Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiên nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………………….



LÊ THỊ NGUYỆT




PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học







Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………………….





LÊ THỊ NGUYỆT




PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành triết học
Mã số: 60.22.03.01


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Anh Tuấn





Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã
được chỉ rõ nguồn gốc.


Học viên thực hiện Luận văn


Lê Thị Nguyệt
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và phát huy giá trị đạo đức truyền thống 8
1.1.1. Các khái niệm “đạo đức”, “giá trị” và “giá trị đạo đức” 8
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam 20
1.1.3. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam 33
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về toàn cầu hóa 36
1.2.1. Khái niệm toàn cầu hóa 36
1.2.2. Tác động tích cực của toàn cầu hóa 39
1.2.3. Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá 42
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
HIỆN NAY 48
2.1. Thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra 48
2.1.1. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống yêu nước 48
2.1.2. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống đoàn kết và nhân ái 53
2.1.3. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động 57
2.1.4. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống hiếu học 60
2.1.5. Một số vấn đề đặt ra trong phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay 65
2.2. Giải pháp phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa 68

2.2.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện phát huy tốt các giá trị
đạo đức truyền thống 68
2.2.2. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 70
2.2.3. Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
toàn xã hội 72
2.2.4. Xây dựng chính sách cụ thể phát huy giá trị đạo đức truyền thống 74
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một dân tộc có bề dày lịch sử, đã trải qua biết bao biến động lớn
nhưng vẫn hiên ngang giữ vững chủ quyền và phát triển. Vị trí địa lý gần như nằm
ở trung tâm khu vực Đông Nam Á tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu với
nhiều nước trên thế giới, nhưng đó cũng chính là những khó khăn của dân tộc ta
trong việc chống chọi với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và chống lại những kẻ
xâm lược hung bạo, hùng mạnh nhất trên thế giới. Vì vậy, muốn tồn tại và phát
triển Việt Nam không còn cách nào khác là phải khơi dậy và phát huy nội lực của
mình một cách mạnh mẽ.
Trong những thời khắc gian khó và đầy thử thách của lịch sử dân tộc, giá trị
đạo đức truyền thống vừa là kết quả vừa là động lực của quá trình đấu tranh đầy
cam go đó. Chính những giá trị đạo đức ấy đã thúc đẩy tinh thần đấu tranh vượt
qua mọi chông gai thử thách để nhân dân ta xây dựng và phát triển đất nước Việt
Nam được như ngày hôm nay. Cũng chính điều đó đã làm nên nét riêng biệt của
dân tộc Việt Nam được bạn bè quốc tế công nhận với lòng ngưỡng mộ và khâm
phục sâu sắc.

Đạo đức là hình thái ý thức xã hội do tồn tại xã hội quy định đồng thời cũng
chịu sự tác động của các hình thái ý thức xã hội khác. Những giá trị đạo đức truyền
thống của Việt Nam tuy mang tính ổn định bền vững nhưng cũng không phải là
nhất thành bất biến, mà thường xuyên vận động và biến đổi theo dòng lịch sử. Vì
vậy, khi lịch sử bước sang trang mới thì những giá trị đạo đức truyền thống cũng
biến đổi và cần phải được nhận thức lại, lựa chọn cho phù hợp điều kiện hiện tại.
Điều đó sẽ làm cho hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ngày càng
phát triển phong phú, đa dạng, góp phần tích cực vào sự phát triển đời sống xã hội
của chúng ta.
Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân
dân ta đang ra sức xây dựng một xã hội tiến bộ, công bằng, dân chủ và văn minh.
2

Để thực hiện thành công sự nghiệp đó, một mặt, chúng ta cần hướng tới xác lập
đạo đức mới, xã hội chủ nghĩa nhằm đưa đến cho con người những điều tốt đẹp
nhất ngay trong từng bước đi tới tương lai đó. Mặt khác, cũng cần hướng ra bên
ngoài để hội nhập, học hỏi kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt hơn công cuộc xây
dựng xã hội mới.
Chúng ta hội nhập thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra như một
cơn lốc cuốn hút tất cả các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Đây là một xu thế tất
yếu, khách quan phù hợp quy luật của thời đại mà không một quốc gia nào có thể
đứng ngoài vì đứng ngoài đồng nghĩa với việc sẽ tụt hậu. Toàn cầu hóa đã đem đến
cho tất cả các nước đặc biệt là các nước đang phát triển những cơ hội to lớn trên
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhưng mặt khác nó cũng đặt ra những thử thách
không nhỏ, mà một trong số đó chính là sự xâm nhập, lai căng dẫn đến phá vỡ
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho các dân tộc yếu thế không
còn là chính mình nữa.
Như mọi quốc gia khác, Việt Nam cũng chịu sự quy định của xu thế toàn cầu
hóa đó. Vì vậy, trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của kinh tế, xã
hội, văn hóa thì đạo đức xã hội của chúng ta cũng có nhiều biến động theo chiều

