Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tư tưởng giáo dục của edgar morin trong tác phẩm bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.88 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH HÒA

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA EDGAR MORIN
TRONG TÁC PHẨM “BẢY TRI THỨC TẤT YẾU
CHO NỀN GIÁO DỤC TƢƠNG LAI”

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH HÒA

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA EDGAR MORIN
TRONG TÁC PHẨM “BẢY TRI THỨC TẤT YẾU
CHO NỀN GIÁO DỤC TƢƠNG LAI”

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quang Hƣng


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Quang Hưng và có sự tham khảo
của những tác giả ghi trong danh mục tài liệu tham khảo. Các tài liệu, số liệu
sử dụng trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Hòa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ
TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA EDGAR MORIN .............................................. 7
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ......................................................................... 7
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng ..................................................................................... 12
1.2.1. Tư tưởng giáo dục của Wilhelm von Humboldt .................................... 12
1.2.2. Tư tưởng của J.Dewey về dân chủ và giáo dục .................................... 17
1.2.3. Quan điểm giáo dục của Albert Einstein .............................................. 20
1.3. Tiền đề về khoa học tự nhiên ................................................................ 24
1.4. Edgar Morin và tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục
tƣơng lai”........................................................................................................ 27
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC
EDGAR MORIN TRONG TÁC PHẨM “BẢY TRI THỨC TẤT YẾU

CHO NỀN GIÁO DỤC TƢƠNG LAI” ....................................................... 33
2.1. Tính cấp thiết cải cách giáo dục ............................................................ 33
2.1.1. Thách thức mang tính toàn cầu............................................................. 33
2.1.2. Thách thức về phương pháp giáo dục ................................................... 37
2.2. Mục tiêu của giáo dục ............................................................................ 42
2. 3. Phƣơng pháp giáo dục .......................................................................... 45
2.4. Nội dung của giáo dục ............................................................................ 54
2.5. Đánh giá về tƣ tƣởng giáo dục của Edgar Morin ............................... 61
2.5.1. Một vài đánh giá về tư tưởng giáo dục của Edgar Morin .................... 61
2.5.2. Vận dụng giá trị của nó cho việc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay
......................................................................................................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI – thế kỷ của nền kinh tế tri thức,
giáo dục - đào tạo được khẳng định là nhân tố, là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam,
các chính phủ đều rất coi trọng giáo dục. Sở dĩ như vậy, bởi vì giáo dục là
điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị xã
hội và hơn hết giáo dục - đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con
người. Giáo dục - đào tạo không chỉ có vai trò quan trọng trên lĩnh vực sản
xuất vật chất mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hóa tinh thần. Giáo dục
có tác động vô cùng to lớn trong việc xây dựng ý thức đạo đức, xây dựng nền
văn hóa, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối sống mới, nhân cách mới
của toàn bộ xã hội.
Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, điều này thể
hiện qua các lần tổ chức Đại hội Đảng giáo dục luôn là nội dung được bàn

luận đến: Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra
quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng xem giáo dục là bộ
phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và
giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo
dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường
gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện
cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của
Đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục được Đại hội toàn
quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con
người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.
Sự nghiệp giáo dục nước ta đã đạt được những thành tựu không nhỏ,
góp phần quan trọng vào việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước
nghèo. Thế nhưng, như nhận định trong kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban
1


chấp hành Trung ương khóa XI thì đến nay giáo dục và đào tạo nước ta vẫn
chưa thực sự là quốc sách hàng đầu để làm động lực quan trọng nhất cho phát
triển. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo chưa được khắc phục,
có mặt còn nặng nề hơn. Hiện nay, giáo dục Việt Nam vẫn tồn tại rất nhiều
vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội. Bất cập của giáo dục Việt Nam thể hiện ở
tất cả mọi mặt từ việc quản lý giáo dục cho đến nội dung, phương pháp,
chương trình giáo dục, sách giáo khoa, cơ sở vật chất, đội ngũ những người
dạy học. Có thể nói giáo dục Việt Nam đang thiếu một nền tảng triết học giáo
dục phù hợp.
Một nền giáo giáo dục kém sẽ không thể đào tạo được nguồn nhân lực
chất lượng cao. Tất nhiên nếu thiếu nhân lực tốt thì Việt Nam sẽ tụt hậu,
không thể phát triển được trong một thế giới đang biến đổi từng ngày, đặc biệt
là khi khoa học – công nghệ đang có những bước phát triển vượt bậc. Vì thế,
để có một nền giáo dục tốt, với chương trình sách giáo khoa tối ưu hay một kỳ

thi đánh giá đúng chất lượng học sinh, nhằm khuyến khích cả thầy và trò dạy
tốt, học tốt… trong bối cảnh hiện nay, giáo dục Việt Nam rất cần phải học
hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm của những nền giáo dục tiên tiến trên thế
giới. Giáo dục Việt Nam buộc phải tìm cho được giải pháp để đổi mới giáo
dục thành công. Vấn đề cốt lõi là cần đổi mới căn bản triết lý về giáo dục để
từ đó có thể xây dựng chương trình giáo dục đúng đắn, khoa học từ mục tiêu
đến nội dung và phương pháp giáo dục cũng như cơ chế quản lý và điều hành
giáo dục.
Edgar Morin (1921 - ) nhà triết học, nhân học Pháp có tư tưởng giáo
dục được thể hiện hoàn bị thông qua bộ ba tác phẩm sư phạm. Trong đó đặc
biệt phải kể đến “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai” là tác phẩm
viết về những vấn đề chủ yếu của giáo dục với tư duy mới mẻ, độc đáo. Trong
tác phẩm này ông đã đặt nền giáo dục trong một bối cảnh mới đầy biến động,
đưa ra quan niệm về giáo dục: không dạy lý luận, tri thức đơn thuần, nhồi
2


nhét kiến thức mà cần phải dạy cho người học những kỹ năng, khả năng tư
duy. Nội dung của giáo dục không thể xa lạ với con người mà là những gì cơ
bản, thiết thực nhất. Chú trọng việc người học tự tìm tới kiến thức. Triết lý
giáo dục của Edgar Morin đầy tính nhân văn: tất cả vì con người, cho con
người, người học được tôn trọng. Tác phẩm của ông đã thể hiện một chủ
nghĩa nhân văn cao cả, một chủ trương giáo dục đầy tinh thần dân chủ, yêu
thương, tôn trọng nhân phẩm của người học.
Việc nghiên cứu tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương
lai” sẽ góp phần làm sáng tỏ quan niệm cơ bản về giáo dục của Edgar Morin.
Đây cũng là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc làm nền tảng giải
quyết những vấn đề giáo dục nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Và việc
nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những quan điểm giáo dục của ông
là điều cần thiết.

