Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Đánh giá hiệu quả của vacxin circovac ở đàn lợn nuôi tại trại thành long lương sơn hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.19 MB, 86 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






PHẠM THỊ KIỀU ANH



ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA VACXIN CIRCOVAC
Ở ĐÀN LỢN NUÔI TẠI TRẠI THÀNH LONG
LƯƠNG SƠN - HÒA BÌNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ






HÀ NỘI – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT



HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






PHẠM THỊ KIỀU ANH



ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA VACXIN CIRCOVAC
Ở ĐÀN LỢN NUÔI TẠI TRẠI THÀNH LONG
LƯƠNG SƠN - HÒA BÌNH


CHUYÊN NGÀNH : THÚ Y
MÃ SỐ : 60.64.01.01


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HUỲNH THỊ MỸ LỆ



HÀ NỘI – 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử
dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn


Phạm Thị Kiều Anh









Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi luôn

nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.
Nhân dịp này, trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các
giảng viên khoa Thú y Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã giảng dạy tôi
trong suốt thời gian học tập tại Học viện.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn:
TS.Huỳnh Thị Mỹ Lệ giảng viên bộ môn Vi sinh vật – truyền nhiễm Học viện
Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể anh chị em công
nhân tại trại Thành Long – Lương Sơn – Hòa Bình đã giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới người thân trong gia đình đã luôn giúp đỡ,
động viên giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn


Phạm Thị Kiều Anh




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii

DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vi
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích của đề tài 3
3. Ý nghĩa của đề tài 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Tình hình nghiên cứu về PCV2 4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước về PCV2 4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới về PCV2 5
1.2. Bệnh do PCV2 gây ra và biện pháp phòng bệnh 8
1.2.1. Một số hiểu biết về PCV2 và bệnh do PCV2 gây ra 8
1.2.2. Một số biện pháp phòng bệnh do PCV2 gây ra 15
CHƯƠNG 2 NỘI DUNG, NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 18
2.1. Đối tượng , thời gian và địa điểm nghiên cứu 18
2.1.1. Đối tượng 18
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 18
2.2. Nội dung nghiên cứu 18
2.3. Nguyên liệu 19
2.4. Phương pháp nghiên cứu 20
2.4.1 Phương pháp thu thập số liệu và phân tích số liệu 20
2.4.2. Phương pháp lấy mẫu 20

2.4.3. Phương pháp ELISA xác định kháng thể kháng PCV2 20

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.4.4. Phương pháp theo dõi một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của đàn

lợn con 24
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 25
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 27
3.1. Điều tra tình hình một số bệnh thường gặp ở lợn tại trại 27
3.1.1. Tình hình chăn nuôi của trại 27
3.1.2. Tình hình dịch bệnh từ năm 2010 – 2013 39
3.2. Đánh giá hiệu quả trong thử nghiệm vacxin phòng bệnh gầy còm sau
cai sữa. 44
3.2.1. Kiểm tra hiệu giá kháng thể kháng PCV2. 44
3.2.2. Đánh giá tăng trọng của lợn con thí nghiệm. 48
3.2.3. Kết quả theo dõi tình hình dịch bệnh của lợn con thuộc 2 lô thí nghiệm
và đối chứng 55
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 58
1. Kết luận. 58
2. Kiến nghị 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
PHỤ LỤC 64



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Cơ cấu đàn lợn của trại Thành Long. 29
Bảng 3.2. Khẩu phần ăn và chế độ ăn của các loại lợn tại trại Thành Long 33
Bảng 3.3. Lịch phòng bệnh bằng vacxin 37
Bảng 3.4. Lịch phòng bệnh bằng thuốc 38
Bảng 3.5. Tình hình dịch bệnh ở đàn lợn nái của trại qua 4 năm 2010-2013 40

Bảng 3.6. Tình hình dịch bệnh ở đàn lợn con qua 4 năm 2010 – 2013 41
Bảng 3.7. Số mẫu huyết thanh được thu thập 44
Bảng 3.8. Tỷ lệ phát hiện kháng thể kháng PCV2 trong huyết thanh lợn 45
Bảng 3.9. Hiệu giá kháng thể kháng PCV2 ở lợn 47
Bảng 3.10. Tình hình sinh sản của nái 2 lô thí nghiệm và đối chứng 48
Bảng 3.11. Khối lượng lợn con lúc sơ sinh 50
Bảng 3.12. Khối lượng lợn con lúc cai sữa 51
Bảng 3.13. Khối lượng lợn con 60 ngày tuổi 52
Bảng 3.14. Khối lượng lợn con 90 ngày tuổi 53
Bảng 3.15. Tổng hợp kết quả theo dõi tăng trọng của lợn con 54
Bảng 3.16. Tình hình dịch bệnh của lợn con 55


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CP : Charoen Pokphand Việt Nam
Cs. : Cộng sự
DTL : Dịch tả lợn

ĐC : Đối chứng
IM : Tiêm bắp
KT : Kháng thể
KST : Ký sinh trùng
LMLM : Lở mồm long móng
MH : Minh Hiếu
P : Thể trọng
PCV2 : Porcine Circovirus type 2

PCVAD : Porcine Circovirus type 2 – asociated
PDNS : Porcine dermatitis and nephropathy syndrome
PED : Porcine Epidemic Diarrhea
PMWS : Postweaning multisytemic wasting syndrome
PRRS : Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome
TN : Thí nghiệm
TB : Trung bình


