Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÝ THỊ PHƢƠNG



GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC SÁN DÌU Ở TỈNH VĨNH PHÚC
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Triết học






Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LÝ THỊ PHƢƠNG


GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC SÁN DÌU Ở TỈNH VĨNH PHÚC
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01




Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Thị Thanh



Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng đươc công bố trên
công trình khoa học nào khác.
Tôi xin cam đoan: Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn, các tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014

Tác giả luận văn

Lý Thị Phƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 6
6. Đóng góp của luận văn 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 7
8. Kết cấu 7
NỘI DUNG 8
Chƣơng 1: BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU - NỘI DUNG VÀ
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở TỈNH VĨNH PHÚC TRONG BỐI
CẢNH HIỆN NAY 8
1.1. Khái niệm về văn hóa, bản sắc văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc 8
1.1.1. Khái niệm văn hóa 8
1.1.2. Bản sắc văn hóa 18
1.1.3. Bản sắc văn hóa dân tộc 20
1.2. Nội dung bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnhVĩnh Phúc 24
1.2.1. Đặc điểm dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam 24
1.2.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc 43
1.3. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc Sán Dìu
ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay 51
Tiểu chƣơng 1 57

Chƣơng 2: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
SÁN DÌU Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY - NHỮNG NHÂN TỐ TÁC
ĐỘNG, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 58
2.1. Những nhân tố tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc hiện nay 58
2.1.1. Tác động của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội 58
2.1.2. Tác động của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đến việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu 69
2.1.1.1. Tác động của cơ chế kinh tế thị trường 69
2.1.2.2. Tác động của quá trình toàn cầu hóa 74
2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc
hiện nay - Thực trạng và nguyên nhân 80
2.2.1. Thực trạng 80
2.2.1.1. Thành tựu 80
2.2.1.2. Hạn chế 83
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế 85
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay 88
2.3.1. Phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Sán Dìu 88
2.3.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục văn hóa lịch sử, văn hóa truyền
thống, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc Sán Dìu ở
Vĩnh Phúc hiện nay 90
2.3.3. Đổi mới và tăng cường công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Sán Dìu 91
Tiểu kết chƣơng 2 93
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 101


DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: So sánh ngôn ngữ [23,tr.12] 31
Bảng 1.2: So sánh ngôn ngữ Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Quảng Ninh 47
Bảng 1.3: So sánh ngôn ngữ Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Thái Nguyên 48



1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng cư trú trên dải hình chữ S, mỗi
dân tộc đều có bản sắc riêng của mình được kết tinh cùng với lịch sử trong
quá trình hình thành và phát triển. Cùng với dòng chảy thời gian và những
biến động của lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc cũng vận động và biến đổi
theo những quy luật nhất định, với sự đan xen giữa những yếu tố cũ và yếu tố
mới tạo nên những nét độc đáo riêng, đồng thời góp phần xây dựng nền văn
hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
Ngày nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa vừa tạo ra những cơ hội lớn
cho sự phát triển mỗi dân tộc, đồng thời cũng xuất hiện không ít những thách
thức, khó khăn nguy cơ về sự đồng hóa văn hóa, sự đánh mất bản sắc văn hóa
và sự bất bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa. Do đó, việc khẳng định hệ giá
trị đang là một vấn đề có tính cấp thiết, vừa có tính thời sự, vừa có tính lâu
dài. Cần phải có chủ trương chính sách cụ thể trong việc giữa gìn và bảo
tồn các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Khẳng định tầm quan trọng
của vấn đề, tại Nghị quyết Trung ương V khóa VIII và Nghị quyết Trung
ương IX khóa XII, Đảng ta đã khẳng định xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.

Vĩnh Phúc cũng là nơi định cư của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong đó có người Sán Dìu, cư trú rải rác chủ yếu trung du miền núi của tỉnh.
Trong quá trình lịch sử, đồng bào người Sán Dìu chọn nơi có địa hình bán sơn
địa để định cư. Sống bên cạnh bên cạnh dân tộc Kinh, Dao và Cao Lan.
Nhưng người Sán Dìu đã sớm xây dựng cho mình bản sắc văn hóa, độc đáo
mang dấu ấn của tộc người nhằm khẳng định vị thế của mình.