Với những lý do trên, tôi đã chọn: Tư tưởng giáo dục của Edgar Morin
trong tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai” làm đề tài luận
văn của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngày nay, khi văn minh nhân loại bước vào giai đoạn phát triển mới
với nền kinh tế tri thức, cạnh tranh bằng chất xám, vấn đề giáo dục được quan
tâm đặc biệt ở bất cứ quốc gia nào. Việc tìm hiểu, nghiên cứu những tư tưởng
giáo dục hay những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới là điều cần thiết.
Edgar Morin là một trong những nhà tư tưởng hàng đầu của nước Pháp
đương đại, ông dành một sự quan tâm lớn đối với vấn đề giáo dục và có
những suy tư vô cùng độc đáo về nó. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một tác
phẩm nào thuần túy giới thiệu hay nghiên cứu một cách hệ thống về tư tưởng
này của ông.
Năm 1998, Hội nghị thế giới về Giáo dục Đại học do UNESCO triệu
tập đã ra “Bản tuyên ngôn thế giới về giáo dục đại học cho thế kỷ XXI: Tầm
3


nhìn và hành động” (World Declaration on Higher Education for the Twentyfirst Century: Vision and Action). UNESCO cũng công bố nhiều công trình
quan trọng khác về nền giáo dục tương lai trong đó có “Bảy tri thức tất yếu
cho nền giáo dục tương lai” của Edgar Morin. Đây là lần đầu tiên tác phẩm ra
mắt những người quan tâm đến vấn đề giáo dục. Chứng tỏ nó là một công
trình được đánh giá cao và xứng đáng để tìm hiểu cùng nghiên cứu.
Tác phẩm này đã tạo cho tác giả sự nổi tiếng trên thế giới và đã gây sự
chú ý của rất nhiều người. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu một cách
hệ thống về tác phẩm này là chưa có.
Còn ở Việt Nam, khi nói đến Edgar Morin, người ta dường như chỉ
thường bàn tới tư tưởng triết học về “tư duy phức hợp” của ông chứ chưa thấy
một công trình nghiên cứu khoa học chính thức bàn đến quan niệm của ông về
giáo dục qua tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai”.

Kể từ năm 2008, tác phẩm sau khi dịch ra tiếng Việt và được nhà xuất
bản Tri thức phát hành thì đã có những bài báo giới thiệu về tác giả và tác
phẩm có thể kể đến: Hội thảo về giáo dục với chủ đề “Edgar Morin và triết
học giáo dục” giới thiệu chân dung nhà triết học, nhân học Pháp E.Morin. Có
những phân tích về quan điểm giáo dục của ông.
Bài giới thiệu của Phạm Khiêm Ích về cuốn sách “Liên kết tri thức” do
Edgar Morin chủ biên (Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2005) với tiêu đề “Cải
cách giáo dục trước thách đố của thế kỷ XXI” đã nêu lên quan điểm giáo dục
của Edgar Morin thể hiện trong tác phẩm Liên kết tri thức. Bài giới thiệu khá
ngắn gọn về E. Morin trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
22/5/2008.
Bài viết của Phạm Khiêm Ích “Edgar Morin và triết học giáo dục”
đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội số 8/2008 trình bày quan điểm
về giáo dục của Edgar Morin một cách khái quát nhưng rất sâu sắc.

4


Tóm lại, về đề tài tư tưởng giáo dục của Edgar Morin trong tác phẩm
“Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai”, hiện nay chưa có công trình
nào nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống. Tất cả các công trình đã biết mới dừng
lại ở đánh giá nói chung về tư tưởng giáo dục của ông hoặc giới thiệu cơ bản
về tác phẩm.
Việc làm rõ tư tưởng giáo dục của Edgar Morin sẽ là một cơ sở lý luận
rất tốt từ đó có thể đưa ra những giải pháp đúng đắn hướng tới đổi mới nền
giáo dục nước nhà. Do vậy, tôi mạnh dạn khai thác và tìm hiểu đề tài trên.
Tuy nhiên, với thời gian và hiểu biết còn hạn chế chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến phê bình, đóng góp
mang tính xây dựng để luận văn được hoàn thiện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:
Mục đích của đề tài là kiến giải và trình bày một cách khái quát nội
dung tư tưởng giáo dục của Edgar Morin trong tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu
cho nền giáo dục tương lai”.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Tìm hiểu những điều kiện, tiền đề làm nảy sinh tư tưởng giáo dục của
Edgar Morin.
- Trình bày nội dung cơ bản về giáo dục của Edgar Morin trong tác
phẩm: Sự cần thiết phải cải cách giáo dục, mục tiêu, phương pháp, nội dung
giáo dục.
- Đánh giá một vài giá trị trong tư tưởng của Edgar Morin về giáo dục.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Edgar Morin
trong tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai”. Trong đó
5


tập trung vào các nội dung sau: Sự cần thiết phải cải cách giáo dục, mục tiêu,
phương pháp, nội dung của giáo dục.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của nghiên cứu được khai triển trên nền tảng các quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan
điểm của Đảng về vấn đề giáo dục và đào tạo con người.
Về phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp văn bản học,
phương pháp logic – lịch sử, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thu thập thông tin…
6. Đóng góp của luận văn
Đây là một tác phẩm khá mới đối với chúng ta. Do vậy, đóng góp lớn