hướng tích cực thể hiện ở việc con người trong xã hội đang trở nên bình đẳng với
nhau hơn, quan tâm, đùm bọc nhau hơn, có xu hướng xích lại gần nhau hơn Bên
cạnh đó mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cũng đang tác động
mạnh mẽ đến đời sống đạo đức xã hội của chúng ta như tình trạng “đồng tiền lên
ngôi, lối sống vụ lợi, vị kỷ, thực dụng, tôn thờ các giá trị vật chất, các tiện nghi tiêu
dùng và hưởng lạc, sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân cực đoan đã lấn át và làm
xói mòn các giá trị tinh thần, làm hủy hoại đạo đức, nhân cách” [50, 11] và cũng
chính “hiện trạng đạo đức suy thoái gây nhức nhối cho xã hội, làm cho lòng dân
không yên, xã hội tiềm ẩn những mất ổn định. An ninh xã hội và an toàn cuộc sống
bị đe dọa” [50, 113].
3

Vì vậy, vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay là làm thế nào để trong quá trình
hội nhập chúng ta không bị hòa tan, cũng như không đánh mất những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, mà ngược lại thông qua hội nhập với khu vực và thế
giới chúng ta không chỉ tiếp thu những nét đẹp đạo đức mới của nhân loại, mà còn
có thể vẫn giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của ông
cha, làm cho chúng trở thành động lực đưa đất nước vươn lên một tầm cao mới.
Đây thực sự là vấn đề cấp bách lôi cuốn sự qua tâm của nhiều cấp, nhiều ngành, và
cũng khiến các nhà nghiên cứu trăn trở, suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết cho
phù hợp với điều kiện hiện nay.
Vì những lý do đó tác giả đã lựa chọn vấn đề Phát huy giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay làm đề tài nghiên
cứu trong luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề giá trị truyền thống nói chung và giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam nói riêng đã được nhiều tác giả với nhiều công trình quan tâm nghiên cứu.
Tiêu biểu phải kể đến công trình của tác giả Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc Việt Nam [14]. Trong công trình này tác giả đã đề
cập đến cơ sở hình thành, nội dung và những biểu hiện của các giá trị tinh thần

truyền thống của dân tộc, trong đó chủ yếu là những giá trị đạo đức.
Gần 30 năm qua đất nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là mảnh đất màu mỡ để các nhà nghiên cứu
khai thác các đề tài về giá trị truyền thống nói chung và giá trị đạo đức truyền
thống nói riêng. Tiêu biểu cần kể đến công trình do tác giả Phạm Minh Hạc chủ
biên (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
[16]. Công trình đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về truyền thống, cơ sở hình
thành cùng những nội dung cơ bản của truyền thống Việt Nam và phát huy vai trò
của truyền thống trong nhân tố con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
4

đại hóa. Công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn
Đức, Hồ Sỹ Quý đồng chủ biên (2001), Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa [4], đã phản ánh rõ những nét cơ
bản về giá trị và giá trị truyền thống được thể hiện trong mối quan hệ giữa văn hóa
truyền thống với sự phát triển trong đó nhấn mạnh vị thế chủ thể của văn hóa nội
sinh trong hội nhập, khai thác những yếu tố tích cực của Nho giáo Việt Nam phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiếp đến, công trình nghiên cứu Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay [5] do các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn
Văn Phúc đồng chủ biên (2003), đã đề cập đến những tác động của kinh tế thị
trường đối với những giá trị đạo đức truyền thống, vai trò của đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường và đề xuất một số giải pháp xây dựng đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Trong cuốn sách Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay: Vấn đề và giải pháp
[50] của Viện khoa học Xã hội Việt Nam do các tác giả Nguyễn Duy Quý và
Hoàng Chí Bảo chủ biên (2006), đã gióng lên những hồi chuông cảnh báo thực
trạng xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay. Với những
tác động của kinh tế thị trường và sự mở rộng giao lưu quốc tế, đạo đức xã hội Việt

