Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc hoàn thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay (nghiên cứu thực tế tại Thị xã Sơn Tây)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 96 trang )






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY



QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC GIA
ĐÌNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN
THIỆN ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
(Nghiên cứu thực tế tại Thị xã Sơn Tây)


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học





Hà Nội - 2014





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY



QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC GIA
ĐÌNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN
THIỆN ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
(Nghiên cứu thực tế tại Thị xã Sơn Tây)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đỗ Thị Hòa Hới





Hà Nội - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: Quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình và
ý nghĩa của nó đối với việc hoàn thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay (nghiên
cứu thực tế tại Thị xã Sơn Tây) là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác. Mọi tham khảo trong luận văn đều được trích dẫn rõ
nguồn, đảm bảo tính khách quan của tư liệu và bản quyền tác giả.

Học viên

Nguyễn Thị Bích Thủy



LỜI CẢM ƠN

Luận văn “Quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó
đối với việc hoàn thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay (nghiên cứu thực tế tại
Thị xã Sơn Tây) là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, là kết quả của
quá trình học tập tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc
gia Hà Nội của tác giả dưới sự hướng của các thầy cô bộ môn; sự giúp đỡ của các
thầy cô trong ban chủ nhiệm khoa Triết học. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến
những sự giúp đỡ quý báu đó!
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến PGS. TS. Đỗ Thị Hòa Hới là
giáo viên trực tiếp hướng dẫn luận văn cho tôi, người đã luôn tận tình hướng dẫn,
dành nhiều thời gian quý báu để trao đổi và định hướng nghiên cứu cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn
động viên và là chỗ dựa tinh thần để tôi học tập và thực hiện thành công đề tài luận

văn này!
Tôi xin trân trọng gửi lời tri ân đến tất cả!

Học viên cao học khoá 20

Nguyễn Thị Bích Thủy






1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
PHẦN NỘI DUNG 12
CHƢƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH . 12
1.1. Điều kiện kinh tế chính trị xã hội và tiền đề tƣ tƣởng văn hóa cho sự
hình thành phát triển tƣ tƣởng Nho giáo về đạo đức và đạo đức gia đình 12
1.1.1. Điều kiện kinh tế chính trị xã hội 12
1.1.2. Tiền đề văn hóa tư tưởng 15
1.1.3. Quan niệm của Nho giáo về tính người - cơ sở cho quan niệm
đạo đức trong gia đình của Nho giáo 17
1.2. Một số nội dung cơ bản tƣ tƣởng đạo đức gia đình của Nho giáo 17
1.2.1. Quan niệm Nho giáo về vai trò đạo đức trong gia đình 17
1.2.2. Quan niệm Nho giáo về quan hệ tôn ti trật tự gia đình
(thể hiện ở Lễ) 25
1.2.3. Quan niệm Nho giáo về chuẩn mực đạo đức cơ bản cho từng
thành viên cụ thể trong gia đình 29
1.3 Sự du nhập và ảnh hƣởng của đạo đức Nho giáo trong lịch sử tại

Việt Nam. 32
Kết luận chương 1: 39
Kết luận chương 1: 39
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH
NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH
MỚI Ở SƠN TÂY HIỆN NAY. 40
2.1. Khái quát Thực trạng đạo đức gia đình ở Sơn Tây hiện nay. 40
2.2. Nội dung, yêu cầu đặt ra trong việc củng cố, hoàn thiện gia đình
văn hóa mới ở Thị xã Sơn Tây hiện nay. 57


2
2.3. Tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức gia đình Nho
giáo góp phần hoàn thiện đạo đức gia đình ở Sơn Tây hiện nay. 67
2.4. Giải pháp nâng cao việc kế thừa và phát huy giá trị đạo đức Nho giáo
vào việc xây dựng hoàn thiện đạo đức gia đình Sơn Tây hiện nay. 72
Kết luận chương 2: 84
PHẦN KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87


3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức lớn nhất trong lịch sử
Trung Hoa cổ đại, nó có sức sống trường tồn và vĩnh cửu không chỉ trong xã
hội Trung Quốc mà nó còn lan rộng ra rất nhiều quốc gia và khu vực trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Nho giáo được du nhập sớm vào Việt Nam từ
những năm đầu công nguyên, sau đó người Việt đã tiếp nhận, biến đổi nó phù
hợp với yêu cầu, hoàn cảnh lịch sử của dân tộc. Đạo đức Nho giáo thấm sâu

vào tư tưởng của con người Việt Nam, nhất là từ khi giai cấp phong kiến lấy
Nho giáo làm hệ tư tưởng cai trị xã hội. Trong đó, quan niệm Nho giáo về đạo
đức gia đình có ảnh hưởng lớn, có tác dụng gìn giữ nề nếp, tôn ti trật tự trong
các gia đình dòng họ, tạo sự gắn kết, sự ổn định xã hội trong lịch sử. Từ sau
cách mạng tháng 8/1945, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng bảo vệ, phát triển
các môi trường thuận lợi để xây dựng đạo đức gia đình, tạo gia đình văn hóa mới.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập và phát triển của nền kinh tế thị trường,
Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đang có những bước
chuyển mình quan trọng. Đất nước ta đã, đang và sẽ đạt được những thành
tựu to lớn về mọi mặt của đời sống xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, của từng hộ gia đình từng bước được nâng cao. Nhưng cùng với
điều đó, xuất hiện mặt trái các nhân tố mới ảnh hưởng đến việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc. Hành vi vi phạm
đạo đức truyền thống ở khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, có ở tất cả
các nghành nghề như sản xuất kinh doanh, y tế. Kể cả trong môi trường gia
đình là môi trường ổn định và có lẽ vẫn được coi là thành trì bền vững của
văn hoá truyền thống, thì nay tình trạng vi phạm đạo đức không chỉ diễn ra cá
lẻ mà qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy nó đang gia tăng theo
từng ngày, từng giờ: nào là con giết cha, vợ giết chồng, rồi chồng giết vợ, anh