2
Tuy nhiên, trước sự tác động của toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đã làm
mai một bản sắc văn hóa hóa dân tộc Việt Nam nói chung, bản sắc văn hóa
dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Điều này đã đạt ra vấn đề hết sức
cấp bách trong công tác giữ gìn bản sắc văn hóa hiện nay.
Với những lý do như trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh
hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Văn hóa đang là một vấn đề nổi trội được nhiều nhà khoa học quan tâm
và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Dân tộc học, văn hóa học,
triết học. Bàn về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc phải kể đến một số công
trình nghiên cứu sau:
Nhóm nghiên cứu về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc:
Trong cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc (Nxb.Văn hóa
thông tin, Hà Nội, 1998), tác giả đi vào phân tích và làm sáng tỏ khái niệm
văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và mối quan hệ giữa các không gian văn
hóa. Từ đó đi đến khẳng định:“văn hóa nào cũng cần phải có sự giao tiếp để
phát triển”. [37,tr.16]
Bàn về văn hóa, còn phải kể đến công trình nghiên cứu “Cơ sở văn
hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên), (Nxb. Giáo Dục, 2008).
Cuốn sách giới thiệu đến về các quan niệm về văn hóa và các đặc điểm của

văn hóa Việt Nam trong quá trình tiếp biến văn hóa nhân loại. Qua đó,
khẳng định sự giao lưu văn hóa, cần phải có chính sách giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
Bên cạnh đó, cuốn“Văn hóa bản sắc văn hóa dân tộc” của tác giả Hồ
Bá Thâm (Nxb. Văn hóa thông tin. Hà Nội, 2012). Tác giả đã làm rõ bản chất,
đặc trưng của văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và còn chỉ ra những thách


3
thức khó khăn trong điều kiện giữ gìn, phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay
trước sự tác động của kinh tế thị trường.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về “Văn hóa Việt Nam trên con đường giải
phóng, đổi mới hội nhập và phát triển” tác giả Đỗ Huy, (Nxb. Thông tin -
Truyền thông, 2013). Được tác giả trình bày hành trình của quá trình giải
phóng, đổi mới và dự báo về bước phát triển mới của văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập và đưa ra những giải pháp cụ thể.
Nghiên cứu về bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số có“Bản sắc văn
hóa dân tộc Mông và giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị của nó ở Việt
Nam hiện nay” của Hoàng Xuân Lương. Luận án tiến sĩ Triết học, (Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2002). Tác giả đã tập trung vào khai thác
những đặc điểm hình thành và những đặc trưng của bản sắc dân tộc Mông và
đưa ra cái nhìn mới về bản sắc dân tộc Mông trước những tác động của kinh
tế thị trường.
Ngoài những nghiên cứu về bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số phải
kể đến “Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Mường ở tỉnh Phúc Thọ hiện nay” của Đinh Thị Hoa. Luận văn thạc sĩ
Triết học (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006). Luận
văn đã phân tích rõ về khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc Mường
qua các giá trị vật chất và giá trị tinh thần dước góc độ triết học.
Mặc dù, khai thách ở nhiều góc độ khác nhau, song các tác giả đều làm

rõ khái niệm văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần. Bên cạnh
đó, khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta và đề ra các giải pháp.
Nhóm những công trình nghiên cứu về về dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam
và dân tộc Sán Dìu tỉnh Vĩnh Phúc.


4
Bàn về bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu, phải kể đến cuốn “Người Sán
Dìu ở Việt Nam” của Ma Khánh Bằng (Nxb. Khoa học xã hội, 1983). Cuốn
sách được tác giả giới thiệu khái quát về dân tộc Sán Dìu, các hoạt động kinh
tế, sinh hoạt vật chất và một số tục lệ trong đời sống hàng ngày.
Trong cuốn“Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc” của tác giả Lâm
Quý, (Ban Dân tộc – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc xuất bản
năm 2009).Trong cuốn sách này, tác giả đã thể hiện theo tinh thần khảo cứu
dân tộc học về lịch sử dân cư, tập quán sản xuất, sinh hoạt xã hội, ngôn ngữ,
chữ viết, kiến trúc – mỹ thuật – âm nhạc dân gian, phong tục, lễ hội nhằm
giúp người đọc có cách nhìn tổng quan về văn hóa các dân tộc ở Vĩnh Phúc
với bản sắc truyền thống riêng. Tác giả cũng đồng thời cảnh báo những nguy
cơ làm phai nhạt bản sắc các dân tộc thiểu số. Từ đó khuyến nghị một số vấn
đề về giữ gìn, bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của các
dân tộc Sán Dìu, Cao Lan và Dao ở Vĩnh Phúc.
Bên cạnh đó, cuốn “Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người của người
Sán Dìu ở Việt Nam” của Diệp Trung Bình, (Nxb Văn hóa dân tộc, 2011). Tác
giả làm rõ những đặc điểm văn hóa của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam.
Đưa ra những so sánh và những giá trị truyền thống và hiện đại, những biến đổi
lớn trong bản sắc văn hóa của người Sán Dìu ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn có những công trình nghiên cứu về “Dân tộc Sán Dìu ở
tỉnh Vĩnh Phúc” của Lâm Quang Hùng, (Nxb. Khoa học và Công nghệ, 2011).
Tác giả đi khai thác những giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở

tỉnh Vĩnh Phúc qua một số giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể dưới góc độ
dân tộc học. Tác giả hướng tới khẳng định tầm quan trọng của việc bảo tồn
các giá trị của dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc trong thời kỳ đổi mới.
Về cuốn “Văn hóa ẩm thực người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc” của Lâm
Quang Hùng (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2013), được đề cập đến bởi những


5
phong ăn uống của người Sán Dìu trong đời sống hàng ngày và những đặc sản
của đồng bào.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc
khai thác những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa, văn hóa của dân tộc
Sán Dìu ở Việt Nam, khai thác trên phương diện phong tục tập quán, văn
hóa của đồng bào dân tộc dân tộc Sán Dìu nói chung, đồng bào dân tộc Sán
Dìu ở Vĩnh Phúc nói riêng chưa thực sự đi sâu vào nghiên cứu về bản sắc
văn hóa của dân tộc Sán Dìu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học.
Do đó, từ những hướng nghiên cứu trên
chưa có công trình nghiên
cứu, hội thảo khoa học nào bàn về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, đề tài
không trùng lặp với các đề tài, công trình nghiên cứu đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Sán Dìu, tầm quan trọng và thực
trạng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc trong
bối cảnh hiện nay từ đó đề xuất một số giải pháp.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc và tầm
quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở

tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Phân tích những nhân tố tác động và thực trạng giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay.



6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của đề tài: Đề tài được thực hiện dựa trên những nguyên
lý, lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề văn hóa và chính sách dân tộc, đồng
thời đề tài có kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học xã
hội và nhân văn có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Đề tài sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, điều tra, so sánh.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Luận văn xác định rõ đối tượng nghiên cứu của đề tài: Giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện
nay dưới góc độ triết học.
5.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Văn hóa là một vấn đề rộng, đa dạng và phong phú, luận văn không đi
nghiên cứu toàn bộ về văn hóa dân tộc Sán Dìu mà đề tài đi sâu vào khai thác
có hệ thống dưới góc độ triết học về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
Dưới góc độ triết học luận văn góp phần làm rõ thêm bản sắc văn

hóa dân tộc Sán Dìu và phân tích thực trạng của những tác động của kinh tế
thị trường đến bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc. Qua đó
đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy giá trị tốt đẹp trong giai
đoạn hiện nay.



7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả của cuộc nghiên cứu của đề tài có thể sử làm tài liệu tham khảo
trong giảng dạy bộ môn có liên quan như: Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác –Lênin, văn hóa học, dân tộc học, chính sách dân tộc, ở các nhà
trường, đồng thời làm tài liệu cho cán bộ hoạch định chính sách quản lý văn
hóa dân tộc trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Kết cấu
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương, 6 tiết, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1: Bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu – Nội dung và tầm quan
trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh
Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay.
Chương 2: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay- những nhân tố tác động, thực trạng và giải pháp.











8
NỘI DUNG
Chƣơng 1:
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU – NỘI DUNG VÀ TẦM
QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở TỈNH VĨNH PHÚC
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