Nam hiện nay đã có biến đổi thuận như: Sự bình đẳng trong xã hội, tự do dân chủ
của con người được tăng lên. Bên cạnh đó cuốn sách nêu lên những hạn chế,
những điều đáng lo ngại là đạo đức gia đình và xã hội, đạo đức trong các ngành,
các lĩnh vực đang rất sa sút như lối sống chạy theo đồng tiền, sự tha hóa đạo đức
của một bộ phận cán bộ công chức nhà nước, tình trạng tội phạm gia tăng Điều
đó đang gây ra những bức xúc cho xã hội, những lo lắng cho người dân. Trên cơ sở
phân tích sâu sắc thực trạng đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay, các tác giả đã nêu
lên giải pháp như tăng cường nghiên cứu giảng dạy đạo đức trong xã hội, nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam, để khắc phục những hạn chế
thiếu sót trên.
5

Như vậy, các công trình trên đây chủ yếu tập trung nghiên cứu quá trình
hình thành giá trị truyền thống và đạo đức truyền thống, sự chuyển đổi đạo đức
truyền thống trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong điều
kiện kinh tế thị trường mà chưa chú ý nhiều đến sự biến động các giá trị truyền
thống, đặc biệt là phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu
hóa nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Toàn cầu hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề lớn và
mang tính thời sự, vì vậy đã không ít các sách báo, công trình khoa học đề cập đến
ở nhiều góc độ tiêu biểu khác nhau. Toàn cầu hóa - những vấn đề lý luận và thực
tiễn [41] của tác giả Lê Hữu Nghĩa và tác giả Lê Ngọc Tòng đồng chủ biên (2004).
Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài KX.08.01 về xu thế toàn cầu hóa trong hai
thập niên đầu thế kỷ XXI, gồm có 27 chuyên luận tập trung làm rõ các vấn đề về
đặc điểm, bản chất của toàn cầu hóa, tính hai mặt của toàn cầu hóa đối với phát
triển kinh tế của các quốc gia và tác động của toàn cầu hóa đến các mặt chính trị,
xã hội, văn hóa ở các nước. Công trình Toàn cầu hóa - cơ hội và thách thức đối với
các nước đang phát triển [52] của tác giả Đường Vinh Sường (2004) được thực
hiện trên cơ sở phân tích, tổng hợp các đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế,
những cơ hội và thách thức đặt ra với các nước đang phát triển đồng thời có sự liên

hệ với Việt Nam trong quá trình đổi mới. Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu
của tác giả như Nguyễn Văn Thanh (2003) chủ biên, Những mảng tối của toàn cầu
hóa [54]. Như vậy, các công trình nghiên cứu về toàn cầu hóa ở trên đây chủ yếu
tập trung nghiên cứu sự tác động của toàn cầu hóa đối với vấn đề kinh tế trong khi
đó các vấn đề xã hội khác, nhất là vấn đề giá trị đạo đức truyền thống ít được đề
cập đến.
Đứng trước tác động của toàn cầu hóa đối với các vấn đề của quốc gia
những năm gần đây đã diễn ra nhiều cuộc hội thảo quốc tế lớn bàn về vấn đề giữ
gìn và phát huy những giá trị truyền thống của các dân tộc trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay. Tiêu biểu là công trình (2002) Giá trị truyền thống trước những
thách thức của toàn cầu hóa [3] do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên
6

đồng chủ biên. Công trình đã tập hợp những bài viết chọn lọc của một số tác giả
được trình bày trong Hội thảo khoa học quốc tế “Giá trị truyền thống trước những
thách thức của toàn cầu hóa” được tổ chức tại Hà Nội vào 5/2001. Tiếp đến là cuộc
Hội thảo Quốc tế “Toàn cầu hóa - Những vấn đề triết học châu Á - Thái Bình
Dương” được tổ chức tại Hà Nội tháng 11 năm 2005. Các bài tham luận đều tập
trung làm rõ thực chất của toàn cầu hóa và những thách thức cũng như cơ hội của
toàn cầu hóa đối với việc giữ gìn và phát huy những những giá trị truyền thống của
dân tộc Việt Nam đồng thời bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và
phát huy những giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Tuy
nhiên, các công trình trên đây phần lớn tập trung nghiên cứu giá trị truyền thống
của dân tộc nói chung ít đề cập đến vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống
trong bối cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt chưa thật rõ những giá trị đạo đức truyền
thống nào cần phát huy để góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước. Vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu mong muốn góp một phần nhỏ bổ
sung làm rõ hơn những vấn đề đã được trình bày ở trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở lý luận về giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và

toàn cầu hóa, luận văn phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, từ đó đề xuất một số giải pháp phát huy giá
trị đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ các khái niệm đạo đức, giá trị, giá trị đạo đức, giá trị đạo đức
truyền thống và toàn cầu hóa, phân biệt với văn hóa, giá trị văn hóa truyền thống.
- Làm rõ khái niệm phát huy giá trị đạo đức truyền thống.
- Phân tích thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

