĩ hay dân thường. Trong xã hội thêm giai cấp phú
nông, phú thương quyền hành lấn giai cấp quý tộc. Đáng kể nhất là sự thăng
tiến của kẻ sĩ. Giai cấp sĩ là một phần giai cấp quý tộc bị mất địa vị, một phần
do Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử gây ra phong trào giáo dục bình dân, đào tạo
nên; họ mỗi ngày mỗi đông, tới Chiến Quốc gồm 3 hạng chính:
- Học sĩ như các nhà theo Nho, Mặc, Lão.
- Sách sĩ (biện sĩ) tức các nhà giỏi biện luận, du thuyết bọn cầm quyền,
thường thì theo phái danh gia như Tô Tần, Trương Nghi.
- Phương sĩ hoặc thuật sĩ gồm những thiên văn gia, y gia, nông gia và
những nhà chuyên bói toán, nghiên cứu về Âm – Dương, cách luyện đan…

12
Các vua chư hầu tìm cách thôn tính nhau, muốn tồn tại thì phải dùng
quân sư do đó ông vua nào cũng đua nhau chiêu hiền đãi sĩ. Kẻ sĩ nào ưu thời
mẫn thế cũng muốn tìm một giải pháp để cứu vớt dân, dẹp loạn, lập lại trật tự

cho xã hội. Thuyết nào cũng được giai cấp cầm quyền trọng. Cho nên thời kỳ
Chiến Quốc là hoàng kim thời đại của sự phát triển triết học, của tự do ngôn
luận, tư tưởng.
Thời kỳ Chiến Quốc nổi lên thế cục Thất hùng. Trong số 7 nước, yếu
nhất là Yên, mà mạnh nhất là Tề, Sở và Tần. Tần mỗi ngày một mạnh lên, rốt
cuộc các mâu thuẫn tập trung lại thành mâu thuẫn giữa Tần và 6 nước. Cuối
cùng năm 221 TCN, Tần diệt Tề thống nhất Trung Hoa; đồng thời chấm dứt
chế độ phong kiến mà bước vào chế độ chuyên chế. Đến đây, về mặt xã hội,
việc thực hiện sự thống nhất, mà trước đó nhu cầu kinh tế đặt ra, đã được
hoàn thành.
Đối lập với những thay đổi, biến chuyển về kinh tế, xã hội và chính trị;
văn hóa thời Chu rất phát đạt, đặc biệt ở thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Về Sử học: Tác giả Nguyễn Hiến Lê đánh giá: “Về sử học, dân tộc Trung
Hoa tiến sớm nhất, có thể có sử quan từ đời Thương và chắc chắn là đời Chu,
nước nào cũng có sử quan rồi… các sử quan của Trung Hoa có một truyền
thống rất đẹp: Chép đúng sự thực, dù là vua hay tể tướng đương thời có
những ngôn hành xấu sa thì cũng chép hết, không sợ chết…. xét chung các sử
quan Trung Hoa đa số có đức, chức tuy nhỏ mà được trọng và các vua chúa
không xen vào công việc của họ” [29, tr. 147, 148].
Về văn học: Văn học thì phong phú, đa dạng, đồ sộ. Thơ ca, văn vần có
Kinh Thi, Sở Từ; tản văn lịch sử và tản văn chư tử có Thượng Thư, Xuân Thu, Tả
Truyện, Chiến Quốc Sách, sách của Lão Tử, Mặc Tử, Trang Tử; giữa thời Chiến
Quốc tản văn thịnh vượng, có tản văn biện luận, đối thoại của Mạnh Tử, Trang
Tử; cuối Chiến Quốc tản văn chư tử tiến đến cao điểm như sách: Tuân Tử, Hàn
Phi Tử; trước khi thống nhất Trung Hoa có sách Lã Thị Xuân Thu.

13
Nhận thức về phương pháp phê bình văn học trọng thực chất hơn hình
thức, sùng bái quan niệm “Thiên Nhân Hợp Nhất”, “Vật ngã vô gián”, cần
trực tiếp biểu hiện cái tự ngã và quan điểm “Được cá quên nơm”.

