Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tư tưởng đạo đức trong chu dịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.21 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

HOÀNG MẠNH TRINH

TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CHU DỊCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2014
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

HOÀNG MẠNH TRINH

TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CHU DỊCH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.03.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Tài Đông

Hà Nội - 2014
2



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn này được thực hiện trên cở sở nghiên cứu tìm tòi
độc lập của bản thân.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Mạnh Trinh

3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ
chân thành của các thầy cô giảng viên Khoa Triết học, các học viên lớp Triết
học K20 (Khóa học 2012 - 2014), đơn vị công tác và người hướng dẫn khoa
học.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy cô giảng viên
Khoa Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
luận văn;
Đến các học viên lớp Triết học K20 (Khóa học 2012 – 2014) đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm tài liệu nghiên cứu;
Đến đơn vị cơ quan công tác - Trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Hà
Giang, đã tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và kế hoạch công tác để tôi
hoàn thành đề tài luận văn;
Đặc biệt đó là sự biết ơn đối với PGS.TS Nguyễn Tài Đông - người
hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều tâm huyết giúp đỡ tôi định hướng và hoàn
thành đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Mạnh Trinh


4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG
ĐẠO ĐỨC TRONG CHU DỊCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ CHU DỊCH........ 7
1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời tƣ tƣởng đạo đức trong Chu Dịch ....... 7
1.2. Khái quát về Chu Dịch............................... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chƣơng 1 .............................................. Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN TRONG
CHU DỊCH ........................................... Error! Bookmark not defined.
2.1. Tƣ tƣởng “Thiên Nhân Hợp Nhất” .......... Error! Bookmark not defined.
2.2. Tƣ tƣởng về “Trung” ................................. Error! Bookmark not defined.
2.3. Mối quan hệ giữa Nghĩa và Lợi ................ Error! Bookmark not defined.
2.4. Quan niệm “Nội Ngoại Kiêm Tu” ............ Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chƣơng 2 .............................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................................................Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................11

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn minh Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong văn minh phương
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Trước thời kỳ cận đại, ngoài Ấn Độ
thì Việt Nam có giao lưu văn hóa và tiếp thu nhiều yếu tố của văn minh Đông
Á và Đông Nam Á. Nhiều giá trị của nền văn minh Đông Á; đặc biệt văn

minh Trung Quốc đã để lại những dấu ấn nhất định trong suy tư, hành xử của
người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ rất mật thiết về mặt lịch sử cũng
như về văn hóa. Trong lịch sử, Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh,
song không có cuộc chiến tranh nào dai dẳng bằng chiến tranh với Trung
Quốc - khoảng nghìn năm Bắc thuộc. Trong nghìn năm Bắc thuộc đó, văn hóa
Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu đậm lên các thế hệ người Việt Nam thời phong
kiến. Tuy vậy, với nền văn hóa dân gian của mình, dân tộc Việt Nam đã tinh
lọc những giá trị văn hóa Trung Quốc mà phát huy làm giàu cho văn hóa
truyền thống. Một trong những giá trị văn hóa nổi bật, đó là các giá trị đạo
đức và ứng xử trong các Kinh điển của Nho gia, điển hình là Ngũ Kinh và Tứ
Thư của Trung Quốc; nhất là tinh hoa ứng xử đạo đức trong Chu Dịch.
Trong xu thế giao lưu toàn cầu hóa hiện nay, việc mở cửa ra thế giới,
giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa trở nên cấp thiết. Khoa học kỹ thuật và
công nghệ đã tạo điều kiện cho phát triển giao lưu; đặc biệt đã hỗ trợ việc
khám phá, phát triển những giá trị truyền thống. Những thành tựu trong việc
nghiên cứu Chu Dịch của các học giả toàn thế giới cũng cùng dòng chảy đó.
Do vậy, việc nghiên cứu Chu Dịch ở Việt Nam lúc này có nhiều thuận lợi.
Mặt khác, Việt Nam thời phong kiến, cha ông ta đã đặt Ngũ Kinh và Tứ
Thư vào hàng sách giáo khoa để học tập và tuyển chọn nhân tài; tuy vậy, việc
nghiên cứu Ngũ Kinh, nhất là nghiên cứu Chu Dịch chỉ dừng lại ở mức độ