nhất của luận văn là: Nghiên cứu hệ thống hóa những tư tưởng cơ bản về giáo
dục của Edgar Morin trong tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục
tương lai”. Góp một phần nhỏ vào việc đi sâu nghiên cứu tư tưởng giáo dục
của Edgar Morin.
Có thể làm tài liệu mang tính tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu
về giáo dục, triết học phương Tây hiện đại.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 9 tiết.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC CỦA EDGAR MORIN
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Edgar Morin là một nhà triết học, xã hội học và nhân học nổi tiếng của
nước Pháp. Như ta đã biết, bất kỳ một triết gia của thời đại nào, khi xây dựng
tư tưởng của mình không thể tách rời thực tiễn đương thời, Edgar Morin cũng
không ngoại lệ. Ông luôn quan tâm đến các sự kiện, những cuộc tranh luận về
các vấn đề chính trị, khoa học, xã hội, giáo dục đương thời. Do vậy để tìm
hiểu tư tưởng của Edgar Morin nói chung cũng như tư tưởng giáo dục thể
hiện trong tác phẩm “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai” nói
riêng một cách toàn diện và sâu sắc thì việc nghiên cứu điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hóa theo nghĩa là cái nền cho sự ra đời của tác phẩm là cần thiết.
Về điều kiện kinh tế
Pháp là một quốc gia nằm tại Tây Âu, là nước lớn thứ ba ở châu Âu.
Trong hơn 500 năm qua Pháp là một quốc gia có ảnh hưởng văn hóa, kinh tế,
quân sự và chính trị mạnh mẽ ở châu Âu và trên toàn thế giới.

Ngay từ những năm 50 – 70 của thế kỷ XIX, trong khi các nước khác
tiếp tục hoàn thành cách mạng tư sản thì Anh, Pháp là những nước tư bản phát
triển, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xác lập hoàn toàn, cách mạng
công nghiệp hoàn thành đã thúc đẩy nền kinh tế Pháp phát triển. Máy móc
được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp. Ở Pháp diễn ra quá trình
tập trung sản xuất với quy mô lớn, hoạt động tài chính diễn ra mạnh mẽ.
Cuối thế kỷ XIX, công nghiệp Pháp tuy phát triển chậm lại nhưng vẫn
đứng thứ 4 thế giới. Sang đầu thế kỷ XX, các công ty độc quyền ra đời đặc
biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc. Các
ngành công nghiệp phát triển như chế tạo cơ khí, thiết bị giao thông vận tải.
Pháp là một nước công nghiệp, có số lượng doanh nghiệp lớn, lĩnh vực dịch
7


vụ cũng rất phát triển. Có truyền thống lâu đời trong phát minh công nghiệp,
đội ngũ nghiên cứu có trình độ, đầu tư nhiều cho công tác nghiên cứu phát
triển, năng suất lao động thuộc loại hàng đầu thế giới.
Bên cạnh sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp Pháp vẫn giữ địa
vị quan trọng trong nền kinh tế. Với 2/3 diện tích là đồng bằng và cao nguyên
phì nhiêu thuận lợi cho canh tác, chăn nuôi. Tuy lao động làm việc trong nông
nghiệp rất ít nhưng hàng năm sản lượng hàng nông sản của Pháp là rất cao.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trở thành một xu thế phổ biến. Nó đặt
các nước trong bức tranh chung của thế giới, buộc mỗi một quốc gia, dân tộc
không thể khép kín, tự hài lòng với chính mình.
Dưới sự lan tỏa của toàn cầu hóa, mọi lĩnh vực của xã hội đều bị tác
động. Nhìn chung, những tác động này theo chiều hướng tích cực đã làm cho
thế giới “phẳng” và gần nhau hơn. Trong thế giới đó sự phát triển và thành
công của một quốc gia đều ít nhiều có tác động đến các quốc gia khác và
ngược lại. Vì mục tiêu hòa bình và phát triển,các quốc gia không ngừng phấn
đấu vượt qua các vấn đề của khu vực và toàn cầu như biến đổi khí hậu, ô

nhiễm môi trường, xóa đói giảm nghèo, an ninh lương thực, tình trạng thất
nghiệp... Nước Pháp với vị thế cao trên thế giới đã thể hiện được tầm ảnh
hưởng của mình với những quốc gia khác.
Đồng thời dưới sức ép của nền kinh tế hội nhập toàn cầu và sự thay đổi
nhanh chóng của khoa học và công nghệ đòi hỏi các nước trong đó có Pháp
phải có sự thay đổi. Nói cách khác, cũng như các quốc gia khác nền kinh tế
Pháp đứng trước những thách thức mới của thời đại cần phải vượt qua.
Về chính trị - xã hội
Pháp là quốc gia có lịch sử lâu đời về truyền thống văn hóa, chính trị,
pháp luật đáng tự hào. Pháp cũng có lịch sử đầy biến động và phức tạo với
những biến cố chính trị to lớn.

8


Trong thế kỷ XX, một số bất ổn về kinh tế, xã hội bắt đầu xuất hiện mà
tiêu biểu là tình trạng quá tải tại các trường học do số lượng trẻ em ra đời
trong một vài thập niên trước đó quá cao, hay như những đợt vận động cho
quyền lợi phụ nữ, thêm vào đó là phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam
đang lan rộng tại các nước phương Tây. Nổ ra đầu tiên tại trường Đại học
Nanterre, sau đó lan nhanh đến các tổ chức công nhân. Cả nước Pháp như tê
liệt trong một tháng. Nước Pháp bước vào mùa hè với cuộc nổi dậy đòi tự do
dân chủ của giới trẻ mà đỉnh cao là biến cố tháng 5 năm 1968 với những cuộc
bãi khóa chiếm lĩnh các trường học và biến đường phố thành chiến lũy.
Trường Đại học danh tiếng Sorbonne phải đóng cửa lần đầu tiên trong lịch sử
700 năm hoạt động. 20 triệu công nhân đình công khiến chính quyền De
Gaulle lúc bấy giờ rơi vào khủng hoảng.
Lịch sử Pháp cận đại đã ghi nhận một loạt dữ kiện xảy ra vào tháng 5
năm 1968 mà ngày nay giới truyền thông và chính trị Pháp thường có thói
quen gọi là “những biến cố năm 68”.