7

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm triết học Mác -
Lênin về đạo đức, về mối liên hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đạo đức mới.
Luận văn cũng kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trước về giá trị
truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống và toàn cầu hóa.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
biện chứng như thống nhất lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy
nạp, kết hợp lý luận với thực tiễn, so sánh, khái quát hóa
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Phát huy giá trị đạo đức truyền thống.
Phạm vi: Luận văn nghiên cứu chủ yếu tập trung trong lĩnh vực đạo đức ở
Việt Nam, đặc biệt là lựa chọn một số giá trị đạo đức truyền thống cần phát huy
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung phân tích thực trạng và một số vấn đề đặt ra cho việc

phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Từ
thực trạng đó đề xuất một số giải pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề tồn tại,
góp phần phát huy hơn nữa giá trị đạo đức truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ giá trị đạo đức truyền thống và
vấn đề phát huy các giá trị đó trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được vận dụng vào việc xây
dựng đạo đức mới của con người Việt Nam hiện nay và có thể dùng làm tài liệu
tham khảo giảng dạy và học tập môn đạo đức học.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 4 tiết.

8

CHƢƠNG 1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và phát huy giá trị đạo đức truyền
thống
1.1.1. Các khái niệm “đạo đức”, “giá trị” và “giá trị đạo đức”
* Khái niệm đạo đức
Đạo đức học cổ đại xuất hiện như là một phương thức lĩnh hội thế giới về
mặt tinh thần, khởi nguồn từ Xôcrat vốn là nhân vật độc đáo rất nổi tiếng, như một
chiến binh, nhà thông thái, nhà thuyết khách vĩ đại, nhà hùng biện bậc thầy. Với
phương châm chỉ đạo tư tưởng đạo đức là, hãy tự nhận thức bản thân mình, Ông đã
chứng minh rằng đạo đức là tri thức. Người ta có được đạo đức là nhờ sự hiểu và
do vậy, chỉ sau khi hiểu biết, nghĩa là đã có khái niệm chính xác về đạo đức mới
trở thành người đạo đức được.
Platôn là nhân vật lớn của triết học Hy Lạp cổ đại - người đã sáng lập đường

hướng duy tâm triết học. Theo ông nguồn gốc của đạo đức không phải ở trong bản
chất con người mà là trong linh hồn vĩnh cửu độc lập với con người cụ thể. Ông
cho rằng, thế giới hiện thực chỉ là nguồn gốc của những sai lầm và tội ác. Tri thức
đúng đắn sẽ đạt được thông qua sự hồi tưởng của linh hồn, mà theo ông, gồm có ba
phần: lý trí, ý chí và cảm xúc, trong đó phần thứ nhất là cơ sở của sự thận trọng. Sự
kết hợp hài hòa ba phần này giúp đạt tới đức hạnh và chính nghĩa. Platôn cho rằng,
Thượng đế chính là quan tòa tối cao soi xét mọi hành vi của con người, do vậy cần
giáo dục công dân tôn kính thượng đế để trở thành người đạo đức.
Arittôt, theo nhận định của C.Mác, là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại.
Ông đã phê phán quan điểm của Platôn, xuất phát từ quan niệm về mối liên hệ mật
thiết giữa đạo đức và chính trị. Ông đã xác định cái gì phục vụ cho nhà nước và
củng cố trật tự đang tồn tại thì cái đó có phẩm hạnh, khái niệm chính nghĩa trong
mối quan hệ với người khác, quan tâm đến người khác, là sự thể hiện hành động
9

chính nghĩa của con người tự biểu hiện trước hết như một thực thể chính trị và xã
hội. Arittôt là người đã thấy được nguồn gốc hành vi đạo đức của con người trong
xã hội. Theo ông, hạnh phúc là mục đích cao nhất của con người và giáo dục phẩm
hạnh là phương tiện để đạt đến mục đích ấy. Ông cho rằng, nếu chính trị đi tìm
hạnh phúc cho xã hội thì đạo đức lại đi tìm hạnh phúc cho cá nhân, chính điều đó
làm chính trị và đạo đức có mối liên hệ, tác động lẫn nhau.
Epiquya lại cho rằng, những yêu cầu quyền lợi và khát vọng của con người
phản ánh bản chất của con người. Theo ông, nhiệm vụ của đạo đức học là dạy cho
con người biết lựa chọn cách sống một cách khôn ngoan, biết thỏa mãn những
mong ước tất yếu và biết tránh xa những mong ước vô nghĩa. Ông kết luận sự ôn
hòa là nền tảng của cuộc sống hạnh phúc.
I.Cantơ cho rằng, lý tính là nguồn gốc sinh ra các nguyên lý, các chuẩn mực
đạo đức. Vì vậy, ý chí đạo đức hay là thiện ý, theo cách gọi của Cantơ là năng lực
hành động phù hợp với quy luật đạo đức phổ biến, nghĩa là phù hợp với mệnh lệnh
tuyệt đối. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi hoạt động của con người phải hướng tới