Nghệ thuật thư pháp, triện khắc, hội họa được phản ánh trong giáp cốt văn
trên đỉnh đồng đời Tây Chu. Triện khắc ước chừng xuất hiện thời Xuân Thu
Chiến Quốc. Hội họa tự thành một hệ thống trong hệ thống hội họa thế giới.
Mỹ học nhấn mạnh giữa mỹ và thiện, tình và lý, ý cùng cảnh, hình với
thần, tri thức và trực giác, ý thức chủ thể thống nhất với vũ trụ tự nhiên; đặt
nặng về hiện thực nhân sinh và liên quan mật thiết với quan niệm lý luận xã
hội. Tư tưởng mỹ học thời Chu đặc biệt thể hiện đậm nét ở giai đoạn Xuân
Thu Chiến Quốc; và hai lực lượng mỹ học chủ yếu giao hòa nhau là Nho và
Đạo học. Các nhà tư tưởng vận dụng học thuyết Âm - Dương, Ngũ Hành soi
rọi vào nghệ thuật và quan điểm thẩm mỹ; đề xuất thuyết “Hòa” thành tư
tưởng mỹ học thời Tiên Tần.
Đặc biệt đó là tư tưởng mỹ học trong Dịch Truyện. Dịch Truyện giải
thích và bao quát toàn vũ trụ. Dịch Truyện là nơi cấu thông Nho và Đạo học.
Đối với Nho gia Dịch Truyện hấp thu thuyết nhân học; còn đối với Đạo gia,
đó là tư tưởng về biện chứng thô sơ và tư tưởng về khởi nguyên vũ trụ mà đề
ra chủ trương “Một Âm một Dương hợp lại là Đạo” làm cơ sở cho luận cứ
“Thiên Nhân Hợp Nhất”; lấy hiện tượng hòa là mỹ, là đẹp, đòi hỏi sự vật phát
triển theo quy luật bình hành thống nhất.
Tóm lại, tinh thần mỹ học, nghệ thuật thể hiện rõ những giá trị nhân bản,
giáo dục đạo đức con người và phản ánh nhu cầu hướng đến sự thống nhất,
lập lại hòa bình trong thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Về giáo dục: Đây là một đóng góp rất quan trọng trong việc nâng cao
nhận thức của toàn thể xã hội; mở rộng phạm vi giáo dục, đối tượng giáo dục
và phương pháp giáo dục. Khổng Tử là bậc đại sư đầu tiên sáng lập nhà học
tư, ông thu thập học sinh thuộc mọi giai tầng khác nhau, ở các địa phương,

14
dùng Lục Kinh mà truyền dạy. Đánh giá về tư học các tác giả Ngô Vĩnh
Chính, Vương Miện Quý cho rằng có 3 cống hiến lớn:
“+ Đối tượng giáo dục không hạn chế đẳng cấp, kế thừa truyền thống

“Hữu giáo vô loại” có tác dụng nâng cao tác dụng to lớn của nền văn hóa.
+ Quan học trải qua các triều đại đều chú trọng đến nền giáo dục đại học,
việc thiết lập cơ sở tiểu học rất ít. Giáo dục tiểu học phần lớn do tư học đảm
nhiệm.
+ Không cứ quan học hay tư học cũng đều là công cụ phục vụ chính
quyền phong kiến, đều là bồi dưỡng nhân tài cho vương triều, nhưng các nhà
học tư không phải lấy đó làm mục tiêu duy nhất mà còn chú ý đến phương
diện học thuật; nhiều nhà tư học trở thành mảnh đất quan trọng truyền bá học
thuật” [12, tr. 263].
Về khoa học - kỹ thuật: Do nhu cầu phát triển kinh tế mà các lĩnh vực
khoa học – kỹ thuật phát triển rất phong phú, như:
- Số học: Văn hiến đời Tiên Tần, như sách Thượng Thư ghi chép có
nhiều loại số “Ức triệu”, “Triệu dân”; trong Kinh Thi cũng xuất hiện các số
“Thiên ức”. Trung Quốc biết sử dụng vị thứ cửu số một cách hoàn bị ước
chừng trong thời Xuân Thu Chiến Quốc.
- Thiên văn: Đo đạc có từ thời Nghiêu, Thuấn. Trong sách Thượng Thư
từng viết “Vua Thuấn xét lại cái máy toàn cơ và máy ngọc hành để điều hòa
đường ngay”, theo sự lý giải của người đời Hán thì “Toàn cơ” và “Ngọc
hành” là hai thứ để xem thiên văn;
Lịch pháp cũng rất phát triển và có nguồn gốc từ xa xưa, theo “Dật văn”
trong Thế Bản ghi chép: Hoàng Đế đã sai Dung Thành làm ra lịch pháp.
- Nông học phát triển nhằm tổng kết tri thức sản xuất nông nghiệp cũng
dồi dào. Thời Xuân Thu Chiến Quốc “Nông Gia” trở thành một nhà hiển hách
trong Bách Gia Chư Tử.