4
em đánh nhau, con đuổi mẹ ra đường chiếm nhà, bố mẹ già không phụng
dưỡng lại cho vào viện dưỡng lão, hoặc đuổi ra đường hoặc nuôi cũng chỉ coi
như vật cảnh trong nhà, cháu giết ông, bà. Cùng với tệ nạn xã hội, nghiện hút,
cờ bạc, mại dâm, trộm cắp, gây rối, chém giết lẫn nhau…được đăng tải trên
các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng nhiều, đã trở thành mối lo ngại
cho nhân dân ta. Hiện nay, xuất hiện tâm lý lệch chuẩn truyền thống, sùng bái
đồng tiền, coi đồng tiền là trên hết, có tiền là có tất cả, “tiền là tiên là Phật”, ỷ
thế, cậy quyền và cậy tiền không xem ai ra gì…Có thể nói, chưa bao giờ vấn

đề đạo đức nói chung, đạo đức trong gia đình nói riêng lại đáng báo động như
hiện nay.
Gia đình là nơi lưu giữ những giá trị đạo đức truyền thống, nhưng hiện
nay đạo đức gia đình lại đang đứng trước những thách thức lớn. Giá trị đạo
đức gia đình truyền thống ngày càng mai một và dường như không còn dựa
nhiều trên cơ sở kinh tế gia đình, hệ giá trị mới chưa xác lập cơ sở vững chắc
đã làm khủng hoảng hệ giá trị đạo đức gia đình, góp thêm vào khủng hoảng
đạo đức xã hội. Những mặt trái của cơ chế thị trường và các nhân tố mới như
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình đô thị hóa đang từng ngày,
từng giờ làm suy thoái môi trường, ổn định đạo đức của con người, dường
như khiến đạo đức xã hội xuống cấp. Con người dường như ngày càng sống
gấp gáp, thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi nhẹ, chà đạp lên những giá trị
đạo đức, danh dự của người khác. Nhiều hiện tượng vì lợi ích cá nhân đã đánh
mất đi đạo lý gia đình, quan hệ dòng họ, bạn bè,…Trước thực tế đó, nhiều vấn
đề bức xúc về gia đình đang đặt ra như: Đạo đức gia đình Việt Nam truyền
thống chịu ảnh hưởng lớn của Nho giáo đã biến đổi và có vai trò như thế nào
khi đất nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập phát triển kinh
tế thị trường. Hiện nay, tuy đạo đức gia đình Nho giáo bên cạnh những mặt
tích cực tất yếu vẫn bộc lộ những bất cập, hạn chế lịch sử, để lại nhiều rào cản


5
cho sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề đặt ra
là chúng ta phải kế thừa có phê phán, phát huy các mặt tích cực của nó như
thế nào trong quá trình đổi mới? Mặt khác, qua khảo sát các công trình tiếp
cận từ góc độ triết học, mặc dù đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về vấn đề đạo đức của Nho giáo, nhưng khía cạnh quan niệm về đạo đức
trong gia đình nói riêng cho tới nay vẫn còn là một đề tài chưa được quan tâm
nghiên cứu nhiều. Vì vậy, chúng ta cần có những nghiên cứu sâu hơn, nhằm
đánh giá lại đầy đủ hơn quan niệm Nho giáo về đạo đức gia đình đối với việc

xây dựng đạo đức gia đình văn hóa mới hiện nay.
Trên cơ sở nhận thức như vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Quan niệm
của Nho giáo về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc hoàn thiện
đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay” (nghiên cứu thực tế tại Thị xã Sơn
Tây) làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Học thuyết Nho giáo ra đời trong bối cảnh đất nước Trung Hoa có
nhiều biến động, các quan hệ đạo đức xã hội chủ yếu có nhiều thay đổi căn
bản về giá trị. Mục đích của Nho giáo là hướng tới xây dựng một xã hội thái
bình, thịnh trị, có trật tự, kỷ cương, nề nếp. Vì vậy, về mặt chính trị xã hội, đó
là học thuyết chủ trương lấy Đức trị làm phương thức cai quản đất nước. Nho
giáo đề cao việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, xây dựng các mối quan hệ xã
hội, quan hệ gia đình phù hợp với những chuẩn mực đạo đức. Mỗi người
trước tiên phải “Tu thân” sau đó mới có thể “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”
Từ trước tới những năm gần đây, trên bình diện đạo đức xã hội, Nho giáo
được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu sâu sắc. Tiêu biểu có thể điểm đến
các công trình nghiên cứu theo thời gian:
Trước cách mạng tháng 8/ 1945, đã có một số công trình chuyên khảo
về Nho giáo như: “Nho giáo” của Trần Trọng Kim gồm 2 quyển Thượng và


6
Hạ xuất bản năm 1932, Khổng Học Đăng của Phan Bội Châu, trong đó các
tác giả đã trình bày khái quát hệ thống học thuyết Nho giáo, phân tích những
tư tưởng cơ bản của Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển của nó.
Khi đánh giá về Nho giáo, các tác giả đều đề cao những yếu tố tích cực của
đạo đức Nho giáo, đặc biệt là đạo đức gia đình. Họ cho rằng, đạo đức gia đình
Nho giáo tuy có một số biểu hiện hạn chế, nhưng có vai trò to lớn trong việc
giáo dục đạo đức con người và ổn định trật tự xã hội.
Sau cách mạng tháng 8/1945, các công trình nghiên cứu về Nho giáo ở