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của người dân được nâng cao,
nhu cầu thực phẩm từ sản phẩm động vật ngày càng chiếm tỷ lệ lớn do đó
chăn nuôi được đẩy mạnh và phát triển. Ngành chăn nuôi lợn đã cung cấp cho
thị trường thực phẩm 40% tổng sản lượng thịt.
Ngày nay với trình độ khoa học kỹ thuật phát triển theo xu thế hội nhập
thì nhu cầu về thịt lợn ngày một tăng. Đặc biệt là thịt lợn hướng nạc, có hàm
lượng dinh dưỡng cao với những đòi hỏi chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hình thức chăn nuôi tập trung quy mô lớn có vốn đầu tư nước ngoài,
các trang trại chăn nuôi lợn ngày càng phát triển. Những giống lợn ngoại có
khả năng sinh trưởng, phát triển nhanh nhưng khả năng thích nghi với điều
kiện ngoại cảnh và chống chịu bệnh tật kém. Đây là vấn đề rất khó khăn mà
các trang trại chăn nuôi thường gặp.
Hiện nay vấn đề dịch bệnh đang diễn ra rất phức tạp, có nhiều bệnh
mới xuất hiện rất khó kiểm soát gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Trong
đó phải kể đến bệnh do Porcine Circovirus type 2 ( PCV2), dịch tiêu chảy ở

lợn do Porcine Epidemic Diarrhea Virus (PEDV), Porcine Reproductive and
Respiratory Syndrome – hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp (PRRS) đã gây
những thiệt hại không nhỏ cho người chăn nuôi.
Mục đích cuối cùng của ngành công nghiệp chăn nuôi lợn là đạt được
hiệu quả kinh tế cao nhất. Tuy nhiên, Porcine circovirus type 2 (PCV2) là
nguyên nhân khởi phát gây các hội chứng liên quan tới PCV2 ( Procine
circovirus type 2-asociated, PCVAD) làm thiệt hại kinh tế nghiêm trọng.
PCV2 có liên quan đến Hội chứng gầy còm ở lợn sau cai sữa (postweaning
multisytemic wasting syndrome – PMWS); Hội chứng viêm da và viêm thận(
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

Porcine dermatitis and nephropathy syndrome – PDNS); Hội chứng viêm
đường hô hấp (Porcine respiratory diseases complex) và Hội chứng rối loạn
sinh sản ở lợn (Porcine reproductive disorders); làm giảm sức sản xuất của
đàn lợn. Hội chứng gầy còm ở lợn sau cai sữa hay có tên gọi khác là Hội
chứng 30kg (The 30kg syndrome) do lợn bệnh chỉ đạt khối lượng khoảng
30kg trong khi lợn bình thường cùng lứa tuổi có thể đạt 100kg. Thiệt hại kinh
tế do PCV2 gây ra ước tính khảng 600 triệu Euro/ năm đối với khối EU (
Segales và cs., 2011).
PCV2 là tác nhân gây suy giảm hệ thống miễn dịch, cùng với các tác
nhân gây bệnh khác gây nên hội chứng bệnh liên quan đến PCV2 (PCVAD)
gồm: Hội chứng còi cọc trên lợn sau cai sữa (PMWS), hội chứng viêm da và
sưng thận trên lợn (PDNS), tổ hợp bệnh hô hấp trên lợn (PRDC), viêm phổi
hoại tử tiến triển trên lợn (PNP) (Allan và Ellis, 2000).
Ở Việt Nam, PCV2 được phát hiện ở một số tỉnh phía Nam từ năm
2000 với tỷ lệ nhiễm 38,97% nhưng đến năm 2006 tỷ lệ nhiễm đã tăng đến
96,47% (Nguyễn Thị Thu Hồng, 2006).
Năm 2012, Huỳnh Thị Mỹ Lệ và cs. đã xác định được sự lưu hành và
genotype của PCV2 ở đàn lợn nuôi tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam.

Thực trạng chăn nuôi lợn ở nước ta hiện nay đã tạo môi trường hết sức
thuận lợi cho việc thường xuyên tồn tại nhiều mầm bệnh PCV2 trong đàn; cộng
thêm sự xuất hiện của virus gây Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản từ năm
2007 đã làm cho tình hình dịch bệnh càng trở nên phức tạp. Việc sử dụng
vacxin được coi là biện pháp hữu hiệu để hạn chế thiệt hại do bệnh gây ra.
Hiện nay trên thị trường Việt Nam có rất nhiều vacxin để phòng bệnh do
PCV2 gây ra, tuy nhiên hiệu quả chưa được làm rõ. Do vậy nghiên cứu hiệu
quả sử dụng vacxin trong phòng bệnh còi cọc ở lợn là hoàn toàn cần thiết.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Để nâng cao hiệu quả ngành chăn nuôi nói chung, chăn nuôi lợn nói
riêng, hoàn thiện hơn công tác thú y trong phòng và điều trị bệnh trên đàn lợn,
đồng thời với mong muốn có một nghiên cứu kiểm nghiệm chính xác về hiệu
quả sử dụng của vacxin circovac trong việc phòng ngừa “ Hội chứng còi cọc
ở lợn sau cai sữa”, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiệu quả của vacxin circovac ở đàn lợn nuôi tại trại
Thành Long – Lương Sơn – Hòa Bình”.
2. Mục đích của đề tài
Bước đầu đánh giá được hiệu quả của vacxin circovac phòng hội chứng
còi cọc lợn con sau cai sữa ở đàn lợn do Circovirus gây ra tại trại Thành Long
– Lương Sơn.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vacxin trong phòng bệnh
- Có thể đưa ra được kế hoạch sản xuất, tiêm phòng hợp lý, hiệu quả và
tiết kiệm.













Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu về PCV2
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước về PCV2
Ở Việt Nam, PCV2 được phát hiện ở một số tỉnh thành phía Nam từ
năm 2000 với tỷ lệ nhiễm 38,97% nhưng đến 2006 tỷ lệ nhiễm đã tăng đến
96,47%, chứng tỏ PCV2 đang lưu hành phổ biến trong chăn nuôi lợn (Nguyễn
Thị Thu Hồng và cs., 2006) và là một trong những nguyên nhân gây còi cọc
lợn con cai sữa ở một số trại lợn tại thành phố Hồ Chí Minh ( Nguyễn Thị
Thu Hồng và cs., 2010). Một số nghiên cứu của các tác giả như Lam Thu
Huong và Duong Chi Mai (2006); Lê Tiến Dũng (2006) đều cho thấy có sự
lưu hành của PCV2 ở đàn lợn nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh (Nguyễn Thị
Thu Hồng và cs., 2008).
Theo kết quả khảo sát của Lâm Thị Thu Hương và Đường Chi Mai
(2006) tại một số trại lợn công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ
cận cho biết tỷ lệ nhiễm PCV2 trên lợn khá cao: 7 trại nhiễm trên 9 trại khảo
sát và tỷ lệ nhiễm ở các trại biến động từ 1,25- 83,33%.
Nguyễn Thị Thu Hồng và cs. (2006) khảo sát 988 mẫu huyết thanh

của lợn nái ở một số tỉnh thành phía Nam cho biết: tỷ lệ nhiễm PCV2 xuất
hiện ở Việt Nam ít nhất từ năm 2000 và tỷ lệ nhiễm tăng dần: 38,97% năm
2000; 84,90% năm 2003 và 90,26% năm 2005.
Lê Tiến Dũng (2006) khảo sát trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cho
biết bằng kỹ thuật PCR đã phát hiện 50,77% (33/65) lợn còi dương tính với
PCV2 tại 17/22 trại khác nhau của 5/6 địa bàn lấy mẫu.
Nguyễn Thị Thu Hồng và cs. (2008) phân lập được 2 mẫu virus PCV2
trên lợn còi cọc sau cai sữa. Các PCV2 phát hiện ở Việt Nam khá tương đồng
với nhau trên 96%, và tương đồng với các chủng từ Trung Quốc. Virus PCV2
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

phân lập từ thực địa có thể gây nhiễm, nhân lên và kích thích sinh miễn dịch
trên lợn thí nghiệm.
Nguyễn Tiến Hà (2008) kiểm tra 1073 mẫu huyết thanh lợn đực giống
và lợn nái ở 8 tỉnh thành phía Nam trong các năm 2000-2006; tỷ lệ huyết thanh
dương tính chiếm 38,9% năm 2000 và 96,47% năm 2006 (Trích theo Nguyễn
Thị Thu Hồng và cs., 2010).
Trần Thị Dân và cs. (2010) cho biết: lợn được chủng ngừa vacxin thể
ORF2 không thay đổi các chỉ tiêu huyết học và ít bệnh tích liên quan PCV2 so
với lợn không tiêm. Hiệu quả kinh tế được cải thiện ở lô đối chứng trong điều
kiện trại bị nhiễm Cicrovirus.
Nguyễn Thị Thu Hồng và cs. (2010) so sánh hiệu giá kháng thể virus
dịch tả lợn và kháng PCV2, không nhận thấy ảnh hưởng của PCV2 đến hiệu
quả miễn dich sau tiêm phòng vacxin dịch tả lợn. Điều này rất có ý nghĩa là
loại được nguyên nhân nghi ngờ có ảnh hưởng đến hiệu quả miễn dịch sau tiêm
phòng vacxin dịch tả lợn trên đàn lợn có sự hiện diện của PCV2.
Tại Viện Thú y, theo chương trình nghiên cứu năm 2011 – 2012,
Nguyễn Viết Không và cs. tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng nhiễm Porcine
circovirus 2 (PCV2) ở lợn đến đáp ứng miễn dịch tiêm phòng vacxin dịch tả

lợn và biện pháp khắc phục. Kết quả bước đầu cho thấy đã xác định và phân
lập được PCV2 ở đàn lợn nuôi tại một số tỉnh như Hà Nội, Bắc Giang, Hà
Nam, Phú Thọ (tài liệu trao đổi cá nhân).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới về PCV2
Hiện nay, PCV2 được ghi nhận ở rất nhiều nước trên thế giới. Các kết
quả nghiên cứu đã xác định được sự lưu hành, phân lập cũng như đánh giá
được đặc tính di truyền của PCV2. Một số nghiên cứu có thể được thống kê
như sau:
Nhật Bản: Shibahara T và cs., năm 2000 đã chứng minh rằng sự suy
giảm tế bào bạch huyết với cơ chế apoptotic tế bào lympho B là do PCV2.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

Họ cho rằng một số cơ quan dung giải tế bào là do cơ chế này. Như vậy,
PCV2 kích thích sự phát triển hội chứng gầy mòn trên lợn con sau cai sữa
(PMWS) bằng cơ chế gây suy giảm hệ thống miễn dịch.
Thái Lan: Những trường hợp đầu tiên của PMWS được mô tả ở Thái
Lan vào năm 1998 nhưng có nghiên cứu chỉ ra đã phát hiện PMWS trên lợn từ
năm 1993. Dựa vào phương pháp PCR khảo sát sơ bộ tỷ lệ nhiễm PCV2 ở Thái
Lan là 10%. Phân loại các chủng PCV2 dựa trên nucleotide 262-267 của các
trình tự ORF2 phát hiện tại Thái Lan PCV2 đang tồn tại một subtype mới là
PCV2e. Trong đó dường như hai subtype PCV2b và PCV2e (PCV2b chiếm ưu
thế) đang tồn tại trong đàn lợn của Thái Lan.
Trung Quốc: Từ tháng 5-2003 đến tháng 8-2005 Zong Z.Y. và cs. đã
tiến hành thu thập ngẫu nhiên 1250 mẫu huyết thanh và các mẫu mô lợn nghi
nhiễm PCV2 bao gồm: lách, gan, hạch bạch huyết từ 6 quận huyện ở Hàng
Châu, tỉnh Chiết Giang. Sử dụng phương pháp ELISA đã phát hiện thấy 40%
mẫu huyết thanh dương tính với PCV2. Đồng thời, bằng phương pháp PCR
trên các mẫu mô cho thấy tại Hàng Châu đang lưu hành ngoài chủng PCV2
Trung Quốc còn lưu hành rộng rãi các chủng PCV2 khác trên thế giới như: Hà