15
- Về Đông y: Trong thời kỳ Chiến Quốc lý luận đông y đã hình thành về
cơ bản, thể hiện rõ trong sách Hoàng Đế Nội Kinh; về dược liệu được liệt kê
trong sách Sơn Hải Kinh hơn trăm loại.
- Về Địa lý: Sách viết về địa lý sông núi tiêu biểu có Sơn Hải Kinh.

- Các phát minh và phát hiện cũng dồi dào: Nổi bật đó là phát hiện ra sắt,
muộn nhất là giữa thời Xuân Thu (thế kỷ VI TCN) đã nắm được kỹ thuật
luyện sắt. Thời Chiến Quốc người Trung Quốc đã biết đến tác dụng của loại
đá từ trường thiên nhiên để tìm phương hướng. Trong sách Hàn Phi có ghi
“Tiên vương có đặt tư nam để xem sớm tối cho đúng”. ““Tư nam” ở đây ý gọi
tên nam châm theo kiểu xưa” [12, tr. 370].
- Về thư tịch có các loại vật liệu để ghi chữ viết như thẻ tre (sớm nhất xuất
hiện ở Tấn thời Chiến Quốc), giản độc (viết trên tre và mảnh gỗ) thế kỷ thứ VI
- III TCN; cũng trong thời kỳ này xuất hiện bạch thư - sách viết trên đồ dệt, ít
nhất là đến thời Xuân Thu đã xuất hiện và đến thế kỷ III SCN mới mất đi.
1.1.2. Tiền đề tôn giáo - tín ngưỡng và triết học
Tôn giáo tín ngưỡng để lại những dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng Trung
Quốc nói chung và người thời Chu nói riêng. Trong Kinh Thi, Kinh Thư, Tả
Truyện, Quốc Ngữ nói đến Thiên và Đế nhiều đến nỗi không kể ra hết được.
Cuối Thương, người ta không tin rằng trời có hình dáng như người nữa,
chỉ là một cái lý linh diệu; họ lại nghĩ rằng người được bẩm sinh cái thiên lý,
làm việc gì hợp với trời là phải, nghịch lẽ trời là trái; thiên đạo và nhân sự
quan hệ với nhau. Quan niệm “Thiên Nhân Tương Dữ” đó là nét đặc biệt của
tín ngưỡng Trung Quốc.
Người đời Thương cũng thờ tổ tiên ở Thái Miếu và vua là đại tư tế. Họ
cũng thường xuyên thực hiện các lễ nghi bói toán, tin tưởng tầng lớp vu hịch.
Nhà Chu thay nhà Thương và kế thừa văn hóa nhà Thương, cũng sùng
bái và kế thừa, phát triển quan niệm về Thượng Đế, song sáng tạo ra khái
niệm “Thiên mệnh”, “Kính đức bảo dân”.

16
Điểm mấu chốt trong lý luận về “Thiên mệnh” bao gồm hai mệnh đề
khẳng định quan trọng như Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh ghi lại như
sau:
“+ Thiên mệnh không thể kéo dài mãi mãi.