1


bình giảng hoặc vận dụng giải quyết những thực tiễn trực tiếp mà chưa có đủ
phương tiện phục vụ việc nghiên cứu về học thuật; chỉ nhấn mạnh đến xử thế
mà chưa có điều kiện khảo cứu, chú giải, luận chứng cho các nội dung đạo
đức trong Chu Dịch.
Nghiên cứu Ngũ Kinh và Tứ Thư là nền tảng cho nghiên cứu hệ thống tư

tưởng Trung Quốc. Nhất là, nghiên cứu Chu Dịch tạo tiền đề cho nghiên cứu
các tư tưởng chính trị, triết học, lịch sử, văn hóa, đạo đức của Trung Quốc.
Ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu Chu Dịch còn là sự khẳng định giá trị
đúng đắn của nó và ngăn ngừa những xu hướng lợi dụng Chu Dịch phục vụ
mê tín dị đoan.
Vì những lý do trên mà tác giả luân văn lựa chọn vấn đề tư tưởng đạo
đức trong Chu Dịch làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu Chu Dịch ở Phương Đông (Trung Quốc, Đài Loan và Hồng
Kông) và Phương Tây phát triển rất mạnh.
Nghiên cứu Chu Dịch tại Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông đương
đại đã qua hai chu kỳ, tập trung vào một số mũi nhọn như: 1. Vấn đề chú
thích Chu Dịch; 2. Vấn đề nghiên cứu Dịch học sử; 3. Vấn đề nghiên cứu Chu
Dịch liên hợp với các môn khoa học hiện đại; 4. Nghiên cứu mô thức tư duy
của Chu Dịch; 5. Nghiên cứu vấn đề Kinh, Truyện; 6. Vấn đề tính chất của
Chu Dịch.
Nhiều trường Đại học, Viện Nghiên cứu của Trung Quốc có các phân
khoa, trung tâm nghiên cứu Dịch học; nhiều tập san chuyên về Chu Dịch ra
đời từ khá sớm và tiếp tục tồn tại, như Chu Dịch nghiên cứu của Đông Sơn
Đại học, Dũ Lý Dịch học,
Ở Phương Tây có một số nhà nghiên cứu nổi bật, như: Gottfried
Winhelm Leibniz (người Đức) phát hiện ra Nhị tiến chế nguyên lý trong Kinh
Dịch (tức Nguyên lý của hệ thống nhị phân), James Legge (người Anh) với
2


tác phẩm phiên dịch Kinh Dịch nổi tiếng: The Yih-king (Dịch Kinh), Richard
Winhelm (người Đức) cũng với tác phẩm phiên dịch nổi tiếng về Kinh Dịch
(dịch ra tiếng Đức): I Ging, Das Buch der Wandlungen, aus dem
Chinesischen verdeutscht und erlauter von Richard Wilhelm (Dịch Kinh,