Lan, Canada, Mỹ, Đức và Vương Quốc Anh.
Jun L. cùng một nhóm tác giả năm 2010 đã gây nhiễm trên 48 chuột
chủng Côn Minh cho thấy virus nhân lên trong chuột, chuột chết sau 7, 14, 28
và 42 ngày gây nhiễm tương ứng. Bằng phương pháp PCR tìm thấy kháng thể
trong huyết thanh chuột gây nhiễm, virus PCV2 trong mô bạch huyết chuột.
Tổn thương vi thể do PCV2 tập trung và gây suy giảm chức năng các hạch
bạch huyết, thỉnh thoảng thấy hoại tử tế bào lympho, vỏ não và hành tủy ở
những con chuột được gây nhiễm.
Hàn Quốc: Theo Kwang S.L. (2009) phương pháp nested-PCR (nPCR) nhạy
hơn phương pháp PCR thông thường gấp 104. nPCR ngoài giúp phân biệt 2 loại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

virus PCV1 và PCV2 còn giúp phân biệt trong trường hợp nhiễm kép khác.
Từ năm 2008, Hàn Quốc bắt đầu sử dụng vacxin phòng circovirus. Đến
nay, kết quả cho thấy đã giảm về số lợn nái phải loại bỏ cũng như lượng kháng
sinh phải dùng. Ước tính giúp tăng khoảng 518 triệu USD hàng năm cho tổng
số lợn ở các trang trại của Hàn Quốc.
Pallares F.J. và cs. ( 2002) phân tích hồi cứu các trường hợp PMWS tại
Mỹ cho biết chỉ 1,9% nhiễm PCV2 trong tổng số các ca khảo sát ở lợn còi cọc
sau cai sữa. Các trường hợp khác phát hiện có 35,5% PCV2 nhiễm kèm
Mycoplasma hyopneumoniae, 51,9% trường hợp PCV2 nhiễm kèm PRRSV.
Khi tiến hành kiểm tra lợn 1-2 ngày tuổi tại 4 trại miền Trung- Tây Hoa
Kỳ cho thấy lợn chỉ nhiễm PCV loại 2. PCV2 nhiễm hầu hết trong các mô bào
nhưng tập trung nhiều nhất trong gan và hệ thống thần kinh trung ương. Não và
tủy nhiễm nhiều hơn mô thần kinh khác.
Mexico: Từ năm 1972-2000, một nghiên cứu tại Mexico khi các tác giả
thu thập 659 mẫu huyết thanh, sử dụng kỹ thuật miễn dịch peroxidase trên tế
bào một lớp (IPMA) đã phát hiện kháng thể PCV2 trong 59% (387/659) số
mẫu. Trong đó 27% (24/90) mẫu trong giai đoạn 1972-1979, 44% (74/169) mẫu

trong giai đoạn 1980-1989 và 72% (289/400) mẫu trong giai đoạn 1990-2000.
Bằng chứng này chỉ ra rằng PCV2 có từ trước khi người ta phát hiện ra virus tại
Mexico.
Phân tích tích trình tự PCV2 từ các vùng khác nhau, kết quả cho thấy tại
Mexico tồn tại 2 subgenotypes a và b, các virus này tương đồng 89-99%
Ireland: Allan G.M. và cs. đã phát hiện ra PCV2 từ mẫu phân từ các trại
lợn ở Bắc Ireland tháng 8 năm 2005. Bằng phương pháp PCR cho thấy ở đảo
Ireland lưu hành ít nhất hai nhóm PCV2. Không thấy xuất hiện mối quan hệ
giữa nhiễm trùng hai nhóm PCV2 trong tiến triển bệnh PMWS.
Canada: John C.S.H. năm 1998 đã xác định dịch tễ học và triệu chứng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

lâm sàng của lợn mắc PMWS: Ở lợn sau cai sữa tỷ lệ tử vong đạt mức cao nhất
vào tháng 9 của dịch (7,67%), sau đó trở lại 16 tháng sau với tỷ lệ 2,1% -2,5%.
Các nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất là còi cọc (giảm cân, hốc hác), vàng
da (bệnh gan) và khó thở (bệnh đường hô hấp).
Bằng phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp trên tế bào thận lợn PK-
15 nhiễm PCV, trên tế bào PK-15 nhiễm PCV1 và PCV2. Kết quả thu được sau
3 năm nghiên cứu là tỷ lệ huyết thanh dương tính với PCV2 nhiều hơn PCV1,
PCV2 là loại PCV lưu hành chính và lưu hành ít nhất trong 10 đàn lợn tại
Canada trước khi hội chứng PMWS được báo cáo.
Thụy Điển: Năm 2008 Per Wallgren đã tiến hành nghiên cứu 40 lợn
trung bình 37,5 ngày tuổi, theo dõi trong 55 ngày; trong huyết thanh lợn bệnh
không có kháng thể đủ để chống lại mầm bệnh. Số lượng PCV2 lớn hơn trong
lợn mắc bệnh nặng và trong giai đoạn đầu so với lợn khỏe mạnh. Ở 18/34 lợn
không có dấu hiệu lâm sàng PMWS có 10
7
ADN PCV2/ml huyết thanh, có thể
chúng mới bắt đầu sinh miễn dịch chống lại mầm bệnh.

Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu của các nước khác
thuộc Châu Á (Malaysia, Đài Loan, Philipin…), Châu Âu (Áo, Bỉ, Pháp…),
Nam Mỹ (Achentina, Brazil…).
1.2. Bệnh do PCV2 gây ra và biện pháp phòng bệnh
1.2.1. Một số hiểu biết về PCV2 và bệnh do PCV2 gây ra
1.2.1.1. Lịch sử căn bệnh
Porcine circovirus (PCV) được phát hiện lần đầu tiên năm 1974 có kích
thước và hình dạng là một “hạt virus giống như picornavirus” tức là nó cùng
họ với virus gây lở mồm long móng và không gây bệnh (Allan và cs., 2000).
Năm 1991 báo cáo đầu tiên về hội chứng PMWS xác định vai trò của
PCV2 tại miền Tây Canada, sau đó lần lượt được xác định ở Bắc Mỹ, châu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

Âu, châu Á. Tuy nhiên, bệnh đã là vấn đề nghiêm trọng ngay từ trước những
năm 90 (Allan, 2000).
Năm 1995 các nhà phân loại học đã chỉ ra họ của virus PCV là
Circoviridae dựa trên các cấu trúc đặc trưng của virus. Các thành viên khác
của họ virus có thể gây bệnh: bệnh trên chim, bệnh tích ở mỏ và lông vũ trên
vẹt, bệnh thiếu máu ở gà và bệnh trên chim bồ câu (Ellis, 2003).
Năm 1997, nhóm nghiên cứu thuộc đại học Saskatchewan đã phân lập
được PCV2 từ những ca PMWS. Trình tự nucleotide của PCV1 và PCV2
giống nhau dưới 80% và trình tự aminoacid dưới 70%, đặc tính kháng nguyên
của 2 loại virus này cũng có nhiều điểm khác nhau (Nguyễn Thị Thu Hồng và
cs., 2006).
Nghiên cứu hồi cứu mẫu huyết thanh đã tìm ra kháng thể với PCV2 rất
sớm từ năm 1969 ở Belgium,1970 tại Anh, 1973 tại Ireland và 1985 Tây Ban
Nha. Kháng thể với PCV2 tìm thấy trong 13,6% từ mô liên kết từ lợn tại
Canada năm 1985, dương tính với virus PCV2 tăng đến 72,4% năm 1989, và
66,7% năm 1997 (J. Gillespie và cs., 2009).

1.2.1.2. Sức đề kháng:
PCV2 có sức đề kháng cao với nhiệt độ cao, formalin, pH thấp. Có thể
duy trì tính gây nhiễm trong điều kiện pH<2 nhưng giảm đi đáng kể ở pH= 11,
gần như biến mất tại pH=12. Tính gây nhiễm của virus giảm ở 56
0
C và không
còn ở 70
0
C trong 6 hoặc 24 giờ. Trong điều kiện khô, virus chịu được nhiệt độ
120
0
C trong 30 phút. Trong điều kiện ướt, virus còn sống ở nhiệt độ 75
0
C trong
15 phút và bị diệt ở 80
0
C trong 15 phút. Có thể phân lập virus trong mẫu bệnh
phẩm bảo quản ở -70
0
C (Kwang, 2009; Welch và cs., 2006).
Virus khó bị tiêu diệt bằng thuốc tẩy rửa chứa lipit hoà tan, iodine và
phenol nhưng không hoạt động bởi các chất tẩy kiềm (sodium hydroxide), tác
nhân oxyt (sodium hypochlorite), hỗn hợp 1/4 ammonium, 2% các chất diệt
trùng hỗn hợp 1 (20% glutaraldehyde, 12% 2-propenal, polymer với
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

formaldehyde), hỗn hợp 2 (55 acid formic%, 7% glyoxylic acid) sau 120 phút ở
20
0

C, nhưng tác dụng rất kém ở 10
0
C (Meehan và cs., 1998). Do virus có tính
đề kháng cao, ngay trong điều kiện khử trùng rất cao và vẫn có thể tìm thấy
trong huyết tương lợn sau điều trị, ngay cả với chloroform. Virus có thể sống
sót lâu dài trong môi trường ô nhiễm (Kwang, 2009; Welch và cs., 2006).
1.2.1.3.Cơ chế sinh bệnh:
Tế bào đích của PCV là tế bào đơn nhân lớn, tế bào đại thực bào và các
tế bào trình diện kháng nguyên, tế bào đuôi gai; ở mức thấp hơn là các tế bào
biểu mô ống thận, tế bào phế quản và tế bào tiểu phế quản; ngoài ra, các tế
bào nội mô, tế bào gan, tế lympho khác cũng là tế bào đích (Krakowka và
Ellis, 2002).
Tế bào lympho nhiễm virus làm thay đổi hình thái vi thể của các nang
bạch huyết và các hạch bạch huyết, hạch amidan, mảng Peyer và lách. Sự thâm
nhiễm PCV2 trong tế bào thực bào và tế bào võng lưới nội mô và các tổn
thương u hạt do miễn dịch tế bào là đặc trưng của lợn mắc PMWS (Krakowka
và Ellis, 2002).
Trong dòng tế bào đại thực bào, tế bào đại thực bào phế nang là tế bào
đích đầu tiên của PCV2. Các đại thực bào nhiễm PCV2 giảm khả năng kiểm
soát sự xâm nhiễm các virus khác, các tế bào đại thực bào phế nang nhiễm
PCV2 giảm khả năng sản sinh O
-
, hệ thống miễn dịch tại mô phổi, đặc biệt ở
những con lợn mắc PMWS, suy giảm, con vật dễ dàng nhiễm các tác nhân gây
bệnh khác (Carl và cs., 2007).
Capside protein hoặc chính DNA của PCV2 ngăn cản quá trình tiêu hóa
nội bào (endocytic) trong tế bào võng lưới nội mô (dendritic cell), làm suy yếu
khả năng truyền tín hiệu “nguy hiểm” và do vậy làm suy yếu hệ thống miễn
dịch bẩm sinh. Tế bào võng lưới nội mô đóng vai trò then chốt trong quá trình
xâm nhập của PCV2. Virus PCV2 in vitro xâm nhập tế bào đơn nhân dòng