+ Chỉ có nhờ vào đức độ, chứ không phải căn cứ vào dòng dõi vương
triều, mới được trời ban cho Thiên mệnh làm vua thiên hạ, cai trị muôn dân”
[17, tr. 21]; “Theo Phó Tư Niên danh từ “mệnh” với cả hai nghĩa “mệnh lệnh”
và “mệnh trời” xuất hiện trong Kinh Thư tất cả 104 lần, đặc biệt trong bối
cảnh thảo luận việc chuyển mệnh trời từ nhà Hạ sang nhà Thương và từ nhà
Thương sang nhà Chu… có lẽ hệ tư tưởng Thiên mệnh mới là tư tưởng căn
bản trong thời Tây Chu và cũng chính nó là cơ sở cho Kinh Dịch cũng như
hầu hết các hệ tư tưởng chính trị tại Trung Quốc thời cổ… Hệ tư tưởng
“Thiên mệnh” này gắn liền với sự ra đời của hệ tư tưởng nhân bản trong thời
Tây Chu là một trong những sự kiện quan trọng nhất của lịch sử văn hóa
Trung Quốc …” [17, tr. 22 - 24].
Người đời Chu cũng sáng tạo ra khái niệm “Thiên”. Dương Ngọc Dũng
và Lê Anh Minh dẫn theo H. G. Creel trong tác phẩm The origins of
Statecraft in China, ghi nhận: “Đối với nhà Chu việc sáp nhập hai khái niệm
“Đế” và “Thiên” thể hiện ý định muồn tạo sự liên minh hơn là xóa bỏ hẳn kẻ
thù chính trị sau khi đã chinh phục họ. Nhà Chu tiếp tục dùng từ “Đế” trong
các nghi lễ cúng kiến dành cho các vua Thương. Trong các tác phẩm đầu đời
Chu “Thiên” được hiểu như một vị thần tối cao. Chẳng hạn H. G. Creel phát
hiện rằng danh từ “Thiên” được dùng 8 lần trong Kinh Dịch, 104 lần trong
Kinh Thi (nhưng “Đế” cũng được dùng 43 lần), 116 lần trong 12 chương về
lịch sử đời Chu ghi lại trong Kinh Thư (trong đó có 25 lần dùng chữ “Đế”) và
91 lần trong chung đỉnh văn (trong đó có 4 lần dùng chữ “Đế”)” [17, tr. 25].
Học giả Chang Chung - yuan nhận xét về khái niệm “Thiên”: “ Khái
niệm Thiên là tư tưởng tôn giáo then chốt đời Chu, triều đại kế tiếp nhà

17
Thương. Khái niệm này là một minh họa cho ý niệm về một Thượng Đế hữu
ngã đang dần dần chuyển biến thành một thực thể tối cao nhưng vô ngã. Hình
tượng sớm nhất của chữ Thiên xuất hiện trên giáp cốt (mai rùa hay xương
thú) có ý nghĩa đơn giản chỉ là bầu trời hay vĩ đại. Khi người sáng lập ra triều

đại Chu nối tiếp nhà Thương để cai trị nhân dân, ngoài việc tiến hành nghi lễ
thờ cúng tổ tiên, còn kế thừa luôn quan niệm Thiên của triều đại trước, như
một đại biểu cho một thực thể tối cao. Thực thể tối cao này có quyền lực chi
phối toàn thể các thị tộc trong nước, không giống như Đế, tổ tiên của dân
Thương, và tính chất vô ngã của Thiên thể hiện ở hai mặt: thứ nhất, quan
niệm Thiên không bị hạn chế trong bối cảnh bói toán hay cúng tế, giống như
quan niệm Đế trong đời nhà Thương. Vị thần tối cao này (Thiên) chỉ hiện ra
cho những người chịu trau giồi đạo đức và thành lập một trật tự xã hội thái
hòa. Điểm thứ hai: quan niệm Thiên mang theo ý tưởng rằng những gì thiên
phú (trời cho) chính là cái mà chúng ta gọi là nhân tính” [17, tr. 887].
Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh cũng đưa ra phán đoán về ý nghĩa
chữ “Thiên” như một tiểu vũ trụ và liên quan đến tư tưởng “Thiên Nhân Hợp
Nhất”: “Người dân Trung Quốc cổ đại quan niệm Thiên (ông trời) là một
tuyệt đối thể có tính cách như con người trên mặt đất, những chữ khắc trên
xương, trên đồ đồng ngày xưa cho thấy cổ nhân khắc một hình người đứng
thẳng để tượng trưng cho Trời và gọi là Thiên. Phải chăng người xưa quan
niệm Thiên chính là con người phóng to và nhân (người) là ông Trời thu nhỏ?
Phải chăng đây là vết tích chứng tỏ các quan niệm Thiên địa vạn vật đồng
nhất thể, Thiên nhân hợp nhất, thiên nhân tương dữ là những quan niệm hết
sức lâu đời trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc” [17, tr. 719].
Tổng kết ý nghĩa của chữ “Thiên” trong văn tự Trung Quốc hai tác giả
này cho biết “Trong văn tự Trung Quốc, chữ Thiên có 5 nghĩa:
+ Bầu trời, tương ứng với đất.