nước ta tiếp tục được công bố. Nhiều cuốn sách đã được xuất bản như: “Bàn
về đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện, “Nho giáo xưa và nay” của Quang Đạm,
“Nho học và nho học ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Nguyễn Tài Thư, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam hiện nay của Vũ Khiêu .
. . Có thể thấy, những cuốn sách nói trên cùng rất nhiều các bài báo đăng trên
tạp chí chuyên ngành, đã đi sâu nghiên cứu về nhiều phương diện của Nho
giáo, đề cập tới học thuyết đạo đức của Nho giáo, trong đó có những giá trị
đạo đức tác động trực tiếp và gián tiếp đến đạo đức gia đình truyền thống và
cả hiện nay.
Trong các tác phẩm nghiên cứu tổng hợp về Nho giáo thì đáng chú ý là
những tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu về những quy phạm đạo đức của Nho
giáo liên quan trực tiếp tới đạo đức gia đình như:
Sách “Nho giáo và gia đình” của Vũ Khiêu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 1995. Trong công trình đó, tác giả đã phân tích các quy phạm đạo
đức Nho giáo, đạo đức gia đình, mối quan hệ trong gia đình, quan hệ cha -
con, quan hệ anh - em , quan hệ vợ chồng…, có thể nói đây là ba quan hệ cơ
bản trong gia đình. Tác giả cũng chỉ rõ, với quan niệm đạo đức Nho giáo có
hạn chế kìm nén con người, nhất là người phụ nữ là người chịu những ảnh
hưởng thiệt thòi nhất, đau khổ nhất do chế độ hà khắc đem lại. Tác giả cũng


7
chỉ ra vấn đề kế thừa giá trị đạo đức Nho giáo của những người con đối với
cha mẹ, em đối với anh, vợ đối với chồng.
Sách Gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng của Nho giáo - của
Trần Đình Hượu, là công trình nghiên cứu sâu sắc đã làm rõ những ảnh hưởng
của đạo đức Nho giáo đến gia đình truyền thống ở Việt Nam. Tác giả cho rằng
bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo, còn có những mặt
tích cực trong việc xây dựng một gia đình êm ấm có kỷ cương.
Sách Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội,

năm 1998. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu về Nho giáo từ tiếp cận
văn hóa học, nhằm làm rõ ảnh hưởng của Nho giáo với văn hóa Việt Nam, cả
những tích cực, tiêu cực trong đó có văn hóa gia đình. Tác giả khẳng định:
Ảnh hưởng đến gia đình Việt Nam là quan niệm gia đình Nho giáo, đó là gia
đình phụ quyền gia trưởng, nhằm củng cố chế độ phong kiến. Trong gia đình
Nho giáo, người đàn ông được đề cao, còn người phụ nữ chỉ là cái bóng, “tam
tòng” (tại gia tòng phụ, xuất gía tòng phu, phu tử tòng tử) tức là người con gái
khi ở nhà phải nghe theo lời cha, làm theo lời cha, khi về nhà chồng phải kính
nhường, giữ mình cho khéo, không được trái ý chồng. Còn chuẩn mực “tứ đức”
(công, dung, ngôn, hạnh) thì đòi hỏi ở người con gái lúc nào cũng phải có.
Trong đạo đức gia đình Nho giáo thì trinh tiết của người phụ nữ luôn được đề
cao, còn người đàn ông có thể lấy năm thê bảy thiếp, nhưng người đàn bà thì
không thể.
Trong kỉ yếu Hội thảo “Nho giáo ở Việt Nam do Viện nghiên cứu Hán
Nôm và Viện Harvard – Yeneching (Mỹ) phối hợp tổ chức trong hai ngày 17
và 18 tháng 12 năm 2004, các nhà khoa học Việt Nam cùng nhiều đồng
nghiệp ở Mỹ, Canada, Trung Quốc… đã thảo luận nhiều vấn đề xung quanh
các nội dung như: Ảnh hưởng của Nho giáo trong các lĩnh vực của đời sống
hiện nay; Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam và ảnh hưởng của Nho


8
giáo trong đời sống gia đình phong kiến… Các bài tham luận đã khẳng định:
Nho giáo chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội Việt
Nam, ảnh hưởng sâu đậm tới xã hội, gia đình, từng cá nhân; trong lịch sử và
hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng cần điểm tới nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
cũng bàn về đạo đức Nho giáo, quan niệm Nho giáo về đạo đức gia đình ở
những khía cạnh đậm nhạt khác nhau, trong đó tiêu biểu là các công trình
nghiên cứu:

“Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ”, luận án tiến sỹ của Nguyễn Tài
Thư, “Quan niệm Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó với việc
giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” -
luận án tiến sỹ triết học Nguyễn Thị Nga, năm 1999 (Thư viện quốc gia).
Luận án “Quan niệm Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con
người” của Nguyễn Thị Tuyết Mai, năm 2005. Luận án “Gia đình Việt nam
và vai trò của người phụ nữ hiện nay” của Dương Thị Minh, năm 2003 (Thư
viện quốc gia). Luận án tiến sỹ “Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và
sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIX) của Nguyễn
Thanh Bình… Các luận án đó đã làm rõ nội dung cơ bản của Nho giáo về những
vấn đề chính trị, xã hội, giáo dục, đạo đức. Làm rõ quá trình du nhập Nho giáo
vào nước ta, vai trò của Nho giáo trong lịch sử dân tộc và hiện nay ở các lĩnh
vực, trong đó có đời sống đạo đức, đạo đức gia đình.
Một số luận văn thạc sỹ cũng đề cập đến một số chuẩn mực đạo đức của
Nho giáo về con người nói chung, trong gia đình nói riêng như: Luận văn
“Quan niệm của Nho giáo về Trung - Hiếu - Lễ ảnh hưởng của nó đối với đời
sống đạo đức con người Việt Nam hiện nay” của Phạm Mạnh Toàn. Ngoài
những công trình nghiên cứu trên đây liên quan đến nội dung đề tài luận văn,
còn có rất nhiều những bài báo nghiên cứu được đăng trên tạp chí như: “Ảnh


9
hưởng của Nho giáo đối với gia đình Việt Nam” (Ngô Phương Anh, tạp chí
gia đình và trẻ em, kì 1, số 6, 2005, Tr 8 – 10); “Về gia đình truyền thống Việt
Nam với ảnh hưởng Nho giáo” (Trần Đình Hựơu, Tạp chí Xã hội học, số 1,
1989, Tr 25 – 38) ; “Tư tưởng Nho giáo và luân lý gia đình”, (Nguyễn Văn
Hồng dịch, Tạp chí thông tin Khoa học xã hội, số 12, 2001,; “Một số chuẩn
mực giá trị ưu trội khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, (Nguyễn
Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học,số 1, 1995); “Một số biểu hiện xung đột giá
trị trong lĩnh vực đạo đức của đời sống xã hội”, (Nguyễn Sinh Huy, Tạp chí