1.1. Khái niệm về văn hóa, bản sắc văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là gì? Câu hỏi được đặt ra từ lâu đối với tư duy của nhân loại,
điều này chứng tỏ văn hóa đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, văn hóa
được như là một cái gì thiêng liêng đối với mỗi con người, linh hồn của dân
tộc. Với tư cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội, văn hóa là một khái niệm có nội hàm rộng, vì thế nó đã tạo nên diện
mạo phong phú và đa dạng của đời sống tinh thần của con người, thời đại.
Văn hóa được chọn làm đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học,
trở thành thuật ngữ đa nghĩa, trên thế giới hiện nay có hàng trăm cách định
nghĩa khác nhau về văn hóa và nhiều cách tiếp cận khác nhau:
* Một số quan niệm về văn hóa ở phương Đông và phương Tây
- Ở phương Đông: Thế kỷ VI –Trước Công Nguyên, Khổng Tử đã
dùng thuật ngữ “Văn” để chỉ những giá trị đẹp của cuộc sống, trong sự giao
tiếp, ứng xử của con người với con người. Cái đẹp ấy không chỉ là cái đẹp ở
hình thức, mà nó bao hàm cả cái đúng và cái tốt. “Hoá” nghĩa là biến cải, biến
đổi. Và “Văn hoá” là biến cải, biến đổi, bồi đắp cho đẹp ra, hướng con người
đến cái đẹp và đạt tới chân - thiện - mỹ. Văn hóa sớm xuất hiện trong ngôn
ngữ ngay từ Trước Công Nguyên, thời kỳ Tây Hán, trong bài “Chi Vũ” sách
“Thuyết Uyển”, Lưu Hướng đã viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng



9
văn đức rồi sau mới dùng vũ lực” văn hóa được dùng để đối lập với vũ lực.
Văn hóa phải được hình thành trong môi trường lành mạnh, ở đó con người
có những cách ứng xử văn minh, văn hóa mang tính giáo dục cao.
Quan niệm về văn hóa theo PGS.TS. Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua quá trình hoạt động và thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội”[52,tr.10]. Văn hóa được đề cập khá
toàn diện và sâu sắc, văn hóa là một chỉnh thể, vừa mang tính đa dạng vừa là
sự thống nhất của nhiều thành tố, thông qua hoạt động thực tiễn của con
người những giá trị đó được kết tinh thành văn hóa. Tác giả khẳng định, văn
hóa trước hết phải có tính hệ thống để phân biệt với tính tập hợp. Từ đó, tạo
nên mối liên hệ giữa các hiện tượng thuộc về văn hóa, những quy luật về sự
hình thành và phát triển của nó.
Trong định nghĩa trên, tác giả còn cho ta thấy tính “giá trị” của văn hóa.
Tính giá trị được nhấn mạnh để phân biệt với phi giá trị. Sự phân biệt đó cho
phép ta có được cái nhìn biện chứng khách quan trong việc đánh giá tính giá
trị của sự vật hiện tượng, tránh được sự phủ định sạch trơn hay xu hướng cực
đoan trong việc tìm hiểu văn hóa.
Ở một khía cạnh khác, văn hóa với đặc trưng là tính nhân sinh, cho
phép phân biệt như một hiện tượng xã hội để văn hóa (vật chất do con người
sáng tạo ra) với các giá trị tự nhiên (nhân tạo).
Bàn về văn hóa, GS. Phan Ngọc khẳng định: “Văn hóa là mối quan hệ
giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế
giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo
cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối
quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một
kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các



10
cá nhân hay tộc các người khác”[41,tr.23]. Tác giả quan niệm văn hóa như
một thế giới biểu tượng, theo đó văn hóa là hiện tượng vừa phổ biến lại vừa
mang tính cá biệt. Nó phổ biến với tính cách một đặc điểm chung của con
người, bắt gặp ở mọi thể cộng đồng. Con người ở đâu cũng sống cùng một lúc
với hai thế giới, thế giới thực tại và thế giới các biểu tượng. Con người không
chỉ sống trong hiện tại mà sống cả trong quá khứ và tương lai, hai yếu tố
thuộc thế giới biểu tượng. Cách ứng xử của con người xuất phát từ một hệ
thống những nguyên lý trừu tượng của thế giới ý niệm đã hình thành một cách
gần như tự nhiên.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về văn hóa ta có thể thấy trong “Việt Nam Văn
hóa sử cương” của Đào Duy Anh đã đưa ra quan niệm: Người ta thường cho
rằng văn hoá chỉ là những học thuật tư tưởng, của loài người, nhân thế mà
xem văn hóa vốn có tính chât các dân tộc khác nhau của loài người, nhân thế
mà xem văn hoá có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như
vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là trong phạm vi của văn hoá nhưng phàm
sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập
quán tầm thường lại không phải là ở trong phạm vi của văn hoá hay sao? Hai
tiếng “văn hoá” chẳng qua chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài
người, cho nên ta có thể nói rằng: Văn hoá tức là sinh hoạt. Quan niệm này
cũng đã đồng nhất văn hoá với xã hội.
Cũng có những định nghĩa khác coi là phong tục, tập quán, tín ngưỡng;
lúc thì được coi là chuẩn mực, lối sống… Thật vậy, thuật ngữ văn hóa được
sử dụng rộng rãi trong nhiều bộ môn khoa học cụ thể, làm cho mỗi nó tìm
thấy những phương diện phù hợp với vấn đề mà nó giải quyết.
Tác giả Đào Duy Anh tiếp cận văn hóa trong mối quan hệ của các yếu
tố cấu thành nên đời sống xã hội: con người, đời sống sinh hoạt và văn hóa.
Con người là chủ thể của văn hóa, là lực lượng sáng tạo nên các giá trị văn