quyển sách về những biến dịch, R. Wilhelm dịch từ Hán văn và chú giải).
Ở Việt Nam, nghiên cứu, học tập Chu Dịch có từ khá sớm, nhưng không
thành trường phái và không xuất hiện các chuyên gia. Việc nghiên cứu Chu
Dịch giới hạn trong một số nội dung, như:
Nghiên cứu khái quát các nội dung trong Chu Dịch: Nổi bật đó là các tác
giả: Nguyễn Hiến Lê với tác phẩm Kinh Dịch đạo của người quân tử, Đại
cương triết học Trung Quốc; Lê Văn Quán với các tác phẩm Chu Dịch vũ trụ
quan, Khảo luận tư tưởng Chu Dịch. Hai tác giả trên đã nghiên cứu Chu Dịch
ở nhiều khía cạnh, song cũng chỉ ở mức độ đại cương. Đặc biệt vấn đề đạo
đức trong Chu Dịch được đặt ra song chỉ là liệt kê một số phẩm chất đạo đức
mà chưa có lý giải hệ thống về cơ sở và nội dung của chúng. Tác giả Lê Văn
Quán đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội cho sự tồn tại các tư tưởng đạo đức trong
Chu Dịch nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ gợi ý nghiên cứu.
Chú giải và bình luận Chu Dịch: Nổi bật nhất đó là các tác giả, như: Sào
Nam Phan Bội Châu với tác phẩm Chu Dịch, Thu Giang Nguyễn Duy Cần
với tác phẩm Dịch Kinh tường giải. Tác giả Phan Bội Châu và Nguyễn Duy
Cần thường bám sát nội dung Dịch Kinh khi chú giải và bình luận Chu Dịch
mà dịch, chú giải khiêm tốn về Dịch Truyện. Tác giả Phan Bội Châu hầu như
chỉ chú ý đến Hệ Từ truyện song cũng chỉ dịch và chú giải một phần của Hệ
Từ truyện. Tác giả Nguyễn Duy Cần không dịch phần Dịch Truyện trong tác
phẩm nói trên cũng như trong nhiều tác phẩm khác. Tác giả này cũng chỉ xen
kẽ vào Dịch Kinh khi luận giải các quẻ.
Nghiên cứu về Hà Đồ, Lạc Thư, Bạch thư Chu Dịch, Cấu hình tư duy
Trung Quốc gồm một số tác giả như: Thu Giang Nguyễn Duy Cần với tác
3


phẩm Dịch học tinh hoa, Nguyễn Hữu Lương với tác phẩm Kinh Dịch với vũ
trụ quan đông phương, Nguyễn Duy Hinh với tác phẩm Dịch học văn hóa dự
báo cổ truyền, Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh với tác phẩm Kinh Dịch

cấu hình tư tưởng Trung Quốc. Ở lĩnh vực này, các tác giả chỉ đề cập đến các
khía cạnh riêng biệt liên quan đến tác giả Hà Đồ, Lạc Thư; văn bản Bạch thư
Chu Dịch, vũ trụ quan phản ánh trong Chu Dịch, tính chất dự báo của Chu
Dịch, cấu hình tư tưởng Trung Quốc nói chung mà chưa quan tâm đúng mức,
cũng như lý giải hệ thống về các vần đề trong Dịch Truyện, đặc biệt vấn đề
đạo đức phản ánh trong Dịch Truyện gần như ít bàn tới.
Các tác phẩm phiên dịch Chu Dịch: Đây là loại phổ biến ở Việt Nam; có
thể kể đến như: Chu Dịch dịch chú của Hoàng Thọ Kỳ và Trương Thiện Văn
(Vương Mộng Bưu và Hoàng Trung Thuần dịch), Kinh Chu Dịch bản nghĩa
(Nguyễn Duy Tinh dịch), Kinh Dịch trọn bộ (Ngô Tất Tố dịch), Chu Dịch và
Đông y học của Dương Lực (Lê Quý Ngưu và Lương Tú Vân dịch), Dịch học
toàn tập của Chu Bá Côn (Nguyễn Viết Dần dịch và Nguyễn Bích Hằng hiệu
đính), Bí ẩn của Bát Quái của Vương Ngọc Đức, Diệu Vĩ Quân, Trịnh Vĩnh
Tường (Trần Đình Hiếu dịch). Nhìn chung, đối với các tác phẩm phiên dịch,
các tác giả chỉ dịch phần Dịch Kinh mà ít chú trọng phần Dịch Truyện. Trong
số tác phẩm dịch kể trên, bản dịch Chu Dịch dịch chú của Hoàng Thọ Kỳ và
Trương Thiện Văn được xem là cập nhật nhất nhưng dịch phẩm này cũng chỉ
có phiên âm Hán Việt mà không có nguyên tác Hán văn phần Dịch Truyện.
Luận văn sau đại học nghiên cứu về Chu Dịch còn khiêm tốn, có một số
tác giả như: Vũ Phú Dưỡng với đề tài Triết học Kinh Dịch trong tư tưởng
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Văn Nguyên với tác phẩm Tìm hiểu một số tư tưởng
triết học trong Kinh Dịch. Trong hai luận văn trên, các tác giả cũng chỉ nhắc
đến vấn đề đạo đức với tư cách những phẩm chất đạo đức riêng lẻ mà chưa lý
giải cơ sở, nguồn gốc cho sự tồn tại của chúng.