18
+ Ông trời, còn gọi là Hoàng Thiên Thượng Đế, tức là chủ tể (Thiên và
Đế) có tính cách như người.
+ Vận mệnh, tức là thiên tương đương với mệnh, ám chỉ tất cả các thứ
liên quan đến cuộc sống con người nhưng con người không thể kiểm soát
được. Đó là chữ thiên mà Mạnh tử nói trong câu “Nhược phù thành công tắc

thiên dã (Nếu thành công, đó là do số mệnh).
+ Sự vận hành tự nhiên, tức là cõi tự nhiên được nói trong sách Tuân tử,
thiên Thiên Luận.
+ Nguyên lý tối cao trong vũ trụ, tức là chữ thiên trong câu “Thiên mệnh
chi vị tính” (Cái mà thiên phú bẩm [cho con người] gọi là tính) ở đầu sách
Trung Dung” [33, tr. 317, 318].
Chính khái niêm trên phản ánh thái độ nhân bản trong tư tưởng, tín
ngưỡng đời Chu; nó cũng thống nhất với tư tưởng chính trị, triết học, đạo đức
ở thời này. “Đức trị” không phải một sáng tạo của cá nhân Khổng Tử mà thực
ra nó xuất hiện vào đời Chu, có lẽ do Chu Công sáng tạo để nhằm hợp lý hóa
việc thoán đoạt vương quyền và xóa bỏ triều đại Thương. Dương Ngọc Dũng
và Lê Anh Minh đã tường thuật lại ý kiến của David S. Nivison về ý nghĩa
chữ “Đức” trong giáp cốt văn như sau:
“+ Đức là một tính chất sở thuộc của minh quân. Thực ra bất kỳ ai cũng
có đặc tính này.
+ Đức được sinh ra, hay ban cho, như một phần thưởng cho các hành
động khoan dung, tự kiềm chế bản thân, và tự hy sinh, cũng như kết quả của
một thái độ khiêm cung.
+ Đức tạo ra thái độ nói trên cũng như thuộc về bản chất các thái độ nói
trên (khiêm cung, từ ái, khoan dung). Nhà vua không thể cai trị tốt nếu không
có Đức, theo nghĩa Đức không phải là một cái gì tốt tự trong bản thân nó mà
do các kết quả mà nó đem lại cho người sở hữu Đức” [17, tr. 898].

19
Bên cạnh đó người Trung Quốc cổ đại còn tin đồng cốt, cúng ma quỷ,
thường bói toán. Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh dẫn Vương Hữu Tam
giải thích về vu hịch như sau: “Vu hịch là những người cổ đại cầu đảo thần
minh giáng phúc, là người môi giới giữa con người và thần minh, cũng có thể
thay mặt quốc gia mà cầu thần minh phù hộ. Trong thời ban sơ của tôn giáo,
vu hịch chiếm địa vị quan trọng. Quan chế thời cổ có chức chúc, đó là chức