cộng đồng, sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và người khác. Điều đó
cũng có nghĩa rằng, mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi con người hành động theo một
pháp chế phổ biến. Nhưng, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì các giai cấp khác
nhau có quan niệm khác nhau về lý tưởng của một pháp chế phổ biến. Vì vậy, trên
thực tế, mệnh lệnh tuyệt đối không thể trở thành một pháp chế phổ biến được.
Đối với G.Hêghen, cội nguồn và cơ sở của tất cả những hiện tượng tự nhiên
và xã hội là một bản nguyên tinh thần, lý tính và được gọi là ý niệm tuyệt đối. Ý
niệm này tự vận động, phát triển và thể hiện ra thành toàn bộ những hiện tượng tự
nhiên và xã hội. Tuân thủ lôgic đó, Hêghen cho rằng, đạo đức bắt nguồn từ ý niệm
pháp lý, còn ý niệm pháp lý là một hình thái biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Cũng
như ý niệm tuyệt đối, ý niệm pháp lý vận động, phát triển hay là tự nhận thức bản
thân mình theo xu hướng đi từ trừu tượng đến cụ thể. Bởi thế, điểm xuất phát hay
là bậc thứ nhất của ý niệm pháp lý là pháp luật chủ quan được Hêghen gọi là luân
10

lý. Sự thống nhất giữa pháp luật khách quan và pháp luật chủ quan, sự thể hiện cụ
thể của sự thống nhất này trong gia đình, xã hội và quốc gia chính là bậc phát triển
thứ ba của ý niệm pháp lý được Hêghen gọi là đạo đức. Như vậy, ở Hêghen, luân
lý với tư cách là phương diện chủ quan của hành vi và đạo đức với tư cách là
phương diện khách quan của hành vi đều là biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Đạo
đức tuy là một hiện tượng xã hội, biểu hiện trong các quan hệ gia đình, xã hội,
quốc gia, nhưng về bản chất lại là biểu hiện của ý niệm tuyệt đối, có nguồn gốc từ
ý niệm tuyệt đối.
L.Phoiơbắc cho rằng, đạo đức chỉ tồn tại ở đâu có mối quan hệ giữa người
với người, hay nói như cách nói của ông, ở đâu có mối quan hệ giữa “tôi và anh”.
Nhưng Phoiơbắc quy mọi quan hệ người vào quan hệ đạo đức và cho rằng, nguyên
tắc cơ bản của đạo đức là sự thương yêu lẫn nhau giữa mọi người. Từ đó, ông
tuyên truyền cho một tình yêu phổ biến và kêu gọi mọi người phải biết “hạn chế
mình một cách phổ biến”. Đối với ông vươn tới một thứ đạo đức tình yêu như vậy,
con người có thể khắc phục được mọi bất công, mọi đau khổ với tính cách là

những ngẫu nhiên đi chệch khỏi bản chất đích thức của con người. Mặc dù thấy
được đạo đức trong quan hệ người, nhưng Phoiơbắc không thấy được tính quy
định của các quan hệ kinh tế - xã hội đối với đạo đức. Vì thế, rốt cuộc đạo đức đối
với ông cũng chỉ là một năng lực bẩm sinh, trừu tượng, bất biến và xét đến cùng
cũng chỉ là sức mạnh từ bên ngoài gán vào cho xã hội và con người.
Khác với tất cả các quan niệm trên, quan niệm mácxít khẳng định rằng,
đạo đức có nguồn gốc từ lao động. Tính quy định sâu xa của lao động đối với sự
hình thành đạo đức biểu hiện trước hết ở vai trò của lao động trong sự hình
thành con người.
Trong tác phẩm Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn
thành người, bằng sự khái quát các tài liệu sinh học, nhân học đương thời, Ph.Ăng
ghen đã chỉ ra rằng: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống
loài người, và như thế, đến một mức độ mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
11

nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [31, 641]. Nhưng, lao động không
chỉ sáng tạo ra con người với tư cách là con người sinh vật, nghĩa là làm phát triển
bộ não hoàn thiện các quan năng, mà quan trọng hơn là lao động đã sáng tạo ra con
người với tư cách là con người xã hội có năng lực, các phẩm chất như: nhận thức,
thẩm mỹ, đạo đức
C.Mác chỉ ra rằng, hành động lịch sử đầu tiên của con người là lao động.
Nhưng lao động với tư cách là lao động thì không bao giờ là một hành động đơn
lẻ, cá biệt. Trong các quan hệ giữa người với người, nghĩa là trong các quan hệ xã
hội, con người tiến hành lao động để thỏa mãn các nhu cầu cũng như các lợi ích
của mình. Nhờ có tư duy, con người nhận ra sự cần thiết của sự tương trợ lẫn nhau
trong lao động. Tính tất yếu này đòi hỏi một sự hy sinh nhất định lợi ích cá nhân
cho lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng. Nhưng đổi lại, lao động của con
người có hiệu quả hơn. Sự tương trợ đó, ban đầu được thể hiện trên cơ sở con
người ý thức được tính tất yếu về mặt lợi ích của sự tương trợ lẫn nhau. Nhưng, sự
tương trợ lẫn nhau một khi đã trở thành thói quen, tập quán thì khi đó con người

nảy sinh khát vọng tương trợ tự nguyện. Khát vọng đó chính là tình cảm đạo đức
đầu tiên của con người. Hành vi được điều chỉnh bởi ý thức khát vọng tương trợ tự
nguyện chính là hành vi đạo đức đầu tiên của con người. Từ lao động và cùng với
lao động, sự tương trợ lẫn nhau được mở rộng ra các lĩnh vực sống của con người
và xã hội. Đó chính là cơ chế của sự hình thành đạo đức.
Như vậy, đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của con
người. Nó hiện diện như một phương thức điều chỉnh hành vi người đặc thù. Sự
điều chỉnh ấy dựa trên cơ sở tự giác, tự nguyện và ưu tiên lợi ích của cộng đồng xã
hội. Trong Lời tựa của tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác
viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã
hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định
tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [30, 15].
Luận điểm này đã giải thích bản chất tất cả các hiện tượng xã hội và trong đó có cả
12

đạo đức.Như vậy, khác với tất cả các nhà thần học và triết học trước đó, C.Mác
nhìn nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Trong sự tác động qua lại với các
hình thái ý thức xã hội khác (chính trị, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật) và cùng với
các hình thái ý thức xã hội ấy, đạo đức chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, Từ điển tiếng Việt, do tác giả Hoàng Phê chủ biên,
Nxb Đà Nẵng, 1997, nêu hai nghĩa của từ đạo đức:
"Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận,
quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.
Đạo đức phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu
chuẩn đạo đức mà có” [44, 280].
Tác giả Huỳnh Khái Vinh viết trong cuốn sách Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn mực xã hội rằng, “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm:
những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội,

trong quan hệ người - người” [64, 44].
Hay “Đạo đức là một quan hệ xã hội có quy tắc, có chuẩn mực, có đánh giá,
có giá trị, nhưng nó không ghi thành văn bản pháp quy mà thông thường là nếp
sống, phong tục, tập quán do một cộng đồng nhất định tạo thành khi chung sống
với nhau. Các quan hệ đạo đức trong xã hội thường được điều chỉnh bằng dư luận
xã hội” [8, 11].
Nhưng, dù xét ở góc độ nào đi chăng nữa đạo đức vẫn là một hình thái ý
thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, tư tưởng đạo đức vừa
phản ánh tồn tại xã hội, vừa có mối quan hệ mật thiết với các hình thái ý thức
xã hội khác.
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng đạo đức cũng như
tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng nghệ thuật, đều là sự phản ánh
một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Dưới các
13

hình thức phản ánh khác nhau, các tư tưởng ấy đều biểu hiện các lợi ích kinh tế,
chính trị, pháp quyền, đạo đức của một dân tộc, một giai cấp, một thời đại nhất
định. Sự tương tác giữa chính trị, đạo đức, pháp quyền, triết học, tôn giáo, khoa
học tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các hình thái ý thức xã hội và đều bị
quyết định bởi tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi
theo. Và ngược lại, như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức cũng có tính
độc lập tương đối so với cơ sở kinh tế và với các hình thái ý thức xã hội khác.
Biểu hiện rõ rệt nhất của tính độc lập tương đối ấy là một số truyền thống, ít
nhiều phong tục, tập quán và thước đo giá trị đạo đức vẫn tồn tại lâu dài khi cơ sở
kinh tế, các thiết chế chính trị sản sinh ra chúng đã mất đi. Nhiều quan hệ đạo
đức vẫn còn tác dụng gìn giữ phát triển các mối quan hệ nhân bản giữa con người
với con người khi điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong đó chúng ra đời đã mất
đi lâu rồi.
Mặt khác, đạo đức cũng thường được coi là một phương thức điều chỉnh
hành vi của con người trong xã hội. Con người ngay từ khi sinh ra đã sống thành