4


Đặc biệt những sách báo mạo danh Chu Dịch có tính chất mê tín dị đoan
tràn ngập thị trường Việt Nam. Những loại tài liệu này đặc biệt nhấn mạnh

tính chất chiêm bốc trong Chu Dịch; thậm chí làm sai lệch những nội dung về
đạo đức, chính trị, văn hóa được đề cập trong Chu Dịch.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Khái quát, hệ thống hóa về tư tưởng đạo đức trong Chu Dịch.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích, khái quát về bối cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời các tư tưởng
đạo đức cơ bản trong Chu Dịch .
+ Phân tích và tổng hợp nội dung các tư tưởng đạo đức cơ bản trong
Chu Dịch.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng hợp, Lôgic và lịch sử, so
sánh văn bản.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng: Lĩnh vực đạo đức trong Chu Dịch.
- Phạm vi: Lĩnh vực đạo đức trong Chu Dich, đặc biệt là trong Dịch Truyện.
- Văn bản: Tác giả luận văn chủ yếu sử dụng bản dịch Kinh Dịch đạo của
người quân tử của Nguyễn Hiến Lê; vì bản dịch này được phiên dịch “…nhẹ,
thoáng mà chính xác, phong phú sáng sủa, thuần khiết; phần biên khảo, chú
thích rõ ràng, khoa học” - như trong phần “Lời nhà xuất bản” của nhà xuất
bản Văn học ghi nhận. Bản thứ hai, đó là Chu Dịch của Sào Nam Phan Bội
Châu. Tác giả Sào Nam Phan Bội Châu đã bình luận và phân tích sâu sắc, tinh
tế về Dịch Kinh và Dịch Truyện. Bản thứ ba, đó là Chu Dịch đại truyện – tức
phần Dịch Truyện - của Lê Anh Minh. Tác giả Lê Anh Minh đã đưa vào tác
phẩm này nhiều tư liệu tham khảo hiện đại khi chú giải cũng như bổ sung đầy
đủ nguyên văn chữ Hán vào bản dịch (bản của Phan Bội Châu và Nguyễn
5


Hiến Lê đều không có nguyên văn chữ Hán trong phần Dịch Truyện). Bản thứ

tư, đó là Kinh Dịch cấu hình tư tưởng Trung Quốc của Dương Ngọc Dũng và
Lê Anh Minh. Hai tác giả đã dịch và chú thích chi tiết về Dịch Kinh (bản dịch
này không có phần Dịch Truyện) dựa trên nhiều tư liệu hiện đại.
6. Đóng góp của Luận văn: Nghiên cứu hệ thống một số tư tưởng đạo
đức cơ bản trong Chu Dịch, nhất là trong Dịch Truyện.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Khái quát, hệ thống hóa một số tư tưởng đạo đức cơ
bản trong Chu Dịch.
- Ý nghĩa thực tiễn: Tăng cường nhận thức về Chu Dịch; ngăn chặn xu
hướng lợi dụng Chu Dịch vào mục đích mê tín dị đoan; thúc đẩy nghiên cứu
vấn đề đạo đức trong Chu Dịch và cung cấp cơ sở cho việc tìm hiểu những
nội dung tư tưởng khác trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc.
8. Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết Luận, Luận văn
được bố cục thành 2 chương, chia làm 6 tiết.