Năm 1968 tại Pháp đã được coi như chất xúc tác để cải tiến sâu rộng xã
hội và đã cho phép nước Pháp đi vào con đường canh tân tại Pháp: Phong trào
giải phóng phong tục, văn hóa, ngôn ngữ, cải tổ đại học, giải phóng nữ quyền,
tình dục, cải thiện điều kiện làm việc và quyền lợi của người lao động… Hay
nói cách khác những đòi hỏi thay đổi cải cách, canh tân đã đánh dấu một giai
đoạn, đánh dấu một sự thay đổi lớn về mặt văn hóa, chính trị và xã hội của thế
kỷ XX ở Pháp.
Về mặt xã hội, nhà nước thực hiện dân chủ hóa mọi hoạt động giáo
dục, văn hóa để mọi công dân Pháp có cùng điều kiện phát triển về thể chất và
tinh thần, vấn đề dân chủ và nhân quyền rất được đề cao tại Pháp.
Nước Pháp rất coi trọng tính cộng đồng và quyền bình đẳng. Mọi người
đều được tự do tôn giáo và mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên tín
ngưỡng hay việc thực hành tôn giáo đều bị cấm. Những tín ngưỡng chủ yếu
9


có mặt ở Pháp là Cơ đốc giáo (Thiên chúa và Tin lành), Hồi giáo và Do thái
giáo. Nhà thờ, đền thờ Hồi giáo, nhà thờ Do thái cùng tồn tại trong hòa bình,
trên tinh thần hòa hợp và tôn trọng lẫn nhau.
Là một trong những cái nôi văn hóa của châu Âu, nền văn hóa Pháp
được xây dựng và phát triển cùng với dòng phát triển lịch sử đất nước. Văn
hóa Pháp đã tồn tại song song với các thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, mang
tính cột mốc của nền văn hóa nhân loại: thời kỳ La Mã cổ đại, thời kỳ phong
kiến trung đại và thời kỳ phục hưng, cho đến cuộc cách mạng tư sản vào thời
kỳ hiện đại. Nền văn hóa đồ sộ, độc đáo này vẫn được người Pháp tiếp tục
bảo tồn và gìn giữ cẩn thận.
Pháp được coi là trung tâm văn học – nghệ thuật của châu Âu:
Thừa hưởng nhiều tinh hoa từ nền văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại,
nền văn học, nghệ thuật Pháp thật sự phát triển mang dấu ấn riêng từ khoảng
thế kỷ XIX và phát triển rực rỡ nhất vào đầu thế kỷ XIX. Những tác phẩm văn

học Pháp phản ánh tâm tư, hiện thực xã hội của đất nước này trong từng giai
đoạn, từ đó vẽ nên bức tranh toàn cảnh của xã hội châu Âu. Ngoài ra, nghệ
thuật Pháp còn phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực hội họa, điêu khắc, âm
nhạc. Tại Pháp có nhiều công trình kiến trúc cổ như thành phố Paris hay trung
tâm Troyes…
Marianne – biểu tượng của nước Pháp. Hiện diện khắp nơi trên nước
Pháp đây được xem là biểu tượng nổi bật nhất của cộng hòa Pháp. Là hình
ảnh bán thân của một người phụ nữ, cô còn thường được đội chiếc mũ
Phrygian – mang biểu tượng tự do.
Pháp nổi tiếng trên thế giới là một quốc gia có sự đa dạng dân tộc. Sau
đại chiến thế giới lần thứ hai, nước Pháp đã tiếp nhận rất nhiều dân di cư đến
từ các nước châu Phi, châu Âu, châu Á. Một mặt, người nhập cư giúp cho dân
số Pháp không bị già đi, thâm chí còn tăng lên, họ là nguồn nhân công cho
các lĩnh vực như xây dựng, nông nghiệp… (Tính đến hiện nay có gần 130
10


quốc tịch khác nhau sống trên đất Pháp). Một xã hội đa sắc tộc đã mang đến
cho nước Pháp một nền văn hóa đa dạng phong phú và người dân Pháp tự hào
về điều đó. Tuy vậy sự đa sắc tộc cùng với đa tôn giáo nêu trên cũng có thể
khiến nước Pháp rơi vào những nguy cơ về xung đột sắc tộc, hay nguy cơ
khủng bố…
Một điểm đáng lưu tâm là Pháp cổ động cho việc hình thành một thế
giới đa cực. Chủ trương ưu tiên vấn đề dân chủ, nhân quyền trong chính sách
đối thoại. Pháp đề cao các giá trị, nhân quyền và chủ trương tích cực đi đầu
trong việc khuyến khích và giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này.
Văn hóa bao gồm nhiều bộ phận, trong đó đời sống triết học là một bộ
phận quan trọng. Thế kỷ XVIII, nền văn minh Pháp và tiếng Pháp phát triển
rực rỡ ở châu Âu với kỷ nguyên ánh sáng và các nhà triết học nổi tiếng như
Montesqieu, Voltaire, Rousseau… Sang thế kỷ XIX, nước Pháp cùng với

những biến động của xã hội đã hình thành những tư tưởng lớn của thời đại
như chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội khoa học, nhiều trào lưu
và khuynh hướng triết học liên tục xuất hiện qua các thời kỳ khác nhau. Một
nền văn hóa như vậy đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành tư tưởng giáo
dục của Edgar Morin.
Với điều kiện kinh tế - xã hội như vậy đã đặt ra yêu cầu cần phải xây
dựng nền giáo dục tiến bộ tạo điều kiện cho đất nước phát triển. Và việc hình
thành tư tưởng giáo dục của Edgar Morin chính là bắt nguồn từ những yêu
cầu thực tiễn ấy.
Edgar Morin cho rằng cần phải xác định đúng vấn đề và tìm ra giải
pháp để không ngừng đổi mới giáo dục nhằm đáp ứng các yêu cầu của thời
đại. Cần phải khơi dậy ý thức công dân toàn cầu, trân trọng sự đa dạng hóa
trong thế giới đa chiều.
Edgar Morin nhận ra trong một bối cảnh như vậy giáo dục sẽ có sự kết
nối giữa các nước trên thế giới, mở rộng tầm nhìn và bậc thang giá trị vượt ra
11


biên giới quốc gia, dân tộc, hướng tới những chuẩn mực chung, có tính chất
toàn nhân loại, những con người sẽ không bị bó hẹp trong lối suy nghĩ cục bộ
mà cần có tư duy mang tính chất toàn cầu, có tinh thần dân chủ, có khả năng
hợp tác, có thể làm việc trong môi trường quốc tế. Và cần phải xem công cuộc
đổi mới giáo dục và đào tạo trở thành một nhiệm vụ trọng tâm, nhằm tìm ra
hướng đi đúng đắn.
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng
Rất nhiều trào lưu tư tưởng lớn ở châu Âu, kể từ thời Hy Lạp cổ đại
cho đến ngày nay đều ít nhiều đề cập đến giáo dục, thậm chí coi nó là đối
tượng hướng tới của mình. Những ưu việt của giáo dục ở các nước châu Âu
ngày nay có thể nói được đóng góp bởi những giá trị được vun xới và chắt
chiu bởi rất nhiều các dòng tư tưởng, được trải nghiệm qua thực tiễn và kinh