xã hội để đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong xã hội, con người phải điều chỉnh
hành vi của mình sao cho tạo nên sự phù hợp giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã
hội. Tham gia điều chỉnh hành vi của con người có nhiều lĩnh vực khác nhau như:
kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức Mỗi lĩnh vực có vai trò khác nhau trong điều
chỉnh hành vi của con người nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Kinh
tế điều chỉnh hành vi của con người thông qua lợi ích kinh tế. Pháp luật điều chỉnh
hành vi con người thông qua các quy chuẩn pháp luật buộc người ta phải tuân theo,
mang tính chất cưỡng bức. Đạo đức dùng một hệ thống các nguyên tắc, các quy
tắc, các chuẩn mực, tạo thành những khuôn mẫu để mọi người noi theo. Đạo đức
điều chỉnh hành vi của con người bằng niềm tin, lý tưởng, bằng lương tâm, trách
nhiệm, bằng dư luận xã hội. Đạo đức điều chỉnh hành vi của con người mang tính
tự giác, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sắc.
14

Không chỉ thế mà đạo đức còn được xem xét với tư cách là một hệ thống các
giá trị thiện, ác. Thiện là giá trị khẳng định lợi ích của xã hội, thiện là những cái gì
con người mong muốn được làm, là những cái mang lại những điều tốt đẹp cho
người khác và cho xã hội, thiện là hướng tới cái văn minh, tiến bộ. Ác là sự phủ
định giá trị, là những cái gì đối lập với những lợi ích của xã hội, là những cái giả
dối đưa lại điều xấu, điều bất hạnh cho ngươi khác, ác là những cái con người
không mong muốn.
Tóm lại, thông qua các quan niệm khác nhau về đạo đức ở trên, trong khuôn
khổ luận văn này chúng tôi hiểu Đạo đức là tập hợp những quy tắc và chuẩn mực
xã hội được lương tâm đồng tình, dư luận xã hội thừa nhận, nhằm đánh giá, điều
chỉnh quan hệ giữa con người với nhau và quan hệ giữa con người với xã hội.
Trong luận văn này chúng tôi xem xét đạo đức trong mối liên hệ với văn
hóa. Vậy văn hóa là gì? Đã có rất nhiều định nghĩa về văn hóa được đưa ra theo
các cách tiếp cận khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ
và Văn hóa Việt Nam, “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người
sáng tạo ra trong lịch sử” [65]. Trong cuốn Xã hội học Văn hóa, tác giả Đoàn Văn

Chúc cho rằng, “văn hóa - vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều
này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là
văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa” [2]. Hồ Chí Minh nói: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [33, 431]. Trong cuốn
Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình” [56, 20].
15

Trong luận văn này chúng tôi dựa vào các quan niệm về văn hóa để đưa ra
một quan niệm phù hợp với đề tài của mình, rằng, Văn hóa là toàn bộ giá trị tinh
thần và vật chất do con người tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, nhờ có văn
hóa mà con người trở nên khác biệt với các loài động vật khác.
Với cách hiểu như trên thì văn hóa sẽ bao hàm giá trị tinh thần như văn học,
nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức, pháp luật Như vậy, đạo đức ở đây là một trong
những giá trị tinh thần của văn hóa, nó bao gồm những quy tắc, chuẩn mực, hành
vi của con người trong xã hội sao cho phù hợp với hoạt động thực tiễn tạo động lực
cho văn hóa xã hội hoàn thiện và phát triển.
* Khái niệm giá trị
Khái niệm giá trị xuất hiện rất sớm ngay từ thời kỳ cổ đại, gắn liền với triết
học và đạo đức học. Sau này khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều lĩnh vực,
nhiều ngành khoa học khác nhau vì vậy được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Giá trị là cái làm cho một vật có lợi, có ý
nghĩa, là đáng quý về phương diện nào đó” [44, 371]. Theo Từ điển bách khoa
Triết học của Liên Xô, giá trị là “khái niệm triết học và xã hội học dùng để chỉ, thứ
nhất, tầm quan trọng có tính khẳng định hay phủ định một khách thể nào đó, khác