11
hóa thông qua các phương thức sinh hoạt tức là các hoạt động sản xuất vật
chất và tinh thần, hoạt động nghệ thuậ. Văn hóa với tư cách là những giá
trị vật chất và giá trị tinh thần cho con người trong cuộc đấu tranh với tự
nhiên và trong cuộc đấu tranh xã hội. Chính nhờ có văn hóa mà con người
khác với động vật, không phải là động vật. Sự tiến bộ của văn hóa đánh
dấu sự trưởng thành của con người trên bước đường tiến hóa văn hóa đã
nâng người lên cao hơn động.
Qua những nghiên cứu về văn hóa các tác giả hầu hết đi khai thác văn hóa
theo chiều cạnh là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, nhưng mới chỉ
dừng lại ở góc độ văn hóa học chưa thực sự nêu bật được bản chất của văn hóa.
- Ở phương Tây: Văn hóa còn được quan niệm là những giá trị tinh
thần. Theo tiếng Latinh là Cultus animi là trồng trọt tinh thần. Do đó, văn hóa
được tìm hiểu bởi hai khía cạnh: Khía cạnh thứ nhất: Văn hóa được hiểu
như là một sự “gieo trồng tư tưởng”. Khía cạnh thứ hai: Xem văn hoá như là
“tự nhiên thứ hai” do con người sáng tạo ra và đối lập với “tự nhiên thứ nhất”.
Đây là cách xem xét phổ biến trong quan niệm của các nhà tư tưởng thời kỳ
Phục Hưng và Cận Đại. Ở giai đoạn này, người ta đã nhận thấy văn hoá là kết
quả của sự phát triển của con người, đồng thời văn hoá là đặc trưng và cơ sở
để hình thành nên con người xã hội.
Có thể nói, trường phái triết học duy tâm cổ điển Đức đã có nhiều đóng
góp đáng kể trong việc xây dựng khái niệm văn hoá, tiêu biểu là I.Kant và
G.W.F.Hegel. Theo I.Kant: Văn hoá là giá trị của con người, hay đó là: Sự
phát triển những lực lượng tự nhiên của con người và là khả năng lấy mình
làm mục đích, bằng cách sử dụng tự nhiên làm phương tiện để đạt được mục
đích tự do và khả năng của con người có thể lấy mình với tư cách một tồn tại
tự do làm mục đích cuối cùng của sự tồn tại của mình. Ở đây I.Kant đã coi
con người là tồn tại tối cao, với quan niệm này đưa ông tới chỗ tuyệt đối hoá



12
vai trò của con người trong việc sáng tạo ra các giá trị văn hoá và dẫn con
người ta đến chỗ đối lập tuyệt đối với tự nhiên, tự coi mình là kẻ có quyền
“bóc lột” tự nhiên và hành động như thế tất yếu sẽ bị “trả giá” trước sự tác
động của tự nhiên đối với con người. Những tác động có hại của tự nhiên đối
với con người như hạn hán, bão lụt, những tác động của biến đổi khí hậu ngày
nay đang đặt con người trước những khó khăn thách thức nhất là trong giai
đoạn hiện nay.
Đối với G.W.F Hegel, một nhà triết học cổ điển Đức, xem xét khái
niệm văn hoá bằng cách ra một loạt mối quan hệ nhân cách - văn hoá, tìm
hiểu về sự kế thừa trong phát triển văn hoá, về tính phổ quát của các quá trình
xã hội - văn hoá. Mặc dù G. W.F Hegel đã nhận thấy yếu tố qua trọng của con
người là xã hội và trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, con người sáng
tạo ra văn hoá. Tuy nhiên, sự lý giải của ông còn thiếu tính toàn diện, thường
mâu thuẫn và mang nặng tính tư biện. Với quan niệm về thế giới “ý niệm
tuyệt đối” đã đưa ông đến quan điểm đồng nhất văn hoá với hoạt động sản
xuất tinh thần được thể hiện thông qua bộ phận tri thức xã hội. Hegel đã phủ
nhận hoàn toàn vai trò của tồn tại hiện thực đối với lịch sử phát triển của văn
hoá. Ông coi sự phát triển của văn hoá là sự biến đổi bản thân ý thức chủ quan
về thế giới chỉ thuộc về cái gọi là “ý niệm tuyệt đối” chứ không liên quan gì
đến hiện thực.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cả phương Đông và
phương Tây, về cơ bản đều thống nhất văn hóa là tất cả những giá trị do con
người sáng tạo ra. Đó là các giá trị trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn.
Do đó, văn hóa là đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt giữa con người và con vật.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về văn hóa.
- Quan niệm của C.Mác – Ph. Ăngghen về văn hóa.