3D4/31 (từ phế nang lợn) thông qua quá trình tiêu hóa nội bào (clathrin-
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

mediated Endocytosis) và trong môi trường axít (McCullough và cs., 2009).
1.2.1.4.Dịch tễ học
* Loài mắc bệnh
Trong tự nhiên, virus PCV có mặt trên toàn thế giới gây bệnh cho cả lợn
nhà và lợn rừng (Ellis, 2003).
Tỷ lệ mắc bệnh với PMWS thấp ở những thuần chủng hoặc lợn lai giữa
giống Pietrain với giống lai Large White Duroc. So sánh giữa ba giống lợn
Landrace, Duroc, Large White, kết quả cho thấy ở lợn Ladrace xu hướng
nhiễm và tổn thương bệnh lý do PCV2 là lớn nhất và khả năng sinh kháng thể
thụ động để bảo vệ cơ thể chậm. Lợn đực thiến mắc bệnh cao hơn lợn nái
(Meehan và cs., 1998).
Ellis và cs. (2001) đã chứng minh ngựa, trâu, bò thịt, bò sữa không cảm
nhiễm với căn bệnh. Không thấy bệnh tích đại thể và vi thể, không phát hiện
kháng nguyên trong các mô sau khi gây nhiễm vào cừu hoặc bê.
Chuột nhắt và chuột nhà quanh những trại lợn mắc bệnh dương tính với
PCV2 và kháng thể được tìm thấy trong huyết thanh chuột gây nhiễm. Không
phát hiện thấy kháng thể Porcine Circovirus ở người, nhưng không hoàn toàn
không quan tâm trong những trường hợp như ghép thận, đặc biệt là những
người tương lai sẽ cấy ghép các cơ quan nội tạng của con vật (Ellis, 2003).
* Lứa tuổi mắc bệnh
Hội chứng PMWS do PCV2 thường gây bệnh ở lợn 2-17 tuần tuổi, chủ
yếu ở lợn 2-5 tuần tuổi, tại thời điểm lợn con không còn bú sữa mẹ, không còn
được nhận kháng thể từ mẹ. Trong lứa tuổi mắc bệnh không có sự ảnh hưởng
của tuổi đến số lượng virus trong huyết thanh và mức tổn thương mô bào
(T.Opriessnig và cs., 2008).
Virus tìm thấy trong tinh dịch lợn đực dưới 71 tuần tuổi, nhưng không

tìm thấy sự cư trú của chúng trong tinh dịch lợn ở 71 đến 149 tuần tuổi (J.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Gillespie và cs., 2009).
*Chất chứa virus
Virus có trong dịch mũi, phân lợn nhiễm bệnh, trong bụi, nước tiểu,
dụng cụ chăn nuôi. Bài tiết qua nước bọt, nước mắt lúc 31 ngày sau khi gây
nhiễm thử nghiệm virus. (J. Gillespie và cs., 2009).
Ở lợn đực gây nhiễm, virus được tìm thấy sau 5-35 ngày trong tinh dịch.
Virus PCV2 xuất hiện trong máu lợn nái mang thai sau 7-14 ngày sau thụ tinh
nhân tạo (tinh nhiễm PCV2), trong lợn con chết lưu, thai bị sảy, và lợn yếu khi
sơ sinh, trong tử cung lợn nái mang thai là nguyên nhân gây ra sảy thai. Trong
huyết thanh trong nghiên cứu thấy rằng DNA PCV không xuất hiện trong huyết
thanh sau 1 ngày gây nhiễm. Khi gây nhiễm hỗn hợp 2 chủng PCV2a và
PCV2b thì số lượng DNA PCV2 không khác khi nhiễm đơn 1 trong 2 chủng
này (T.Opriessnig và cs., 2008).
Virus có trong cơ tim và nhiều mô bào bị tổn thương khác trong thai lợn
bị sảy, chết lưu và thai gỗ (Allan, 2006).
Kháng nguyên và acid nucleic PCV2 thường được tìm thấy trong các hạch
lympho sưng lớn (100%), 88% ở lách, 64% tại phổi, 35% tại thận và 15% tại gan
cũng tìm thấy trong các đại thực bào tại trung tâm của các ổ viêm, biểu mô đường
hô hấp, tế bào biểu mô, niêm mạc và hạ niêm mạc ruột non (Kwang, 2009).
* Vùng phân bố, tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết
Trên thế giới:
PMWS đã được chẩn đoán trên tất cả năm châu lục. PCV2 phân lập
được ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Đông Nam Á, trên tất cả các đàn lợn trên toàn thế
giới. Tỷ lệ nhiễm PCV2 trên lợn phổ biến hơn so với PMWS (Ellis, 2003)
Trong một nghiên cứu ở Nhật năm 2007, có tới 50,4 % số đàn bị nhiễm
PCV2 và 23,4 % cá thể dương tính với DNA virus PCV2. Ở Canada tỷ lệ lợn

chết sau cai sữa do PMWS là 6,7 ±5,1% cao nhất lên tới 18%. Tỉ lệ tử vong
bình thường ở lợn con là 2-3%, có thể tăng lên 14-30% ở những đàn nhiễm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