Triết học, số 1, năm 1995); “Phải chăng Nho giáo là động lực phát triển Kinh
tế ?”, (Hà Thúc Minh, tạp chí Triết học, số 6,1996); “Tìm hiểu tư tưởng của
Nho giáo”, (Minh Anh - Tạp chí Triết học, số 8, Tr. 46 – 50, 2002); “Khai
thác giá trị của truyền thống Nho học phục vụ phát triển của đất nước trong
điều kiện toàn cầu hoá”, (Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 4,
2000); “Thử bàn về đạo đức “Hiếu của Nho gia”, (Lê Văn Quán, Tạp chí Hán
Nôm, số 2(57),2003);
Nhìn chung, trong các công trình trên cơ bản đã nêu lên khái quát nội
dung đạo đức, đạo đức gia đình của Nho giáo, nhưng còn chưa nhiều, hạn
chế, ý kiến còn tản mạn, chưa có hệ thống, lập luận còn chưa toàn diện, hoặc
tập trung giải quyết những phương diện lý luận làm nền tảng cho vấn đề mà
các tác giả đặt ra cho mình. Trên thực tế, chưa có một công trình nghiên cứu
cụ thể, chi tiết nào về đạo đức gia đình của Nho giáo, ý nghĩa của nó đối với
việc hoàn thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay. Do đó, đề tài luận văn
kế thừa các kết quả trên tiếp tục hệ thống hóa, khái quát những kết quả nghiên
cứu của những người đi trước, để đi sâu nêu các vấn đề về tiền đề hình thành,
nội dung và ý nghĩa của tư tưởng Nho giáo về đạo đức gia đình, từ đó vận
dụng nghiên cứu nó vào việc hoàn thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung giải quyết mục tiêu như sau:


10
Người làm luận văn sẽ tập trung làm rõ quan niệm cơ bản của Nho giáo
về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó với việc giáo dục, hoàn thiện đạo đức
gia đình Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn phải thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, luận văn tìm hiểu một cách có hệ thống quan niệm của Nho
giáo về đạo đức gia đình. Làm rõ những nội dung của quan niệm đó để thấy
được những mặt tích cực và hạn chế lịch sử của nó.

Thứ hai, từ việc khái quát thực trạng đạo đức gia đình Việt Nam hiện
nay, qua khảo sát tại Thị xã Sơn Tây, làm rõ ý nghĩa của việc tiếp tục kế thừa
có phê phán quan niệm Nho giáo về đạo đức gia đình đối với việc hoàn thiện
đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là những tư tưởng, nội dung Nho
giáo về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc hoàn thiện đạo đức
gia đình Việt Nam hiện nay nghiên cứu tại Thị xã Sơn Tây.
* Phạm vi nghiên cứu
Nho giáo là một học thuyết chính trị đạo đức rất rộng lớn và phong phú,
bao gồm nhiều lĩnh vực, vấn đề. Vì vậy, trong phạm vi của Luận văn thạc sỹ
tôi chỉ đi sâu tìm hiểu quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình qua sách
Luận Ngữ và Mạnh Tử, vận dụng, chỉ ra ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục
đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay, qua khảo sát trường hợp Thị xã Sơn
Tây. Ngoài những tư liệu chính đó, thì quan điểm của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước về vấn đề trên cũng là đối tượng tiêu biểu tham khảo của
luận văn.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
 Cơ sở lý luận


11
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vấn đề xây dựng
đạo đức cho con người Việt Nam nói chung, đạo đức gia đình Việt Nam nói
riêng.
 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu

triết học như: phương pháp logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so
sánh. Đồng thời sử dụng một số phương pháp liên ngành triết học, xã hội học
triết học, tâm lý học trong những trường hợp cần thiết, tương ứng. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: thống kê, thu thập và xử lý
thông tin.
6. Đóng góp mới của luận văn và ý nghĩa.
Luận văn góp phần vào việc hệ thống quan niệm của Nho giáo về
đạo đức gia đình, chỉ ra những ảnh hưởng, ý nghĩa của nó đối với việc giáo
dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay, qua khảo sát trường hợp Thị xã
Sơn Tây từ đó góp phần vào việc gợi ý, bổ sung, thiết lập những giá trị, chuẩn
mực đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc phát huy những giá
trị tích cực của Nho giáo về đạo đức gia đình, trong quá trình giáo dục đạo
đức gia đình mới ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 2 chương và 7 tiết.
Chƣơng 1: Quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình
Chƣơng 2: Một số ý nghĩa tư tưởng đạo đức gia đình Nho giáo đối với
việc hoàn thiện đạo đức gia đình mới ở Sơn Tây hiện nay.



12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ
ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH
1.1. Điều kiện kinh tế chính trị xã hội và tiền đề tƣ tƣởng văn hóa cho
sự hình thành phát triển tƣ tƣởng Nho giáo về đạo đức và đạo đức gia đình
1.1.1. Điều kiện kinh tế chính trị xã hội

Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thời Xuân Thu - Chiến quốc (770 -
221 TCN). Đây là thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ, bước vào thời
kỳ phong kiến sơ kỳ, với những đặc điểm như sau.
Kinh tế đang có sự chuyển biến mạnh mẽ từ thời đại đồ đồng sang đồ
sắt, với nhiều công cụ lao động hiện đại hơn trước rất nhiều, làm cho năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng, của cải bắt đầu có sự dư thừa, xã hội biến
động. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi mọi mặt đời sống văn hóa chính trị -
xã hội của thời kỳ này. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở cho
sự ra đời, xuất hiện của nhiều giai cấp và tầng lớp mới trong xã hội, cùng với
đó là sự xuất hiện nhiều mâu thuẫn gay gắt: mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc
nhà Chu và giai cấp địa chủ mới với dân, mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc cũ
và tầng lớp quý tộc mới.
Về mặt xã hội, mâu thuẫn gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa Thiên tử và
các nước chư hầu, mâu thuẫn gay gắt trong tầng lớp quý tộc, đã làm cho xã
hội ngày càng rối ren, trật tự xã hội bị đảo lộn. Người ta cướp bóc, tranh
giành nhau về địa vị, quyền lợi. Khổng Tử đã gọi đây là thời kỳ con người
sống vô đạo, quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử. Mâu thuẫn
xã hội và chiến tranh giữa các nước chư hầu kéo dài đã làm cho đời sống nhân
dân vô cùng cực khổ. Trong điều kiện kinh tế - xã hội rối ren như thế, các
nước đều muốn nắm giữ quyền lực của mình đã rất trọng kẻ sỹ, những ai có
tri thức mưu lược, có kế sách trị quốc đều được trọng dụng. Các học thuyết