13
Lao động là hoạt động mà ở đó xác lập và thể hiện mối quan hệ giữa
con người – tự nhiên, con người – xã hội và con người văn hóa, thông qua lao
động con người cải biến tự nhiên, tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình,
lao động là đặc thù của con người.
C.Mác khẳng định Mỗi bước tiến của lịch sử là một bước tiến của văn
hóa”, chủ nghĩa Mác thú nhận nó với tư cách là một hệ giá trị, bị chi phối
bởi các điều kiện lịch sử, năng lực thực hiện. Khi so sánh hoạt động của con
người và động vật, Trong Bản Thảo kinh tế triết học 1844. C.Mác cho rằng:
“Cố nhiên súc vật cũng sản xuất, nó xây dựng tổ, chỗ ở của nó như con ong,
con Hải Ly… nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó trực tiếp cần đến,
nó sản xuất một cách phiến diện; còn con người thì sản xuất một cách toàn
diện; con vật chỉ sản xuất và bị chi phối vởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con
người sản xuất ngay cả khi được giải phóng khỏi nhu cầu của thể xác và chỉ
khi giải phóng khỏi nhu cầu mới sản xuất chân chính của chữ đó, con vật mới
sản xuất ra bản thân nó, còn con người sản xuất ra toàn bộ thế giới tự
nhiên”[34,tr.136,137]. Con vật chỉ chế tạo theo kích thước và nhu cầu của loài
đó, còn con người có thể sản xuất theo kích thước của bất cứ loài nào ở đâu
cũng biết vận dụng cái bản chất có hữu của mình; Do đó con người cũng chế
tạo theo quy luật của cái đẹp.
Như vậy, có thể nói việc con người tạo ra “thiên nhiên thứ hai” theo
quy luật của cái đẹp là cái thuộc tính bản chất, quy định cái văn hóa trong
hoạt động của con người. Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành
và phát triển con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái
quyết định sự tồn tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật thì
văn hóa là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực của bản chất người
gắn liền với các hoạt động sống của con người.



14
Trong Luận cương thứ 6 về Phoi ơ bắc C.Mác đưa ra luận điểm: “Bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.[31,tr.11]. Theo đó không
có con người trừu tượng thoát ly mọi hoàn cảnh xã hội. Trong điều kiện hoạt
động thực tiễn của mình con người đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần đó chính là văn hóa. Có thể nói hoạt động xã hội của con người là tiền đề
cơ sở cho sự tiến bộ của xã hội và văn hóa cũng được kế thừa trong tiến trình
phát triển của nhân loại.
- Quan điểm của Lênin về văn hóa.
Kế thừa và phát triển các quan điểm của triết học Mác, V.I. Lênin đã
phân tích sâu sắc thêm về mặt xã hội của văn hóa với cách tiếp cận từ lý luận
về Hình thái kinh tế - xã hội. Lênin đã đưa ra nguyên tắc quan trọng trong
quá trình xây dựng nền văn hóa mới. Đó là những nguyên tắc quan trọng
trong tính đảng, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hóa;
xác định sự nghiệp vền văn hóa là bộ phận trong guồng máy cách mạng vô
sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Theo Lênin, văn hóa vô sản có khả
năng phát triển toàn diện năng lực bản chất của con người cho nên nó phải là
sự kế thừa có phê phán các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại để phát
triển lên một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hóa và bản chất người.
Lênin có đưa ra: Văn hóa vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải
là do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản phát minh
ra…văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số kiến thức
mà loài người đã tích lũy được dưới ách áp bức của xã hội tư bản, xã hội của
bọn địa chủ và của xã hội của bọn quan liêu.
Xem xét trên khía cạnh triết học chủ nghĩa Mác – Lênin cho thấy, văn
hóa phản ánh toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra trong quá trình hoạt động thực tiễn. Chỉ có lao động, tác động vào giới tự
nhiên, thì hoạt động đó là điều kiện để phân biệt giữa con người với súc vật.