PCV2 (Harding, 1998; Kawashima và cs., 2007).
Tại Việt Nam: tỷ lệ nhiễm PCV2 tăng từ 38,97% năm 2000 đến 90,26% năm
2005 và 60% trong mẫu thu từ lợn trong dịch bệnh sốt cao liên quan đến PRRS.
Tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào quá trình chăm sóc, quản lý và vệ sinh thú
y tại trang trại, con giống, việc xác định và cách ly lợn bệnh (Trần Thị Dân và
cs., 2010).
Đường truyền lây: PMWS lúc đầu xuất hiện ở một khu nhất định, nhưng
lây lan nhanh chóng toàn bộ khu vực do vận chuyển lợn không có triệu chứng
(nhưng nhiễm PCV2). Bệnh lây truyền trong bán kính khoảng 2-3km, lây từ
lợn rừng sang lợn nhà và ngược lại (Meehan và cs., 1997).
PCV2 có thể truyền ngang qua tiếp xúc trực tiếp miệng mũi, qua
không khí, gió, bụi, qua dụng cụ chăn nuôi, quần áo, ủng ô nhiễm và truyền
dọc từ lợn mẹ sang con, qua phối giống tinh dịch lợn đực nhiễm bệnh
(Zvonimir và cs., 2010).
PCV2 có thể gây nhiễm cho lợn qua tiêm bắp hoặc qua xoang mũi, gây
bệnh cho chuột Côn Minh qua đường uống, tiêm, tiếp xúc trực tiếp (Jun Li và
cs., 2010).
1.2.1.5.Triệu chứng, bệnh tích:
PCV2 được coi là nguyên nhân gây hội chứng còi cọc sau cai sữa
(Postweaning Multisystemic Wasting Syndrome – PMWS). Một số trường
hợp khác là hội chứng viêm da thận (Porcine Dermatitis and Nephropathy
Syndrome – PDNS), hội chứng rối loạn hô hấp (Porcine Respiratory Disease
Complex – PRDC), hội chứng rối loạn sinh sản ở lợn PCV2 – Associated
Reproductive Failure), hội chứng viêm ruột ở lợn (PCV2 – Associated
Enteritis) Hiện nay tên gọi phổ biến để mô tả các bệnh liên quan đến PCV2 là

“hội chứng liên quan đến PCV2 (PCVAD)”.
Triệu chứng đặc trưng của PMWS là hiện tượng còi cọc, da nhợt nhạt,
thở khó, đôi khi bị ỉa chảy (phân sẫm màu) và có chứng hoàng đản. (Nguyễn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Bá Hiên và cs., 2012). PMWS thường xảy ra ở lợn từ 7 – 16 tuần tuổi (tại
Mỹ) và 5 – 12 tuần tại Châu Âu. Bệnh tích đặc trưng thường quan sát được là
các hạch lympho bị sưng to trong giai đoạn đầu của bệnh. Phổi có thể sưng to,
dai chắc như cao su, tương ứng với bệnh tích vi thể viêm kẽ phổi. Nhiều
trường hợp phế quản bị viêm tơ huyết (Nguyễn Bá Hiên và cs., 2012).
Hội chứng viêm da thận PDNS được phát hiện lần đầu tiên tại Mỹ năm
1993 và được xác định có liên quan đến PCV2 vào năm 2000. Bệnh có thể
gây chết trong vòng 3 ngày, thường xảy ra ở lợn thịt và lợn trưởng thành (11 -
14 tuần tuổi); nhưng đôi khi lợn con 5 tuần tuổi cũng có thể bị bệnh. Bệnh
xảy ra thường ghép với một số mầm bệnh khác như PRRSV, Pasteurella
multocida, Streptococcus suis type 1 và 2 Triệu chứng lâm sàng của lợn
mắc PDNS gồm lợn mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, sốt (41
0
C) hoặc không sốt, nằm một
chỗ, lười vận động và/hoặc đi lại khó khăn, cứng nhắc. Triệu chứng rõ nhất là
trên da xuất hiện những đám phát ban có màu đỏ tía, không có hình dạng nhất
định, bắt đầu ở vùng chân sau và mông, có trường hợp nốt ban lại phân tán
khắp cơ thể. Bệnh tiến triển, hình thành đám vẩy sẫm ở những nơi có bệnh
tích, sau đó nhạt màu dần, đôi khi để lại sẹo (Nguyễn Bá Hiên và cs., 2012).
Khi lợn chết thể cấp tính, hai bên thận sưng to, trên bề mặt có nốt màu
trắng, phù thũng bể thận, tương ứng với bệnh tích vi thể là viêm hoại tử có mủ
tiểu cầu thận và viêm kẽ thận. Hạch lympho thường bị sưng to, có màu đỏ.
Lách bị nhồi huyết.
Hội chứng rối loạn sinh sản ở lợn chủ yếu ảnh hưởng đến lợn nái.

PVC2 có liên quan đến hiện tượng sảy thai và thai chết non, tuy nhiên trong
thực tế hiếm gặp. Trong những trường hợp rối loạn sinh sản do PCV2, triệu
chứng đặc trưng là lợn xảy thai, chết yểu. Mổ khám thai chết có hiện tượng
gan xung huyết, tim sưng to, trên bề mặt có nhiều điểm hoại tử. Bệnh tích vi
thể rõ nhất là hiện tượng cơ tim bị viêm tơ huyết và hoặc hoại tử.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Hội chứng rối loạn hô hấp ở lợn xảy ra ở lợn từ 8 – 26 tuần và thường
cộng phát với một số nguyên nhân khác. Triệu chứng bao gồm giảm khả năng
tăng trọng, giảm chuyển hóa thức ăn, lợn mệt mỏi, sốt, ho và khó thở. Bệnh
tích đặc trưng gồm viêm kẽ phổi, phế quản viêm loét hoặc hoại tử nặng, phế
nang viêm tơ huyết.
Hội chứng viêm ruột ở lợn xảy ra ở lợn từ 8 – 16 tuần tuổi, gây chứng
viêm hồi tràng mạn tính có liên quan đến Lawsonia intracellularis. Lợn bị
bệnh có triệu chứng tiêu chảy, còi cọc, giảm tăng trọng và tăng tỷ lệ chết.
Bệnh tích bao gồm viêm ruột dạng hạt, rõ nhất là ở các mảng Payer. Hạch
màng treo ruột bị sưng to, niêm mạc ruột tăng sinh dày lên.
1.2.2. Một số biện pháp phòng bệnh do PCV2 gây ra
1.2.2.1. Vệ sinh phòng bệnh
Cách phòng ngừa hợp lý và hữu hiệu nhất được khuyến cáo để phòng
bệnh do PCV2 gây ra là:
- Hạn chế sự thăm viếng chuồng trại nhằm giảm thiểu nguy cơ làm lây
bệnh cho đàn lợn; khi vào chuồng nái bắt buộc phải thay ủng và quần áo.
- Có chương trình diệt trừ chuột, ruồi muỗi giúp hạn chế lây lan mầm bệnh;
- Thực hiện biện pháp chăn nuôi cùng vào - cùng ra Chăn nuôi với mật
độ hợp lý.
- Định kỳ phun tiêu độc khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi bằng
các loại thuốc sát trùng.
- Lợn mua về cần được kiểm dịch, cách ly triệt để lợn mới mua về.