vụ quan phụ trách việc tế trời và cầu đảo thần minh, và vu chính là biệt danh
của chúc. Người nam gọi là hịch, người nữ gọi là vu” [17, tr. 740].
Bói cỏ thi là phương pháp có liên quan đến Kinh Dịch. Theo Dương
Ngọc Dũng và Lê Anh Minh: “Nguồn gốc của phương pháp này hoàn toàn
nằm trong bóng tối của lịch sử, nhưng chúng ta có thể phỏng đoán rằng hai
vạch âm và dương lúc đầu tượng trưng cho hai cách trả lời: vạch liền (dương)
tượng trưng cho câu trả lời đồng ý, đúng, chấp nhận, thành công, thuận lợi,
vạch đứt (âm) tượng trưng cho câu trả lời ngược lại” [17, tr. 909]. Do vậy,
trong Kinh Dịch những yếu tố bói toán xen lẫn những nội dung triết học, đạo
đức, chính trị là hiển nhiên.
Thế giới quan vu thuật này rất quan trọng, được thể hiện nổi bật trong Sở
Từ của Khuất Nguyên; Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh ghi nhận lại như
sau: “… Trong một xã hội như xã hội Trung Hoa thời cổ, niềm tin vào một
thế giới thần linh, chính là linh hồn của tổ tiên, chế ngự toàn bộ mọi sinh hoạt,
tinh thần cũng như vật chất. Mối dây liên hệ giữa trời và người được đảm bảo
nhờ sự liên lạc giữa linh hồn tổ tiên và con cháu còn sống qua trung gian giới
vu hịch. Julia Ching khẳng định đây chính là nguồn gốc cho khái niệm triết
học “Thiên Nhân Hợp Nhất” phát triển về sau. Và Kinh Dịch là nơi tập trung
quan điểm này một cách hoàn hảo nhất. Quan hệ giữa thiên văn và nhân văn
được xác lập một cách trọn vẹn, không hề thấy bóng dáng, dù là xa xôi, của
chủ nghĩa hoài nghi. Thiên văn ở đây được hiểu như những tín hiệu gởi đến từ
thế giới của thần linh để trả lời các yêu cầu của con người đang tồn tại. Có thể

20
hiểu như nhà phân tâm học Carl Jung rằng thế giới thần linh đó thực ra chính
là thế giới vô thức sâu thẳm của cá nhân, nhưng vấn đề đó không quan trọng.
Người Trung Quốc đã thực sự tin vào sự tồn tại của quỷ thần trong một thế
giới khách quan và đã ứng xử, hành động căn cứ theo niềm tin tưởng mạnh
mẽ này, một niềm tin đặt nền móng cho tất cả tư tưởng triết học của Trung
Quốc về sau, và có thể cả tư tưởng khu vực Đông Á” [17, tr. 915, 916].

Đánh giá về Tôn giáo - tín ngưỡng đời Chu, Nguyễn Hiến Lê ghi nhận:
“Cho nên nhiều người bảo Trung Hoa thời đó không có tôn giáo; và Henri
Maspéro trong cuốn La Chine antique (PUF - 1965) tuy nhận nó là một tôn
giáo, nhưng cũng không đặt cho nó tên gì cả, chỉ bảo nó là một tôn giáo có
tính chất xã hội (religion sociale) - chữ xã hội này hiểu theo nghĩa trái với cá
nhân - mục đích của nó là mưu hạnh phúc cho quốc gia, xã hội, toàn thể nhân
dân: quốc gia được thanh bình, xã hội có trật tự người dân nhờ mưa thuận gió
hòa mà được no ấm. Đó cũng là một đặc điểm nữa của dân tộc, văn minh
Trung Hoa” [29, tr. 67]; “Vả lại nó khác xa với tôn giáo Ki Tô, Do Thái, Phật,
Hồi: không có giáo chủ (vua Trung Hoa chỉ thay mặt toàn dân mà tế trời thôi,
không thuyết pháp cho dân); không có tổ chức giáo phẩm, chỉ có cơ quan
giúp vua coi về thiên sự: làm lịch, xem tượng trời, định thời tiết cho việc canh
nông, xem sao trên trời và quan thái bốc coi việc bói (bốc, phệ) để đoán việc
cát hung; không có kinh kệ, không có giáo đường gì cả. Nhất là nó không
quan tâm chút gì tới sự cứu rỗi, tế độ cá nhân, không nói đến lai sinh, không
biết đến thiên đường, địa ngục, niết bàn…” [29, tr. 67].
Ở thời Chu nhất là thời Xuân thu Chiến quốc phong trào trứ tác phát triển
rầm rộ. Nội dung các trứ thuật rất dồi dào, phong phú. Trong các triết thuyết
thời Xuân Thu Chiến Quốc, ta phải kể đến Nho gia, Đạo giao, Âm Dương
gia… là những hệ thống tư tưởng thịnh hành và ảnh hưởng rất lớn so với các
hệ thống khác đương thời.

×