15
Theo quan niệm về Văn hoá giáo dục và Khoa học Liên hợp quốc
(UNESCO). Trong những hoạt động thúc đẩy phát triển văn hóa dân tộc ở các
quốc gia, UNESCO đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa hôm nay
có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc
cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã
hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín
ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, chính
văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý
tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con
người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án
chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi
không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt
trội lên bản thân” [61,tr.23,24]
Định nghĩa trên đã trình bày khái quát những nội dung, đặc trưng của
văn hóa. Văn hóa bao hàm hai lĩnh vực cơ bản là văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần. Đó là những cái tạo ra bản sắc riêng của cá nhân, cộng đồng
và xã hội.
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa.
Văn hóa sinh ra cùng với hoạt động của con người, do đó nó bao gồm
cả hoạt động sản xuất vật chất lẫn sản xuất tinh thần chính vì vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan niệm mang tính khái quát cao:“Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích sống con người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo văn hóa nghệ thuật những
công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn
bộ những phát minh đó là văn hóa, văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. [36,tr.431]



16
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 văn hóa được Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, văn hóa thuộc về kiến trúc
thượng tầng, có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế, chính trị và xã hội. Quan
điểm về văn hóa của Người đã khái quát nội dung rộng nhất của phạm trù văn
hóa, qua đó chỉ ra văn hóa không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con
người, mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Văn hóa với tư
cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện sự thống nhất của
yếu tố tự nhiên và xã hội, khả năng và sức sáng tạo của con người.
Từ góc độ tiếp cận văn hóa của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khi nói đến văn hóa là nói đến con người, con
người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người. Có thể
nói: Văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, biểu hiện trong
lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần của con người. Tuy nhiên, sự
phân chia đó chỉ mang tính chất tương đối, bởi giá trị “văn hóa vật chất” về
thực chất là được vật chất hóa từ các “giá trị tinh thần”. Hơn nữa, các giá trị
tinh thần không bao giờ tồn tại dưới dạng thuần túy tinh thần, mà tồn tại dưới
dạng phi vật thể mang tính khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực giao
tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng,v.v.
- Quan điểm của Đảng ta về văn hóa.
Quan niệm về văn hóa Đảng ta đã đưa ra cái nhìn mới về văn hóa Hội
nghi lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII): Về xây dựng
và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đâm đà bản sắc dân tộc: “Văn hóa
Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới không
ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc” [8,tr.40]



17
Ngoài ra bàn về văn hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI:về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Nghị quyết
Đảng ta khẳng định mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện , hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học . Văn ho
́
a thực sự trở thành nền t ảng tinh
thần vững chắc của xa
̃

̣
i , là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng ta đã khẳng định tầm quan trọng của văn hóa, phản ánh toàn
bộ những giá trị do con người tạo đựng nên, văn hóa vừa là mục tiêu vừa
là nền tảng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đứng trên nền tảng
kiến trúc thượng tầng văn hóa, văn hóa được xem xét một cách toàn diện
trên chỉnh thể của nó.
Nhìn chung, tất cả các quan niệm về văn hóa như trên đều đưa đến cái
nhìn tổng thể, văn hóa là do con người sáng tạo ra, đó là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, luận văn lựa chọn cách tiếp cận theo
quan niệm của tác giả Trần Ngọc Thêm, theo đó có thể hiểu: Văn hóa là toàn bộ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy trong quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với tự nhiên và xã

hội. Như vậy, không phải tất cả những gì do con người sáng tạo ra đều là văn
hóa, mà chỉ có những yếu tố được kết tinh thành giá trị, cái cốt lõi mới trở thành
văn hóa, những giá trị đó được phản ánh trong thực tiễn, bằng những hoạt động
của chính mình, con người đã tạo ra văn hóa.