qua nhiều thách thức lịch sử. Edgar Morin cũng nằm trong dòng chảy lịch sử
ấy, ông chịu ảnh hưởng của những nhà tư tưởng trước đó. Edgar Morin đã kế
thừa, học hỏi ở họ và có những sáng tạo của riêng mình để cho ra đời những
quan niệm độc đáo về giáo dục.
1.2.1. Tư tưởng giáo dục của Wilhelm von Humboldt
Giai đoạn thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, các nền giáo dục phương Tây
lại một lần nữa đề ra những yêu cầu mới cho giáo dục. Đã xuất hiện nhiều tư
tưởng mới về giáo dục trong đó có Wilhelm von Humboldt (1767 - 1835).
Năm 1807, với hòa ước Tilsit, nước Phổ (một phần quan trọng của
nước Đức ngày nay) mất hết phần lãnh thổ phía đông; phần còn lại do quân
Pháp chiếm đóng, và phải cung phụng cho kẻ thắng trận. Đất nước tan nát,
dân chúng nghèo kiệt, đồng ruộng bỏ hoang. Trong tình cảnh ấy, Humboldt
đảm nhận trách nhiệm cải cách giáo dục, nhà nước hết sức chuyên quyền và
chỉ muốn lạm dụng nền giáo dục để đào tạo những thần dân trung thành, biết
vâng lời. Để ngăn chặn điều ấy, Humboldt đã ra sức đề xướng sự tự do học
thuật và phác thảo một cấu trúc hoàn toàn mới mẻ cho toàn bộ nền giáo dục.
12


Cấu trúc này đã phát huy tác dụng và còn đầy đủ tính thời sự cho đến ngày
nay và đó cũng chính là công lao lịch sử của Humboldt.
Humboldt vẫn tiếp tục yêu cầu học sinh ngồi yên, dành hàng giờ để học
cổ văn Hy Lạp. Ông cho rằng nước Phổ phải giương cao ngọn cờ giáo dục và
khoa học, phải cường tráng về tinh thần để được nước khác kính nể sau khi
chịu bại trận. Mất hết sức mạnh đối ngoại, càng phải thẳng lưng đứng dậy để
xây dựng sức mạnh từ bên trong.
Ông đã nói: “Người không có điều kiện học cao, ắt sẽ phải chìm sâu
vào trong đời sống thường ngày. Vì thế, càng cần phải trang bị kỹ lưỡng cho
họ cái “hình thức” tối thiểu để họ có thể thực sự thấm nhuần”. Cái “hình
thức” nói ở đây trái với cách hiểu quen thuộc ngày nay. Trong tư duy Hy Lạp

- và trong cách hiểu của văn hóa cổ điển Đức - “hình thức” bắt nguồn từ “mô
thức” (eidos/form), là tất cả những gì tác động trực tiếp đến hình thái (shape)
để mang lại tính cách, cung cách cho con người. Đó là những ý tưởng và lý
tưởng sẽ đào luyện tâm hồn của đứa trẻ, mang lại cấu trúc và dung lượng cho
thế giới tinh thần của nó về sau. Sở dĩ như thế, vì người Hy Lạp biết thoát ly
khỏi mọi mối quan tâm đối với chất liệu để luôn nhìn thấy cái mô thức ở
trước mắt mình, tức, biết đi từ cái vụn vặt đến cái lý tưởng, từ cái đơn giản
nhất đến cái cao cả nhất, từ cái cá lẻ đến toàn bộ vũ trụ, nghĩa là, từ muôn vàn
những văn bản, hãy biết lắng nghe giai điệu của sự tự do. Luôn có trước mắt
một hình dung lý tưởng chứ không chịu để thực tế trước mắt trói chân, tâm
hồn Hy Lạp “bao giờ cũng đi tìm sự tất yếu và cái ý niệm, vứt bỏ hết vô vàn
những cái ngẫu nhiên, bất tất của hiện thực”. Nhìn mọi việc bằng con mắt
khinh khoái như thế, nên mới có thể mỉm cười trong cảnh ngộ đau đớn tột
cùng, và không dễ dàng buông thả trong khoái lạc: “Biến tất cả mọi sự thành
trò chơi, nhưng chỉ theo nghĩa là biết gạt bỏ sự khắc nghiệt của trần gian,
đồng thời giữ vững sự nghiêm chỉnh của lý tưởng”.

13


Đối với Humboldt, dạy tinh thần Hy Lạp không phải là ru trẻ vào giấc
ngủ viễn mơ, hoài cổ, lý tưởng hóa quá khứ, ngoảnh lưng với thực tại. Trái
lại, tinh thần ấy gần gũi hơn hết đối với lý tưởng của ông trong việc đào luyện
con người. Vì tinh thần ấy tránh được cả ba cực đoan: tinh thần của văn hóa
La Mã hướng đến nhà nước và sự cai trị, với xu hướng áp bức cá nhân; tinh
thần khắc nghị của tín ngưỡng Kitô giáo với xu hướng đè nén nhục cảm, và
tinh thần của thời hiện đại hướng đến những công nghệ máy móc và những
lợi ích bề ngoài. Humboldt đồng cảm và chia sẻ với lý tưởng nhân bản của thế
hệ ông: lý tưởng về con người toàn diện như sự thống nhất giữa thể xác và
tâm hồn, giữa nghĩa vụ và xu hướng, giữa lý trí và nhục cảm, giữa thế giới và