6


CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG CHU DỊCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ CHU DỊCH
1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời tƣ tƣởng đạo đức trong Chu Dịch
1.1.1. Tiền đề kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa
Trung Quốc thời cổ đại, cũng như nhiều dân tộc, quốc gia khác, sản xuất
chậm tiến. Dân đời Thương (1766 - 1112 TCN) còn dùng những công cụ rất
thô sơ, chưa biết dùng lưỡi cày để canh tác. Đời Chu (1111 - 256 TCN), kinh
tế đã phát triển hơn. Thời Chu thi hành chế độ tỉnh điền, vua chia nhiều đất
cho nông dân để sản xuất. Đất ruộng là công điền, của triều đình và quý tộc.
Triều đình và quý tộc chia đều cho dân làm, đủ cung cấp cho bề trên dư sống,
nên nhà Chu không cần dùng nô lệ như La Mã thời cổ. Tiểu công nghệ có tính

chất gia đình, cha truyền con nối do vậy nô lệ không cần thiết trong công
nghiệp.
Sự trao đổi sản vật giữa các nước dần thịnh lên; về sau đúc được tiền
đồng (đời Thương hoặc trước nữa người ta dùng vỏ sò làm tiền).
Đánh giá về mặt tích cực của chế độ tỉnh điền, Nguyễn Hiến Lê viết “Dù
sao chế độ đó cũng có cái lợi cho dân là được một đời sống bảo đảm. Khi tới
60 tuổi, không làm việc được nữa thì trả lại đất cho vua chúa và được nhà
nước nuôi nấng. Những con côi, kẻ tàn tật cũng được trợ cấp. Nếu được như
vậy thì họ sướng hơn bọn nông nô của châu Âu thời cổ” [29, tr. 73]. Tuy
nhiên cùng với sự tan dã của chính quyền nhà Tây Chu thì việc duy trì chế độ
này là vật cản đối với sản xuất kinh tế.
Bước sang thời kỳ Đông Chu (Xuân Thu Chiến Quốc) (722 - 221 TCN)
kinh tế có nhiều thay đổi. Nông nghiệp phát triển mạnh do có sự xuất hiện của
sắt mà lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử dần được khai phá. Diện tích đất

7


đai canh tác được mở rộng, dân số tăng lên, chế độ tỉnh điền không còn hợp
nữa. Cũng vì muốn mở mang cho mau, người ta bỏ phép tỉnh điền, cho dân tự
khai phá thêm những đất mới, để thu thuế bằng lúa được nhiều. Sự khẩn hoang
từ biến pháp của Thương Ưởng phát triển mạnh và có hàng vạn người trở thành
phú nông. Họ muốn khuếch trương công việc thủy lợi do vậy cần thống nhất đất
đai, nhất là thống nhất các nước nhỏ cùng nằm trên một dòng sông.
Thương mại thịnh đạt, nhiều người trong tầng lớp phú thương trở nên nổi
tiếng như: Phạm Lãi, Đoan Mộc Tứ; họ chẳng những muốn buôn bán hàng
hóa mà còn muốn buôn cả vua (như Lã Bất Vi). Tầng lớp phú thương tham
gia chính trị, mua quan bán tước, muốn phá bỏ những biên giới giữa các nước
chư hầu, mong thống nhất Trung Quốc để hàng hòa dễ lưu thông mà không
phải trả nhiều thuế. Nông vẫn là gốc nhưng công thương không bị coi là mạt

nữa, không còn chủ trương ức thương nữa. Lúc này Trung Quốc đã chuyển từ
văn minh phù sa sang văn minh thương mại như lời tác giả Nguyễn Hiến Lê
trong tác phẩm Sử Trung Quốc cho biết.
Kinh tế biến chuyển mạnh mẽ dẫn đến cục diện xã hội phức tạp thời
Xuân Thu Chiến Quốc; đồng thời tạo tiền đề cho tư tưởng, văn hóa tự do nảy
nở, phát triển.
Triều đại nhà Chu bắt đầu vào năm 1027 TCN, đó là thời Tây Chu, cho
đến khi dời đô qua phía đông vào năm 770 TCN và sụp đổ hoàn toàn vào năm
256 TCN. Chu Văn Vương là một chư hầu của vua nhà Thương và nổi loạn
chống lại Trụ Vương. Chu Vũ Vương là người cuối cùng hoàn thành tâm
nguyện lật đổ nhà Thương của Văn Vương và lên ngôi như vị vua chính thức
mở đầu chiều đại nhà Chu; tuy nhiên, Vũ Vương ở ngôi không lâu (7 năm) thì
mất, con Thành Vương còn nhỏ nối ngôi; em Vũ Vương là Chu Công Đán,
phụ tá giúp Thành Vương trị quốc. Công lớn nhất của Chu Công Đán là hoàn
thiện chế độ phong kiến, chế độ tôn pháp; làm cho văn minh nhà Chu rực rỡ
lên, thành một nền văn vinh đặc biệt Trung Hoa.
8