13
này đều tập trung giải quyết những vấn đề lớn, những câu hỏi lớn của thời
đại, thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Làm thế nào mà nước từ loạn trở thành thái
bình thịnh trị? Do đó yêu cầu thực tiễn thúc đẩy có rất nhiều học thuyết chính
trị xã hội thời kỳ này nở rộ và phát triển. Người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ
“Bách gia tranh minh” (Trăm nhà đua tiếng) bao gồm nhiều học phái như:
Nho gia, Âm dương gia, Mặc gia, Pháp gia, bằng cách này hay cách khác các

học phái đều đưa ra những phương pháp trị quốc theo quan điểm riêng của
mình. Các nước chư hầu chiến tranh kéo dài liên tục nhằm thôn tính nhau,
tranh giành đất đai và cư dân hết sức khốc liệt như Mạnh Tử đã mô tả. Người
ta đã tính rằng, riêng thời Xuân Thu khoảng 242 năm thì có tới 483 cuộc
chiến tranh xảy ra, số các nước thu hẹp dần từ cả nghìn nước đến cuối thời
Xuân Thu chỉ còn hơn trăm nước… Trong số những nước hùng mạnh nhất
thời bấy giờ, chỉ còn năm nước (Ngũ Bá) là: Tề, Tấn, Sở, Tần, Tống, sau này
lại thêm hai nước nữa là Ngô và Việt. Phái Pháp gia đưa ra quan điểm trị quốc
phải dựa vào pháp luật, phái Mặc Gia cho rằng phải “Kiêm ái”…. Để khắc
phục tình tình trạng vô đạo, phi đạo đức, cần đưa xã hội từ hỗn loạn đến thịnh
trị, kiến tạo một xã hội có đạo đức, dùng Đức để trị quốc. Khổng Tử và nhiều
nhà Nho cho rằng, biện pháp tốt nhất, hữu hiệu nhất là phải đưa ra các chuẩn
mực, những quy phạm đạo đức để từ trong thời thơ ấu, trong gia đình tới
ngoài xã hội, mỗi người đều được giáo dục tu dưỡng, rèn luyện mà nhờ nó
loại trừ hành động phi nhân tính, phi đạo đức, tự giáo dục, tự hoàn thiện đạo
đức cho mình. Đồng thời, các chuẩn mực, quy phạm đạo đức này còn để điều
chỉnh mọi hành vi, suy nghĩ, hành động của con người trong mối quan hệ gia
đình và mở rộng ra quan hệ ngoài xã hội. Nghĩa là, theo các nhà Nho, xây
dựng thể chế xã hội chặt chẽ, từ cấp tế bào vi mô là “đạo trong nhà”, mở rộng
ra là đạo đức quốc gia, xã hội, theo quy tắc đạo đức để giáo dục con người là
một biện pháp cần thiết, hữu hiệu nhất để loại trừ xã hội vô đạo và kiến tạo xã


14
hội ổn định thái bình có đạo đức. Giáo dục đạo lý từ trong nhà là những
phương tiện cơ bản để cải biến con người từ dã nhân, thành thánh thiện thánh
nhân. Ngoài ra, những chuẩn mực, những quy phạm đạo đức ấy còn có vai trò
như một công cụ quan trọng nhất, để củng cố, duy trì trật tự, kỷ cương xã hội.
Chính vì vậy mà, học thuyết đạo đức là một trong những nội dung chủ yếu
của Nho giáo.Trong số các học phái xuất hiện thời kỳ đó, Nho giáo là một học

thuyết chính trị - đạo đức tiêu biểu nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất ở Trung
Quốc, cũng như nhiều nước khác trong khu vực như: Nhật Bản, Triều Tiên,
Singapo. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia tiếp nhận Nho giáo và
chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo, đạo đức Nho giáo, trong đó có đạo đức
gia đình của Nho giáo từ rất sớm.
Khổng Tử (551 - 479 TCN), người sáng lập ra trường phái Nho gia.
Ông là người nước Lỗ, sống trong thời kỳ loạn lạc, được tận mắt chứng kiến
cảnh chiến tranh, cướp bóc. Khổng Tử luôn ôm ấp hoài bão chính trị là xây
dựng xã hội thái bình thịnh trị. Ông cho rằng, phải dùng đức trị, nhân trị, lễ trị
thì xã hội mới “hữu đạo” thịnh trị. Tư tưởng này của ông được các thế hệ học
trò tiếp tục kế thừa và phát triển. Mạnh Tử là người bảo vệ và phát huy tư
tưởng của Khổng Tử, mong muốn dùng thuyết Đức trị để cứu đời, ổn định xã
hội. Ông thấy được vai trò, sức mạnh của đạo đức trong gia đình, chủ trương
phải lấy việc giáo dục, tự giáo dục đạo đức từ trong gia đình ra cả xã hội làm
đường hướng căn bản để xây dựng con người lý tưởng, xã hội lý tưởng. Lời
giáo huấn của ông được các học trò biên soạn thành sách gọi là “Luận Ngữ”
đã có ảnh hưởng rất lớn.
Mạnh Tử (372- 289 Trước công nguyên), Mạnh Tử tên là Mạnh Kha,
tự là Dư Tử, người gốc nước Trâu, thuộc miền Nam tỉnh Sơn Đông Trung
Quốc ngày nay. Ông thuộc dòng tông tộc Mạnh Tôn, Cha là Khích Công
Nghi, Mẹ là Cừu Thị. Khi ông lên ba tuổi thì cha mất, được mẹ nuôi dưỡng,


15
giáo dục lễ nghĩa rất chặt chẽ và chọn chỗ ở gần trường học để con bà học tập
theo lễ nhạc. Về sau ông phát triển tư tưởng Nho giáo lên một trình độ mới và
là một học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử. Để bảo vệ và phát huy tư tưởng
của Khổng Tử, mong muốn dùng thuyết của mình để cứu đời, Mạnh Tử đã đi
khắp các nước chư hầu như nước Tề, nước Lỗ, nước Lương, nước Tống, nước
Đằng để truyền bá tư tưởng, chủ trương “vương đạo nhân chính” của mình.