cá nhân. Humboldt tập trung vào việc huy động sức mạnh tinh thần và đạo
đức như là giải pháp duy nhất để cứu vãn tình thế.
Lý tưởng giáo dục của Humboldt xoay quanh từ Bildung. Nếu trước
đây, “giáo dục” thường gắn liền với “dạy dỗ” và “truyền đạt kiến thức” theo
cách hiểu thông thường thì từ Humboldt, nó mang nặng yếu tố “tự chủ”, tức là
sự tự đào luyện nhân cách. Humboldt minh họa giản dị như sau: Có những
kiến thức nhất định nào đó là điều ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, lại
càng phải có sự đào luyện những tâm thế và tính cách mà không ai được phép
thiếu cả. Mỗi người rõ ràng chỉ có thể trở thành một thợ thủ công, một doanh
nhân, binh sĩ hay công chức tài giỏi, khi người ấy trước hết là một con người
và là một công dân được khai minh, tốt lành và đàng hoàng, độc lập với nghề
nghiệp đặc thù của mình. Có được sự giáo dục cần thiết cho công việc này rồi,
thì người ấy về sau sẽ dễ dàng học lấy một nghề và bao giờ cũng có thể tha hồ
thay đổi nghề nghiệp như vẫn thường xảy ra trong cuộc sống.
Theo Humboldt, có sự khác biệt giữa giáo dục theo nghĩa thông thường
như là tiến trình điều chỉnh sự phát triển tri thức từ bên ngoài với bildung như
là tiến trình và kết quả của việc đào luyện nhân cách từ bên trong. Khác với
giáo dục hay dạy nghề, bildung không trực tiếp gắn liền với những mục đích
14


kinh tế, mặc dù nó là tiền đề cho việc hướng nghiệp. Hình ảnh một tam giác
đều nói lên ba phương diện của bildung bao trùm mọi ngành nghề và mọi cấp
học, đó là: Tri thức, tư duy và năng lực giao tiếp. Tri thức bao gồm những nội
dung học vấn, tư duy là các chiến lược khác nhau để mở rộng tri thức như giải
quyết vấn đề, mô tả, suy luận, lý giải… Còn năng lực giao tiếp là biết cách
làm cho người khác hiểu rõ luận điểm, tư tưởng, ý tưởng của mình, và ngược
lại chủ động đặt mình vào trong vị trí của tư tưởng của người khác.
Humboldt xem nhiệm vụ quan trọng của nhà nước là đảm bảo an ninh
và tích cực hỗ trợ nhưng không can thiệp quá sâu vào việc giáo dục. Ông đã

đặt ra câu hỏi: Người ta đòi hỏi gì từ nhà nước? Và trả lời ngay rằng: Không
gì khác ngoài việc mở rộng sự giáo dục ngày càng mạnh mẽ, càng rộng rãi
càng tốt. Nhà nước phải luôn ý thức rằng “họ thực sự không tạo ra hay không
thể tạo ra được các hoạt động trí thức, mà chỉ càng gây cản trở mỗi khi họ
muốn can thiệp vào. Họ nên ý thức rằng sự việc sẽ diễn ra vô cùng tốt đẹp nếu
không có sự can thiệp của họ”.
Tư tưởng cốt lõi của Humboldt về sự tự do giảng dạy và học tập thể
hiện qua câu nói: “Điều gì người ta không tự mình lựa chọn mà bị ép buộc và
điều khiển thì không nhập tâm được, mãi mãi là cái gì xa lạ, và, trong trường
hợp ấy, con người không hành động bằng sức mạnh của con người, trái lại,
chỉ bằng kỹ năng máy móc”.
Humboldt đã xóa bỏ hệ thống trường học có tính đẳng cấp (phong kiến,
quý tộc, và các loại trường dạy nghề quá sớm), tạo điều kiện cho mọi trẻ em
thuộc mọi tầng lớp có cơ hội và điều kiện học tập ngang nhau. Quan trọng
hơn là việc thiết kế nội dung cho hệ thống giảng dạy: chia làm ba cấp học
gồm tiểu học, trung học và đại học, với sự phân biệt rõ rệt ranh giới và tính
chất của mỗi cấp, trong đó đại học có chức năng nghiên cứu và đào tạo trí
thức và dứt khoát không được phép là trường phổ thông cấp bốn. Ông nhấn
mạnh Đại học phải trở lại với nghĩa nguyên thủy của nó là universitas (theo
15


Hiến chương thành lập Đại học Vienna năm 1365) gồm hai bộ phận là nghiên
cứu và giảng dạy tri thức trong tính phổ quát của nó (universitas litterarum)
và hình thành một cộng đồng khoa học giữa thầy và trò (universitas
magistorum cum studentorum). Vì tri thức chỉ có thể có thông qua đối thoại,
trao đổi.
Yếu tố trung tâm trong triết lý giáo dục của Humboldt là việc đào luyện
(Bildung) nhân cách một cách toàn diện và khuyến khích phát triển cá tính
thông qua việc đào tạo (văn hóa) tổng quát. Lý thuyết giáo dục tân-nhân bản

này kiên quyết không nhượng bộ trước áp lực của mọi thế lực chính trị và
kinh tế, khẳng định nhiệm vụ then chốt của nhà trường là “đào tạo con người
còn nhỏ trở thành con người trưởng thành. Yêu cầu này rõ ràng bị thực tế thử
thách gắt gao.
Một tâm điểm khác trong lý tưởng giáo dục của Humboldt là quan
niệm rằng con người là sinh vật nỗ lực học tập và làm việc suốt đời. Vì thế,
việc đào luyện con người là một tiến trình không kết thúc và không thể dừng
lại giữa đường. Chính xã hội thông tin và tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng chưa
từng có ngày nay đã giúp cho lý tưởng này trở thành nhu cầu thường trực.
Những kiến thức thu hoạch được lúc còn trẻ và trong nhà trường nhanh chóng
lạc hậu, khiến người ta khó đứng vững trong môi trường lao động và nghiên
cứu mà không tiếp tục học hỏi và đổi mới kiến thức.
Trước sau, ông chỉ có một mong mỏi: nhà trường phải thực sự là nơi
hiện thân của ý niệm, của lý tưởng, nơi đó Tinh thần có thể được đào luyện
trong sự an tĩnh và thanh khiết. Trước mọi sự xô bồ và khắc nghiệt của cuộc
sống, nhà trường cần phải là cái đối ứng, thậm chí, cái đối cực để nuôi dưỡng
lý tưởng, không để lý tưởng bị sa đọa và suy kiệt. Hãy để cho tuổi trẻ học
được cách làm chủ bản thân mình và không bao giờ chịu làm nô lệ, kể cả làm
nô lệ cho nghề nghiệp và cơm áo.