Đánh giá về chế độ phong kiến Nguyễn Hiến Lê cho rằng: “Chế độ đó có
nhiều điểm tốt:
- Nó giúp nhà Chu cai trị được một khu đất rộng mênh mông gấp 10 đất
của Chu mà không dùng đến quân đội, không tốn sức;
- Nó lập được một tổ chức có trật tự, trên dưới đều có quyền lợi và bổn
phận, mà bổn phận của trên (Thiên tử) nặng hơn của dưới, còn quyền lợi của
trên thì ít: chư hầu lâu lâu mới phải cống cho Thiên tử một cách tượng trưng,
mà thiên tử cho lại họ nhiều, phải giúp đỡ những khi có chiến tranh, đói kém;
- Nó cho mỗi nước độc lập trong một liên hiệp, do đó vừa tạo ra được
tinh thần quốc gia, vừa tạo được tinh thần tứ hải giai huynh đệ;
- Tinh thần quốc gia nhờ nó mà không hẹp hòi vì “đất nào cũng là đất

của nhà Chu, người nào cũng là dân nhà Chu”. Cho nên ta thấy khi dân một
nước không chịu được chế độ hà khắc của nhà cầm quyền thì bỏ qua nước
khác; một kẻ sĩ không được trọng dụng ở nước này thì bỏ qua nước khác:
Khổng Tử, Mạnh Tử và tất cả các kẻ sĩ thời Xuân Thu và Chiến Quốc đều
như vậy;
- Nó giúp nhà Chu đem văn minh truyền bá khắp các chư hầu; danh từ
Trung Hoa (xứ văn minh ở trung tâm) có thể xuất hiện từ thời đó;
- Nó trọng ý dân và hòa bình, giải quyết được mâu thuẫn giữa các
nước nhỏ mà không phải dùng đến vũ lực. Nó tạo thành một hình thức
chiến tranh “lễ độ”, “quân tử” rất đặc biệt, khắp thế giới không thấy ở đâu
cả” [29, tr. 60, 61].
Nhà Chu bắt chước nhà Thương, chế độ lập đích tử từ đó được Chu
Công lần lần cải thiện, quy định, bổ túc và sử gọi là Tôn (hay Tông) pháp.
Đánh giá về chế độ Tôn pháp Nguyễn Hiến Lê viết: “Tổ chức gia đình đó rất
thích hợp với chế độ nông nghiệp để đất đai của gia đình khỏi bị phân tán vào
tay người ngoài, mà sự khai thác chung được dễ dàng, sự tiêu pha đỡ tốn kém.
Nó tạo nên tinh thần gia tộc: giúp đỡ nhau, giữ danh dự chung cho nhau.
9


Nhưng cũng gây ra nhiều cái tệ…: nó bó buộc cá nhân quá, gây nhiều sự bất
công, bất bình nếu gia trưởng không đàng hoàng, nó không khuyến khích tinh
thần tự lập, nhiều kẻ hóa ra ăn bám… Chế độ tôn pháp rất quan trọng về
chính trị: nó chấm dứt chế độ thị tộc mà thay bằng chế độ gia tộc. Ngôi vua
không còn do cả thị tộc lựa người tài năng nhất nữa, mà do cha truyền cho
con, không truyền hiền nữa mà truyền tử. Chế độ đó theo truyền thuyết, có từ
đời Hạ, nhưng đời Chu mới quy định rõ ràng. Khi còn là một bộ lạc vài vạn
người thì có thể truyền hiền được; khi đã phát triển thành một nước có cả triệu
người thì sự truyền tử (quân chủ) là một giai đoạn cần thiết, trước khi nhân
loại tiến bộ, có đủ điều kiện thành lập chế độ dân chủ, đại nghị.