Nhưng vì thưở ấy vua các nước chỉ lo thực thi bá đạo, lấy việc chiến tranh
thôn tính lẫn nhau, không ai lo để ý đến tu dưỡng đạo đức việc nhân nghĩa, vì
thế ông đi đến đâu cũng không đạt được ý muốn. Ông bắt chước thầy lui về
dạy học và cùng với học trò của mình, biên tập sắp đặt thứ tự trong Kinh Thi,
Kinh Thư, Kinh Lễ, thuật rõ cái ý của Khổng Tử. Học trò ông ghi chép những
lời ông đã bàn luận với các vua chư hầu và những lời phê bình của ông với
các học thuyết khác, làm ra bảy thiên sách có tên sách Mạnh Tử. Sau này đến
đời Tống, Chu Hy, đã xếp cuốn Mạnh Tử là một trong những sách kinh điển
của Nho gia gọi là Tứ Thư gồm Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung.
Trong sách Mạnh Tử đã tiếp tục kế tục và phát triển tư tưởng của Khổng Tử
về đạo đức, ông thấy được vai trò, sức mạnh của đạo đức trong gia đình và đã
chủ trương phải lấy việc giáo dục, tự giáo dục đạo đức từ trong gia đình làm
đường hướng căn bản để xây dựng con người lý tưởng, xã hội lý tưởng.
1.1.2. Tiền đề văn hóa tư tưởng
Cũng giống như các hệ tư tưởng khác, Nho giáo là một học thuyết
chính trị - đạo đức ra đời trên cơ sở hiện thực của xã hội. Chính tiền đề văn
hóa tư tưởng về thực tiễn xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc, là cơ sở trực tiếp
nhất cho sự ra đời của đạo đức Nho giáo nói chung và đạo đức gia đình Nho giáo
nói riêng. Do đó, nền tảng văn hóa đạo đức truyền thống của xã hội Trung Hoa
cũng là cơ sở cho sự ra đời của đạo đức Nho giáo về gia đình.


16
Trung Hoa vốn là một quốc gia rộng lớn, đông dân cư, là cái nôi văn
minh của nhân loại, là một trong ba nền văn minh cổ đại. Theo nhiều nhà
nghiên cứu, chữ viết ở Trung Hoa xuất hiện từ rất sớm, từ khoảng thế kỷ XIII
- XII TCN. Những hiểu biết của người Trung Quốc thời cổ đại cách đây 3000
năm về các lĩnh vực như địa lý, trồng trọt, chăn nuôi, thiên văn học, xây dựng
thiết chế lễ nghi … rất sâu sắc. Đặc biệt, xã hội dựa trên cấu trúc là các dòng
tộc rất lớn, chế độ tông tộc kéo dài. Họ biết làm ra lịch, một năm có 4 mùa,

phát minh này có ý nghĩa lớn đối với sản xuất nông nghiệp. Có nhiều bài
thuốc quý và nhiều cách chữa bệnh hữu hiệu đã được ghi chép vào sách vở.
Khổng Tử kế thừa biên soạn nhiều bộ sách, về sau được coi là kinh điển của
Nho giáo như: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. Những tri thức này là
tiền đề cho sự ra đời các học thuyết triết học, chính trị, đạo đức thời Xuân Thu
- Chiến Quốc, trong đó có tư tưởng Khổng Mạnh là những người sáng lập học
thuyết của Nho giáo và được phát triển thêm ở đời sau, song vẫn bảo lưu các
nguyên lý cơ bản.
Tóm lại, tư tưởng đạo đức gia đình của Nho giáo được hình thành trên
cơ sở đạo đức truyền thống của Trung Hoa đã có từ thời đại trước(Thương,
Hạ). Ngay từ thời Vua Nghiêu, Vua Thuấn đã đặt ra vấn đề truyền ngôi cho
người hiền tài, hay Văn vương - Võ Vương là những người có “đức” được cả
thiên hạ kính nể. Hay Vua Thành nhà Thương (1766 – 1134) là tấm gương về
người có đức, thương dân và không ngừng tu dưỡng bản thân mình nên được
ngôi thiên tử. Trong hoàn cảnh lúc đó, tuy ở Trung Quốc có rất nhiều trường
phái, trào lưu tư tưởng, nhưng đạo đức Nho giáo có sự ảnh hưởng lớn, còn do
nó biết tiếp thu với quan niệm đạo đức của học thuyết khác. Các học thuyết
như Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia cũng đều đề cao kỷ cương đạo đức, xây dựng
đạo đức cho xã hội, cho gia đình và từng cá nhân. Có thể khẳng đinh “Đạo
làm người” Nho giáo là một nội dung tổng hợp cốt lõi của nhiều học thuyết


17
Trung Quốc cổ đại, chính điều này đã làm nên sự truyền thừa riêng biệt của tư
tưởng Trung Quốc so với các triết thuyết phương Tây. Nét khác biệt đó chính
là truyền thống trọng “đức”, đề cao đạo lý làm người. Đề cao giá trị đạo đức
của con người từ trong gia đình ra ngoài xã hội, các chuẩn mực đạo đức là
thước đo chuẩn mực đánh giá giá trị của xã hội, của gia đình và cá nhân.
1.1.3. Quan niệm của Nho giáo về tính người - cơ sở cho quan niệm
đạo đức trong gia đình của Nho giáo