Trong thời gian cách ly đảm bảo lợn không bị bệnh hoặc kết quả kiểm tra
huyết thanh đảm bảo mới được phép nhập đàn.
- Chăm sóc nuôi dưỡng tốt đàn lợn nhằm nâng cao sức đề kháng cho đàn
lợn, tránh stress, tạo môi trường thuận lợi để lợn sinh trưởng phát triển.
1.2.2.2. Phòng bệnh bằng vacxin
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

Cần xác định thời điểm lợn có nguy cơ bị nhiễm circovirus để xây dựng
lịch sử dụng vacxin thích hợp. Vacxin sẽ giúp giảm tỷ lệ chết và cải thiện khả
năng tăng trọng của đàn lợn. Khi tiêm vacxin cho lợn sẽ sản sinh kháng thể
trung hòa, giúp giảm số lượng PCV2 trong cơ thể, từ đó giảm được lượng
virus bài thải ra ngoài môi trường và hạn chế được bệnh truyền ngang
(Segalés và cs., 2011).
Hiện nay có vacxin vô hoạt phòng bệnh do PCV2 gây ra, dùng cho lợn
nái và lợn hậu bị giúp giảm tỷ lệ mắc PMWS; lợn con bú sữa đầu có kháng
thể thụ động giúp phòng bệnh. Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu sản xuất
vacxin tái tổ hợp, vacxin ADN giúp phòng bệnh do PCV2 gây ra.
Tại Việt Nam, một số loại vacxin có thể sử dụng để phòng bệnh do
circovirus gây ra như:
- Vacxin Circovac (Merial): tiêm cho lợn nái liều lượng 2ml/con/lần,
lịch trình như sau: lợn hậu bị: tiêm 2 mũi, cách nhau 3 - 4 tuần, mũi thứ 2
chậm nhất 2 tuần trước khi phối; Lợn nái: tiêm 2 mũi cách nhau 3 - 4 tuần,
mũi thứ 2 chậm nhất 2 tuần trước khi đẻ. Tiêm nhắc lại: đối với các lứa tiếp
theo, tiêm 1 mũi trước khi đẻ 2 - 4 tuần.
Chú ý chỉ sử dụng vacxin trong vòng 3 giờ sau khi pha.
- Vacxin Porcilis PVC (Intervet): tiêm cho lợn con liều lượng 2ml/lần, lịch
trình như sau: lần thứ nhất tiêm vào lúc 3 tuần tuổi, tiêm nhắc lại sau 3 tuần.
- Vacxin Circumvet PCV (Intervet): là vacxin được sản xuất theo công
nghệ “vector” (vacxin thể ORF2) tiên tiến nhất nên chứa được kháng nguyên

bảo hộ cao, đáp ứng miễn dịch tối đa.
Vacxin dùng cho lợn con khỏe mạnh từ 3 tuần tuổi trở lên (tiêm bắp với
liều lượng 2ml/con, tiêm nhắc lại sau 3 tuần), có tác dụng giảm tỷ lệ chết, phòng
circovirus lưu hành trong máu và ngăn chặn bài xuất virus ra ngoài môi trường.
- Vacxin Ingelvac Circoplex (Boehringer Ingelheim): là vacxin PCV2
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17

ORF2 protein được gắn trên baculovirus vô hoạt.
Vacxin dùng để tiêm bắp (liều lượng 1 ml/con) cho lợn khỏe mạnh từ 3
tuần tuổi trở lên, giúp tăng cường mô lympho, hạn chế hiện tượng viêm và số
lượng PCV2 trong mô bào. Độ dài miễn dịch kéo dài 4 tháng.
- Vacxin Suvaxyn
®
PCV2 One Dose
TMm
(Fort Dodge Animal Health): là
vacxin vô hoạt kết hợp PCV1-2.
Vacxin dùng để tiêm bắp (liều lượng 2 ml/con) cho lợn khỏe mạnh từ 4
tuần tuổi trở lên, giúp tăng cường mô lympho, không bị ảnh hưởng bởi PCV2.
Độ dài miễn dịch kéo dài 4 tháng.
- Pro-vac Circomaster Vac (Komipharm international): là vacxin tiểu
phần tái tổ hợp dùng phòng các bệnh do PCV2 gây ra, lịch sử dụng như sau:
+ Nái mang thai:
Mới tiêm vacxin Circo lần đầu: tiêm bắp 2 lần, mỗi lần 2ml vào lúc 4 -
5 tuần và 2 - 3 tuần trước khi sinh. Tiêm lứa kế tiếp trở đi: tiêm bắp 1 lần 2ml
vào lúc 2 - 3 tuần trước khi sinh.
+ Lợn con:
Nếu sinh ra từ lợn mẹ đã tiêm phòng: tiêm bắp 1 lần 2ml lúc 4 - 5 tuần
tuổi. Nếu lợn mẹ chưa tiêm phòng: tiêm bắp 2 lần, mỗi lần 1ml vào lúc 3-4

tuần và 5 - 6 tuần tuổi.
- SuiShot
®
Circo One (Choongang vaccine laboratory): tiêm bắp ở gốc
tai cho lợn con khỏe mạnh từ 2 – 3 tuần tuổi (liều lượng tiêm 2,0 ml/con).
- Circo Pig Vac (Daesung Microbiological Lab): tiêm 1 liều duy nhất
(1 ml/con) cho lợn con lúc 1 ngày tuổi đến 3 tuần tuổi.

×