Nhưng nó có nhiều cái hại. Anh em, chú cháu tranh giành nhau, chém
giết nhau, …; lại thêm cũng vì ham ngôi báu mà vợ vua xen vào việc nước,
lấn hết quyền của người chồng nhu nhược, hiếu sắc hoặc là của con, nhất là
khi nó còn nhỏ, nạn đó là nạn ngoại thích; nạn thứ ba là phải dùng toàn hoạn
quan ở trong cung, sợ mất huyết thống mà ngôi báu vào một kẻ không cùng
dòng máu với mình. Hai nạn ngoại thích và hoạn quan đã xảy ra từ đời Chu
(có thể từ đời Thương nữa) và càng về sau nó càng tệ… Triều đại bị hai cái tệ
ngoại thích và hoạn quan cùng một lúc, nhất định là phải sụp đổ trong sự nhục
nhã” [29, tr. 64 - 66].
Chế độ Phong kiến và Tông pháp đều là sản phẩm mang đậm nét hiện
thực thời Tây Chu và cũng chính chúng đã làm cho Tây Chu tồn tại cũng như
tiêu vong ở thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Tóm lại chế độ Phong kiến và chế độ Tông pháp có mục đích giữ vững
quyền lực trung ương, quyền lực nhà Chu đối với chư hầu; ngăn cản xu
hướng ly tâm của chính quyền. Các nước chư hầu xây dựng những cơ cấu địa
phương tương tự để có thể nắm vững chính quyền của mình, đồng thời hướng
về chính quyền thiên tử nhà Chu; đảm bảo chuyên chính của giai cấp trên đối
với thần bộc, thứ dân.
10


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Nguyễn Duy Cần (1992), Dịch học tinh hoa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh

2.

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (1992), Chu Dịch huyền giải, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh

3.

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (2013), Lão Tử Đạo Đức Kinh, Nxb Trẻ,
thành phố Hồ Chí Minh

4.

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (2013), Lão Tử tinh hoa, Nxb Trẻ, thành
phố Hồ Chí Minh

5.

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (2013), Tinh hoa đạo học đông phương,
Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh

6.

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (2014), Dịch Kinh tường giải, Nxb Trẻ,
thành phố Hồ Chí Minh

7.

Sào Nam Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội

8.

Sào Nam Phan Bội Châu (2010), Chu Dịch, Nxb Văn học, Hà Nội


9.

Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, tập
I, Nxb Thanh niên, Hà Nội

10. Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, tập
II, Nxb Thanh niên, Hà Nội
11. Doãn Chính (2009), Từ điển triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội
12. Ngô Vĩnh Chính, Vương Miện Quý (Chủ biên); Thành Hiểu Quân, Lâm
Quốc Bình (Phó chủ biên) (1994), Đại cương lịch sử văn hóa Trung
Quốc, Lương Duy Thứ (Chủ biên), Nguyễn Thiện Chí, Nguyễn Tấn Đắc,
Khổng Đức, Hồ Sĩ Hiệp, Trần Kiết Hùng dịch, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội

11


13. Chu Bá Côn (2003), Dịch học toàn tập, Nguyễn Viết Dần biên dịch,
Nguyễn Bích Hằng hiệu đính, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
14. Đoàn Trung Còn (2006), Tứ Thư (Trọn bộ 4 tập: Đại Học, Trung Dung,
Luận Ngữ và Mạnh Tử), Nxb Thuận Hóa, Huế
15. Nguyễn Uyển Diễm (1953), Một nhận xét về Kinh Dịch, Nxb Vỡ Đất,
Hà Nội
16. Vương Ngọc Đức, Diệu Vĩ Quân, Trịnh Vĩnh Tường (2005), Bí ẩn của
Bát Quái, Trần Đình Hiếu dịch, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
17. Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh (2011), Kinh Dịch cấu hình tư tưởng
Trung Quốc (Tái bản lần 1 có sửa chữa và bổ sung), Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội

18. Vũ Phú Dưỡng (2012), Triết học Kinh Dịch trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Luận văn thạc sỹ triết học bảo vệ tại Trung tâm bồi dưỡng giảng
viên chính trị trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội)
19. Will Durant (2006), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nguyễn Hiến Lê dịch,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
20. Nguyễn Duy Hinh (2008), Dịch học văn hóa dự báo cổ truyền, Nxb Văn
hóa thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội
21. Hoàng Thọ Kỳ và Trương Thiện Văn (2007), Chu Dịch dịch chú, Vương
Mộng Bưu và Hoàng Trung Thuần dịch, Nxb Hà Nội
22. Phùng Hữu Lan (2007), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập I, Lê Anh
Minh dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
23. Phùng Hữu Lan (2007), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập II, Lê Anh
Minh dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
24. Phùng Hữu Lan (2013), Tinh thần triết học Trung Quốc (Tân nguyên
đạo), Lê Anh Minh dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
25. Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận Ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội

12


26. Nguyễn Hiến Lê (2006), Lão Tử Đạo Đức Kinh, Nxb Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh
27. Nguyễn Hiến Lê (2007), Kinh Dịch đạo của người quân tử, Nxb Văn
học, Hà Nội
28. Nguyễn Hiến Lê (2008), Trang Tử Nam Hoa Kinh, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội
29. Nguyễn Hiến Lê (2013), Sử Trung Quốc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
30. Dương Lực (2011), Chu Dịch và Đông y học, Lê Quý Ngưu và Lương
Tú Vân dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế
31. Nguyễn Hữu Lương (1997), Kinh Dịch với vũ trụ quan đông phương,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
32. Đặng Thai Mai (1994), Xã hội sử Trung Quốc (Giáo trình đại học Hán
học 1965 - 1968), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
33. Lê Anh Minh (2011), Chu Dịch đại truyện, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
34. Trần Văn Hải Minh (1991), Bách gia chư tử, Nxb Hội nghiên cứu và
giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh
35. Bùi Văn Nguyên (2009), Tìm hiểu một số tư tưởng triết học trong Kinh
Dịch (Luận văn thạc sỹ triết học; bảo vệ tại Khoa Triết học Trường Đại
Học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội)
36. Nhữ Nguyên và Trần Kiết Hùng (1996), Lễ Ký kinh điển về việc Lễ, Nxb
Đồng Nai
37. Nguyễn Tôn Nhan (1999), Kinh Lễ, Nxb Văn học, Hà Nội
38. Lê Văn Quán (2003), Tinh hoa văn hóa phương đông. Chu dịch nhân
sinh và ứng xử, Nxb Hà Nội
39. Lê Văn Quán (2006), Khảo luận tư tưởng Chu Dịch, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội
40. Lê Văn Quán (2008), Chu Dịch vũ trụ quan, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội
13


41. Lê Văn Quán (2010), Chu Dịch với văn hóa truyền thống phương đông,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
42. Thẩm Quỳnh (1965), Kinh Thư, Nxb Bộ giáo dục xuất bản, Sài Gòn
43. Đông A Sáng (2009), Kinh Dịch - Trí huệ và quyền biến (Mưu của người
quân tử), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
44. Trí Húc Đại Sư (2012), Chu Dịch thiền giải, Huỳnh Ngọc Chiến dịch,
Nxb Hồng Đức, Hà Nội
45. Hồ Thích (2004), Trung Quốc triết học sử đại cương, Minh Đức dịch,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội

46. Nguyễn Đăng Thục (2006), Lịch sử triết học phương đông, Nxb Từ điển
bách khoa, Hà Nội
47. Ngô Tất Tố (2009), Kinh Dịch trọn bộ, Nxb Văn học, Hà Nội
48. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Hán
Nôm (2004), Ngữ văn hán nôm, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
49. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Hán
Nôm (2004), Ngữ văn hán nôm, tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
50. Khổng Tử san định, Kinh Chu Dịch bản nghĩa, Nguyễn Duy Tinh dịch
nghĩa, Nxb Trung tâm học liệu Bộ giáo dục, Sài Gòn
51. Hoàng Tuấn (2008), Kinh Dịch và nguyên lý toán nhị phân (Tái bản có
sửa chữa và bổ sung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

14



×