18
1.1.2. Bản sắc văn hóa
Mỗi một dân tộc đều có bản sắc riêng, được tôi luyện qua hàng ngàn
năm lịch sử gắn với sự hình thành của mỗi dân tộc.
Nói đến bản sắc văn hóa trong từ điển Tiếng Việt Phổ Thông: “Bản sắc
chỉ tính chất, màu sắc riêng, tạo thành phẩm cách đặc biệt của một
vật”[12,tr.26].
Song, không phải quan niệm nào cũng được xếp vào bản sắc, mà bản
sắc văn hóa là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một nền văn hóa cụ thể, đó là
những nét văn hóa riêng vốn có của mỗi dân tộc những nét riêng ấy thường
được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, vật thể và phi vật
thể. Bản sắc văn hóa là cái thường xuyên được duy trì, tái hiện, hoàn thiện
trong tiến trình phát triển. Mặc dù, đã trải qua những biến cố thăng trầm của
lịch sử, nhưng những giá trị ấy không những không mất đi, mà nó còn tiếp
nhận tinh hoa của các dân tộc khác làm phong phú thêm giá trị văn hóa của
dân tộc mình.
Bàn về văn hóa, tác giả Phạm Thái Việt đã đưa ra quan niệm: “Bản sắc
là những yếu tố văn hóa đặc trưng cho từng cấp độ chủ thể văn hóa được xét
đến. Bản sắc giúp khu biệt cộng đồng văn hóa này với cộng đồng văn hóa
khác” [57,tr. 328]. Ở đây bản sắc văn hóa thể hiểu với tư cách là văn hóa của
một cộng đồng, một dân tộc nói riêng.
Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Hồ Bá Thâm quan niệm bản sắc văn
hóa: “Là một kiểu tổng hợp, kết hợp những phẩm chất, những giá trị văn hóa

nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh hồn, sức sống bền vững của dân tộc, có
nét ưu trội đặc biệt hơn một số dân tộc khác, vừa mang tính ổn định tương
đối vừa biến đổi trong quá trình lịch sử đấu tranh và xây dựng của dân tộc
đó”.[50,tr.23]


19
Qua cách tiếp cận trên của các học giả Việt Nam: Bản sắc văn hóa biểu
hiện các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống của từng dân tộc, nó
thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Đó là các giá trị được lưu giữ qua
các thời kỳ lịch sử nối tiếp từ thế hệ này qua thế hệ khác, hòa vào dòng chảy
liên tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã hình thành và trở thành truyền
thống của bản sắc văn hóa mang tính bền vững và có chức năng định hướng,
đánh giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Song khái niệm bản
sắc văn hóa không phải là sự cố định, bất biến hoặc khép kín mà nó luôn vận
động và phát triển, bên cạnh sự phong phú và đa dạng, bản sắc văn hóa còn
mang tính lịch sử. Mọi sự vật hiện luôn tồn tại, vận động, bản sắc cũng vậy,
làm thích nghi với yêu cầu của thời đại. Trong tiến trình phát triển, yếu tố đặc
thù phù hợp với thực tiễn sẽ được phát huy, những yếu tố bảo thủ lạc hậu sẽ
bị bài trừ.
Như vậy, luận văn lựa chọn hướng tiếp cận bản sắc văn hóa theo quan
điểm của tác giả Hồ Bá Thâm: Bản sắc văn hóa là một kiểu tổng hợp, kết hợp
những phẩm chất, những giá trị văn hóa nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh
hồn, sức sống bền vững của dân tộc, có nét ưu trội đặc biệt hơn một số dân
tộc khác, vừa mang tính ổn định tương đối vừa biến đổi trong quá trình lịch
sử đấu tranh và xây dựng của dân tộc đó. Thật vậy, bản sắc văn hóa là nền
tảng tạo nên linh hồn của dân tộc, là những đường nét cụ thể biểu hiện sức
sống của mỗi tộc người trong tiến trình phát triển lịch sử.
Nếu như văn hóa là nội dung quan trọng trong kiến trúc thượng tầng,
bản sắc văn hóa luôn thể hiện nội dung bên trong có của văn hóa, đó là nét

riêng phản ánh độc đáo mối liên hệ thường xuyên, phổ biến giữa cái
chung (văn hóa nhân loại) với cái riêng (văn hóa dân tộc). Do đó, bản sắc
văn hóa không đứng ngoài văn hóa, mà chúng luôn có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau.

×