16


Tóm lại, xung quanh lý tưởng, triết lý và mô hình giáo dục của
Humboldt tuy vẫn còn những tranh luận nhưng có thể khẳng định chúng có
ảnh hưởng to lớn đối với nền giáo dục hiện đại.
1.2.2. Tư tưởng của J.Dewey về dân chủ và giáo dục
Tư tưởng triết học và sự nghiệp giáo dục của John Dewey (1859 1952) đã bao trùm đời sống tri thức Mỹ, ảnh hưởng to lớn nền giáo dục Mỹ
suốt thế kỷ XX. Ông có tác phẩm nổi tiếng “Dân chủ và giáo dục” được đón
nhận và gây tiếng vang trên thế giới. Lý thuyết về kinh nghiệm phải được

hiện thực hóa thông qua thực nghiệm và phù hợp với thực tiễn. Đó chính là
cốt lõi của tư tưởng triết học thực dụng của John Dewey được ông vận dụng
vào trong giáo dục.
Triết học giáo dục của John Dewey ra đời trong bối cảnh lịch sử của
nước Mỹ đầu thế kỷ XX. Dewey đã dành rất nhiều tâm huyết của mình cho sự
nghiệp xây dựng một nền giáo dục dân chủ, vì lợi ích to lớn của con người, vì
sự tiến bộ của người học, vì sự phát huy trí tuệ, đạo đức nơi mỗi cá nhân con
người, nhằm xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp.
J.Dewey đã đối lập tư tưởng giáo dục của ông với giáo dục của nhà
trường truyền thống với nhiều điểm lạc hậu của nó. Từ đó J.Dewey bắt đầu đi
vào đặt vấn đề: Triết học giáo dục là một nỗ lực nhằm tìm ra giáo dục là gì?
Giáo dục diễn ra như thế nào? Để trả lời câu hỏi ấy Dewey đã xuất phát từ căn
cứ khoa học với sinh vật học và tâm lý học chức năng. Ông cho rằng trước
khi chúng ta có thể phát biểu một triết lý giáo dục, chúng ta buộc phải hiểu
được bản tính con người được cấu tạo như thế nào trong cụ thể, chúng ta buộc
phải hiểu được những hoạt động của những ảnh hưởng xã hội có thực. Rõ
ràng, J. Dewey đã chú ý đến hai yếu tố tương tác với nhau để cho những kết
quả giáo dục. Đó là yếu tố cá nhân và yếu tố môi trường xã hội. Trong hoạt
động tương tác ấy, những nguyên liệu cơ bản được biến thành điều gì đó
mang ý nghĩa to lớn hơn. Và trong tiểu luận “Nhu cầu về một triết học giáo
17


dục”: ông cho rằng giáo dục là một quá trình của phát triển, của tăng trưởng,
tăng trưởng xã hội trên cơ sở cá nhân. Mục tiêu của giáo dục là phát triển tối
đa những tiềm năng cá nhân. Quá trình giáo dục là quá trình hoạt động của
con người trong một xã hội. Đó là một xã hội của những cá nhân tự do trong
đó tất cả bằng lao động của riêng mình đóng góp cho sự khai phóng và làm
phong phú cuộc sống của người khác, chính là môi trường duy nhất để mọi cá
nhân có thể thực sự phát triển bình thường xứng với tầm của mình.

Trong triết lý giáo dục của John Dewey, tư tưởng khoa học đã làm cơ sở
thật vững chắc để ông tiến tới tư tưởng dân chủ trong giáo dục - một triết lý
gắn với thực tiễn của thời đại, đồng thời là một triết lý tiến bộ nói lên được
khát vọng nhân văn to lớn, sâu xa của loài người. Ông đã viết: “Trong một thế
giới bị cuốn vào cuộc chạy đua điên rồ và thường là tàn nhẫn vì lợi ích vật
chất bằng sự cạnh tranh liên tục, thì trường học phải có trách nhiệm bằng nỗ
lực có tổ chức một cách thông minh và bền bỉ để trên hết phải phát triển ý chí
hợp tác và tinh thần biết nhận ra ở mọi cá nhân khác một con người có quyền
bình đẳng chia sẻ những thành quả văn hóa và vật chất của sự sáng tạo tập
thể, của nền công nghiệp, của kỹ năng và tri thức của con người. Mục tiêu tối
cao về trí tuệ và nhân cách này là có tính tất yếu vì những lý do khác chứ
không phải là để bù đắp cho cái tinh thần vô nhân đạo sinh ra từ sự cạnh tranh
kinh tế và bóc lột” [8, tr. 66]. “Một xã hội không đáng hoan nghênh là một xã
hội đặt ra bên trong và bên ngoài nó những rào cản ngăn chặn sự giao tiếp và
truyền đạt kinh nghiệm một cách tự do. Một xã hội cho phép mọi thành viên
chia sẻ bình đẳng lợi ích của nó và điều chỉnh linh hoạt các thiết chế dựa vào
mối quan hệ tương giao của các hình thái tồn tại liên kết khác nhau, xã hội ấy
cho tới nay được gọi là dân chủ. Với tính chất như thế, một xã hội phải có
một kiểu giáo dục giúp cho các cá nhân có được mối hứng thú riêng tới các
quan hệ xã hội và kiểm soát xã hội, và tạo ra những thói quen tinh thần có thể
duy trì những thay đổi xã hội mà không gây nên sự hỗn loạn”. [7, tr. 126]
18


Chúng ta có thể thấy khoa học và dân chủ là hai nội dung lớn duy nhất
có mối quan hệ biện chứng với nhau bao trùm trong triết lý giáo dục của John
Dewey. Tinh thần khoa học và dân chủ thấm nhuần, chi phối mọi khía cạnh
nội dung lý luận giáo dục của John Dewey, tạo nên tính nhất quán của triết lý
giáo dục của ông. Triết lý ấy hóa thân vào các nội dung lý luận giáo dục sinh
động, đa dạng thể hiện qua nhiều công trình khá đồ sộ mà John Dewey đã