Vấn đề quan niệm về bản tính con người là mối quan tâm được bàn
luận đến nhiều nhất trong Nho giáo, nhất là Khổng Tử và Mạnh Tử. Đây là
vấn đề gắn bó mật thiết với quan niệm về bản chất con người, là những cơ sở
nền tảng để Nho giáo triển khai xây dựng quan niệm về đạo đức nói chung,
đạo đức trong gia đình nói riêng. Khổng Tử nói, bản tính con người khi mới
được cha mẹ sinh ra là kết quả của sự kết hợp âm, dương, trời đất, ngũ hành là
tinh hoa của tất cả nên nó hoàn toàn tốt lành, ngây thơ, trong trắng, thuần
phác, “Nhân chi sinh dã trực” [55,93], “tính tương cận dã, tập tương dã”
[41,269].
Mạnh Tử cho rằng, con người sinh ra đã là một đứa trẻ ngây thơ, trong
trắng, có đạo đức. Sau đó Tuân Tử có đi sâu chỉ ra khía cạnh mang tính bản
năng, thiện ác của con người. Nho gia về sau không được chú trọng phát triển,
mà khuynh hướng chính là chú trọng quan điểm cho con người vốn có tính
thiện, lành. Tuy nhiên, do hoàn cảnh của mỗi người khác nhau, bản tính của
con người bị hoàn cảnh xấu thay đổi. Có thể nói, quan niệm về bản tính người
của Nho giáo là cơ sở, tiền đề cho việc xây dựng quan niệm về đạo đức gia
đình. Như vậy, cần phải tạo ra môi trường thiện lành từ trong gia đình, mở
rộng ra là cả xã hội.
1.2. Một số nội dung cơ bản tƣ tƣởng đạo đức gia đình của Nho giáo
1.2.1. Quan niệm Nho giáo về vai trò đạo đức trong gia đình
 Khái niệm đạo đức theo Nho giáo


18
Trước tiên, trong sách “Luận ngữ” nhiều lần nói đến chữ “đạo” với
nhiều hàm nghĩa. Nội hàm chủ yếu của khái niệm “Đạo” ở đây được hiểu như
là nguyên tắc đạo đức cơ bản trong đối nhân xử thế, để tề gia, trị quốc an dân.
Khổng Tử nói: “Đạo có phép tắc nội dung của nó. Người ta thông qua học
tập, suy nghĩ và hành động mới có thể đạt đến đạo” [41, 53]. Ông còn nhấn
mạnh không chỉ là đạo đức để cai trị quốc gia, là một phẩm chất hàng đầu,

đạo còn là thế giới quan, nhân sinh quan, một chủ trương chính trị, một hệ tư
tưởng nhất định” [41, 54]. Ông cho rằng, con người trong gia đình và xã hội
phải giữ đạo, thích đạo, học đạo và con người phải luôn tuân thủ quy tắc,
phạm trù đạo đức nhất định mới trở thành người có ích cho gia đình, xã hội.
Chữ “Đức” trong Nho giáo chiếm một vị trí rất quan trọng. Nó không
những chỉ là mục đích, phương tiện để tu dưỡng cá nhân, mà còn là mục đích,
phương tiện để cha mẹ giáo dục, giáo huấn con cái trở thành người có đức, có
tài trưởng thành tham gia xây dựng đất nước. Những phạm trù, nguyên lý,
chuẩn mực, nguyên tắc, quy phạm đạo đức trong học thuyết đạo đức Nho giáo
không chỉ phản ánh quan hệ song trung của con người đơn thuần mà nó phản
ánh mối quan hệ đạo đức, nhân cách của con người từ trong gia đình và mở
rộng ra xã hội. Các chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người theo quan niệm
của Nho giáo được đưa ra lần đầu tiên từ quan điểm của Khổng Tử, khi ông
dạy rằng cần có “tam nhân” để đạt đức là: “Nhân, Trí, Dũng”. Đến Mạnh Tử,
ông đưa ra “Tứ đoan”, gồm: trắc ẩn chi tâm; cung kính chi tâm; tu ố chi tâm;
Thị phi chi tâm, tức là lòng thương xót, lòng kính nhường, sự xấu hổ, tính
phân biệt đúng sai, từ đó mà hình thành nên tứ đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Về
sau này thời Hán, Đổng Trọng Thư bổ sung thêm phẩm “Tín” vào hệ thống
chuẩn mực đạo đức xã hội và tạo thành: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín (Ngũ
thường). Đây là phẩm chất đạo đức lý tưởng của người nam giới, người quân


19
tử, đóng vai trò là trụ cột của gia đình, người gia trưởng là chuẩn mực cho các
thành viên dựa vào, noi theo và lấy bản thân để giáo hóa gia tộc.
 Một số phạm trù chuẩn mực đạo đức trong Nho giáo hình thành quan
hệ của các thành viên trong gia đình: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín (Ngũ thường)
đặt trên nền tảng đạo đức bền vững.
Nhân không chỉ một đức tính nào, mà chỉ chung mọi đức tính, người
có Nhân đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất, nên “Nhân” có hàm nghĩa

rộng nhất của đạo làm người. Đạo làm người có hàng ngàn, hàng vạn điều
nhưng chung quy lại chỉ là những điều đối với mình và đối với người, nên
nhân có thể hiểu là cách cư xử đối với mình, cách cư xử đối với người. Do đó,
nó đồng thời quy định mối quan hệ giữa cá nhân với các thành viên trong gia
đình theo nghĩa hẹp, đồng thời giữa con người với con người theo nghĩa rộng.
Người “nhân” là phải “yêu người” ; Người Nhân không thể ích kỉ, không chỉ
vị kỉ mà phải vị tha. Người Nhân phải có Lễ, giữ Lễ; Người Nhân phải tự
khép mình cho phù hợp với danh và thực của họ, phù hợp với Lễ mà gia đình,
dòng tộc, xã hội quy ước. Người Nhân phải khoan thứ, mình muốn thành đạt
thì phải làm cho người khác thành đạt, điều mình không muốn đừng làm cho
“người”.
Nhân được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa hẹp, nhân là một chuẩn
mực đạo đức cụ thể, cơ bản, nền tảng lý tưởng của bậc quân tử, của con
người. Người gia trưởng, bậc quân tử trong gia tộc coi đó là chuẩn mực để
bậc trưởng tôn tu dưỡng và hoàn thiện đạo đức, xứng đáng làm trụ cột trong
gia tộc. Theo nghĩa rộng, nhân bao gồm mọi đức khác cần có của con người
lý tưởng: cách cư xử của con cái đối với cha mẹ, quan hệ vợ chồng, quan hệ
anh em trong gia đình nói riêng, trong toàn dòng họ, với cả xã hội nói chung.
Người có nhân là người tình cảm chân thực, hết lòng vì nghĩa, cho nên nhân