đóng góp cho nhân loại.
Theo J. Dewey: Trường học không đơn thuần là nơi người lớn dạy cho
trẻ em các bài học kiến thức và bài học luân lý. Trường học phải là một cộng
đồng dân chủ, trong đó mọi hoạt động được tập trung nhằm tạo ra hiệu quả
cao nhất trong việc chia sẻ cho người học di sản tri thức nhân loại và làm cho
họ có thể sử dụng tài năng của mình vào mục đích xã hội. Vì thế giáo dục là
một hoạt động của đời sống, là bản thân quá trình sống của trẻ em chứ không
phải là một sự chuẩn bị cho một cuộc sống tương lai đầy mơ hồ nào đấy.
Nhà trường có nhiệm vụ tạo ra những điều kiện tốt nhất để cá nhân
người học phát huy hết năng lực của mình, tạo dựng kiến thức cho mình bằng
toàn bộ công cụ của chính mình như: đôi mắt, đôi tai, đôi tay, đặc biệt là tư
duy. Tóm lại, người học có thể phát triển toàn vẹn mọi khả năng của mình để
tham gia vào đời sống xã hội.
Không có nội dung hay giá trị tự thân tuyệt đối nào từ bên ngoài được
mang áp đặt cho người học. Nhà trường và giáo viên phải tạo ra một môi
trường trong đó những hoạt động của trẻ chứa đựng cả những tình huống khó
khăn. Từ đó, người học tự tìm tòi và xây dựng kiến thức thông qua kinh
nghiệm và tư duy, thông qua trải nghiệm của chính bản thân.
Người học là mục đích tồn tại của hoạt động giáo dục. Người học phải
liên tục được khuyến khích tham gia vào các hoạt động của nhà trường, họ
phải thực sự là người cộng tác để lên kế hoạch cho chương trình học và do đó
lên kế hoạch cho toàn bộ môi trường học. Qua hoạt động của nhà trường, học
19


sinh tham gia vào những phương pháp khoa học và thủ tục dân chủ. Học sinh
thực sự tham gia vào việc sáng tạo, duy trì một đời sống xã hội trong cộng
đồng lớp học ở trong nhà trường.
Người giáo viên đóng vai trò là tác nhân quan trọng bậc nhất cho sự
khai phóng của người học. Giáo viên không phải là người có “quyền uy ban

phát” kiến thức, không phải là một vị quan tòa, mà chính là một thành viên
trong cộng đồng lớp học. Giáo viên có nhiệm vụ là môt tác nhân kích thích.
Bằng việc cung cấp vật liệu, tổ chức, gợi ý, hướng dẫn giáo viên có thể tạo ra
một môi trường khuyến khích sự học tập. Muốn như vậy giáo viên phải là một
chuyên gia được đào tạo tốt, một người hiểu biết giáo dục toàn diện.
Nội dung của giáo dục phải phản ánh được sự phát triển của loài người,
nội dung phải mang tính tăng tiến. Chương trình học phải hiện đại song hành
với sự phát triển của loài người. Phương pháp giáo dục phải gắn chặt với đối
tượng, nội dung giáo dục. Phương pháp ở đây là phương pháp của năng lực và
hứng thú của trẻ em, của cá nhân đang trưởng thành, chứ không phải là
phương pháp của người lớn (những người đã trưởng thành). Phương pháp là
sự trình bày rõ ràng biện pháp triển khai nội dung của một kinh nghiệm đang
diễn ra để nó đem lại hiệu quả và kết quả nhiều nhất. Bởi vậy mà không thể
tách rời phương pháp pháp giáo dục ra khỏi nội dung giáo dục.
1.2.3. Quan điểm giáo dục của Albert Einstein
Albert Einstein (1879 - 1955) là nhà bác học thiên tài người Mỹ gốc
Đức. Sinh thời ông cũng từng là giáo sư đại học, thể hiện mối quan tâm đến
việc giáo dục thế hệ trẻ qua nhiều bài viết và diễn văn. Với tầm nhìn của một
nhà khoa học lớn cùng tấm lòng nhân hậu, Einstein đã phát biểu những tư
tưởng của mình về một nền giáo dục căn bản cho xã hội hiện đại. Những tư
tưởng đó được đăng rải rác ở nhiều nơi, chủ yếu vào những năm cuối đời và
tập trung hơn cả là bài phát biểu của ông tại Albany, NewYork ngày
15/10/1936 nhân kỷ niệm 300 năm giáo dục Hoa Kỳ.
20


Khi đánh giá vai trò của nhà trường trong xã hội, Einstein cho rằng
“Nhà trường luôn là phương tiện quan trọng nhất trong việc chuyển tải những
giá trị truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, do sự phát triển
hiện đại của đời sống kinh tế, gia đình vốn là người mang giữ truyền thống và

giáo dục, đang bị yếu dần đi, do đó sự trường tồn và sức sống của xã hội phụ
thuộc vào nhà trường ở mức độ nhiều hơn trước kia”.
Einstein không đồng tình với quan niệm nhà trường như một công cụ
để truyền đạt một khối lượng kiến thức tối đa cho thế hệ trẻ. Vì lý do “kiến
thức là cái gì chết cứng, còn trường học phục vụ cái sống”. Với ông: “Nhà
trường có nhiệm vụ phát triển trong thanh niên những phẩm chất và năng lực
có ý nghĩa đối với hạnh phúc của cộng đồng, nhưng điều đó không có nghĩa là
làm mất đi cá tính của mỗi thành viên. Con người không thể là công cụ của
cộng đồng”. Theo Einstein thì: “Một xã hội của những cá thể thiếu cá tính là
một xã hội nghèo nàn không thể phát triển được... Mục tiêu của nhà trường
phải là đào tạo những cá thể có tư duy và hành động một cách độc lập, những
con người nhìn thấy trong sự nghiệp phục vụ cộng đồng lý tưởng cao cả nhất
của cuộc sống”.
Einstein có quan niệm về phương pháp giáo dục như sau: “Điều tồi tệ
nhất đối với một trường học là làm việc bằng phương pháp cưỡng bức, doạ
nạt, quyền uy giả tạo. Cách đối xử như vậy làm hỏng tình cảm đẹp, lòng chân
thành và sự tự tin của học sinh. Điều này sản sinh ra những con người chỉ biết
phục tùng”. Ông đã đề nghị: “Chỉ trao vào tay quyền lực của người thầy
những biện pháp cưỡng bức rất hạn chế để sao cho những phẩm chất trí tuệ và
nhân văn của người thầy là nguồn gốc sự kính trọng của học sinh... Nếu
không có sự khích lệ tinh thần loại này thì sự hợp tác giữa những con người
không thể có được”.
Mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng được Einstein rất coi trọng.
Ông cho rằng bản chất nhân văn bảo đảm cho sự hợp tác giữa mọi người với
21


×