20
bao giờ cũng hiếu đễ, lễ, nghĩa trung thứ. Con người gia trưởng chuẩn mực
thể hiện đức nhân trong tất cả các mối quan hệ của mình, chủ yếu rõ nhất ở
gia đình. Người gia trưởng có nhân trước hết là người con có hiếu với cha mẹ,
không chỉ nuôi dưỡng, chăm sóc mà cốt yếu phải có lòng cung kính lễ phép,
kính trọng, phụng dưỡng cha mẹ, như vậy mới là Nhân. Điều này còn được
khẳng định rõ hơn khi Phàn Trì hỏi Khổng Tử về Nhân, Khổng Tử giảng giải
rằng:“Khi ở nhà thì giữ diện mạo cho khiêm cung; khi làm việc phải thi hành
một cách kính cẩn; khi giao thiệp với người thì phải giữ dạ trung thành. Dẫu

có đi đến các nước rợ Di, Địch cũng chẳng bỏ ba cái đó, như vậy là người có
đức nhân” [41 ,39]. Người quân tử có Nhân phải là người có hiếu, phải thực
hiện ở trong gia đình đó, quan hệ trực tiếp, tự nhiên, huyết thống ruột thịt của
mình, áp dụng rộng rãi ra ngoài xã hội.
Trong bất kỳ mối quan hệ nào trong gia đình, nếu con người đó làm trái
với những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đặt ra như trên, thì bị coi là trái với
đức nhân, là người không có Nhân. Ngoài ra, Nho giáo Khổng - Mạnh cũng
quan niệm, người nào làm theo lễ đó là người Nhân, giữ đức tín là nhân, sống có
nghĩa là nhân, thể hiện đầu tiên và trực tiếp ở trong gia đình.
Nghĩa có quan hệ mật thiết với Nhân, theo quan niệm của các nhà Nho,
Nghĩa là một phạm trù đạo đức, một chuẩn mực đạo đức cơ bản. Nếu Nhân là
để nói về hiểu người, yêu người đối với người, thì Nghĩa là để nói về mình,
chỉnh mình, sửa mình, tự yêu cầu, bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ tự giác
của mỗi người. Phẩm chất Nghĩa là để thực hiện, trả nghĩa, được hiểu là tự
giác cái thuộc về lẽ phải, là trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình, dòng họ
và xã hội. Theo đó Nho giáo cho rằng, tự mỗi người đã đặt lợi ích gia đình,
dòng họ, trách nhiệm xã hội lên trên lợi ích cá nhân, đặt cái quốc gia đại sự
lên trên cái bản thân mình, người quân tử, tự răn, tự giác, luôn luôn hoàn thành


21
bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cảm của mình trong các mối quan hệ gia
đình: nghĩa cha con, nghĩa vợ - chồng, nghĩa anh em mà không cần phải viện
dẫn nhiều tới luật pháp bên ngoài.
Lễ Trong học thuyết đạo đức của Nho giáo, cũng là một phạm trù
chuẩn mực cơ bản và là một biểu hiện ra bên ngoài của đức Nhân. Người
không có lòng Nhân thì sao thi hành được Lễ. Người có đức Lễ cũng đồng
thời có đức Nhân. Về thực chất trong quan niệm của nhà Nho, Lễ dùng để
phân biệt quy định hình thức về tôn ty trật tự, kỷ cương gia đình mà mọi
người, mọi thành viên trong gia đình đều phải học tập và tuân theo, để phân

biệt kỷ cương trong các mối quan hệ cha - con, vợ - chồng, có việc trái việc
phải, được phép làm, và không được phép làm. Đồng thời, Lễ còn là những
chuẩn mực, quy tắc có tính chất bắt buộc đối với con người trong mọi hành
vi, lời nói. Nó thể hiện thái độ, nếp sống, ý thức tôn trọng lễ nghi, trật tự kỷ
cương gia đình. Nó khiến cho tư tưởng đạo đức nhân, nghĩa có hình thức bộc
lộ ra để trở thành quy tắc chi phối hành động của mọi người, được áp dụng
trong toàn gia đình và xã hội. Đồng thời Lễ còn là tiêu chuẩn, là hình thức
bên ngoài quan trọng để đánh giá con người ngay trong gia đình. Các nhà
Nho đã nói: “Sự giáo hoá của Lễ rất lớn, ngăn cấm điều lâm nguy, khi chưa
xảy ra khiến người ta càng gần điều thiện, tránh xa điều ác, mà tự mình
không biết” [12, 186]. Theo Mạnh Tử, Lễ là hình thức biểu hiện của nội dung
Nhân Nghĩa, của việc thực hành đạo làm người theo các bậc khác nhau ứng
với Ngũ Luân. Ông nói: “lễ đối với việc sửa nước cũng giống như cái cân đối
với việc nặng nhẹ, cái dây đối với vật thẳng, vật cong, cái quy củ đối với vật
tròn vật vuông vậy”[66, 48].
Những quy phạm của Lễ đã trở thành cái bắt buộc, là yêu cầu, hình
thức hóa tiêu chuẩn phổ biến trong gia đình, nhằm điều chỉnh hành vi của con
người. Và vì vậy, về sau Lễ mang tính chất gia luật, gia phong, nếp gia tức là

×