với đặc tính tồn tại và chất lượng của khách thể đó, Thứ hai, khía cạnh chuẩn
mực, mệnh lệnh đánh giá của các hiện tượng ý thức xã hội” [trích theo: 48, 19].
Nhìn từ góc độ kinh tế học giá trị là giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng
lao động xã hội cần để sản xuất ra nó. Do vậy, những hàng hóa nào có lượng hao
phí lao động xã hội càng lớn thì giá trị của nó càng cao và ngược lại. Để bộc lộ giá
trị, sản phẩm lao động phải được đem ra trao đổi, mà muốn vậy thì nó phải có ích
tức là phải có giá trị sử dụng, phải có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người.
Trong kinh tế chính trị học, giá trị là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền sản
xuất hàng hóa mà thôi.
Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng giá trị phụ thuộc vào
kinh nghiệm của con người, là biểu hiện thái độ chủ quan của con người về khách
16

thể mà họ đánh giá, như vậy, giá trị hoàn toàn không có tính khách quan. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan lại coi giá trị như là cái thuộc về khách thể, là đặc tính
riêng của khách thể.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch
sử, tính nhận thức được và tính thực tiễn của giá trị.
Như vậy, nói đến Giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính
diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái
hay, cái đẹp và nói đến cái có khả năng thôi thúc con người nỗ lực hành động và
nỗ lực vươn lên. Giá trị được coi là một hiện tượng đặc thù nó có thể là một vật,
hay một liên hệ một ý niệm thỏa mãn được nhu cầu nhất định của con người. Bất
cứ sự vật nào cũng là vật mang giá trị, miễn là sự vật ấy thực sự có ý nghĩa khách
quan và được các thành viên trong xã hội thừa nhận, coi là cái có vị trí quan trọng
trong đời sống và cần đến như một nhu cầu thực sự. Giá trị được phân thành nhiều
loại giá trị tinh thần, giá trị vật chất, giá trị xã hội
* Khái niệm giá trị đạo đức
Trong đạo đức học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời sống đạo đức của
con người. Giá trị đạo đức là một trong những vấn đề xã hội được đề cập đến

không ít trong thời gian gần đây, đã có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị đạo
đức. Theo tác giả Mai Xuân Hợi, giá trị đạo đức “là những cái được con người lựa
chọn và đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được
lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [22].
Theo tác giả Ngô Toàn, “giá trị đạo đức là những chuẩn mực, những khuôn
mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi con
người” [59]. Theo tác giả Đoàn Quốc Thái, “giá trị đạo đức là toàn bộ những quan
niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và các
chuẩn mực, quy tắc ứng xử được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như ý nghĩa
tích cực của những quan niệm, chuẩn mực, quy tắc ứng xử đó đối với con người và
đời sống xã hội ” [53]. Từ đó, tác giả đã khái quát bản chất của giá trị đạo đức.
17

Một là, giá trị đạo đức mang tính xã hội, khi nói đến giá trị là nói đến giá trị
xã hội. Ngay cả những giá trị riêng biệt (của sự vật, hiện tượng) hay giá trị cá nhân
cũng đều được quy chiếu bởi cái chung, bởi sự thừa nhận, đánh giá của xã hội. Giá
trị đạo đức không nằm ngoài đặc điểm chung đó. Vì vậy, trong đời sống đạo đức từ
cổ chí kim, dù ở phương Đông hay phương Tây thì vẫn có thể tìm thấy sự tương
đồng của những giá trị đạo đức cơ bản như yêu lao động, trung thực, nhân ái
Hai là, giá trị đạo đức có tính lịch sử cụ thể. Như đã biết, lợi ích xã hội là
tiêu chuẩn khách quan của các giá trị đạo đức, vì vậy, chỉ khi nào những nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi con người phù hợp với lợi ích xã hội,
được dư luận đồng tình ủng hộ thì mới có giá trị. Theo đó, trước hết giá trị đạo đức
được xác định bởi mức độ phù hợp của những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đối
với lợi ích xã hội, với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, lợi ích xã hội và yêu
cầu của tiến bộ xã hội lại có tính lịch sử, nghĩa là mỗi giai đoạn phát triển của lịch
sử, trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể xã hội lại có những yêu cầu
riêng về lợi ích và sự tiến bộ xã hội, do đó, giá trị đạo đức cũng có tính lịch sử - cụ
thể. Mặt khác, với tính cách một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức có cơ sở
hình thành từ tồn tại xã hội. Ph.Ăngghen viết: Chúng ta khẳng định rằng xét cho

cùng mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình
kinh tế - xã hội lúc bấy giờ và từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này
sang thời đại khác, những quan niệm đạo đức biến đổi đến mức thậm chí đối lập
nhau. Và suy đến cùng, những điều kiện lịch sử cụ thể quy định chặt chẽ sự xuất
hiện, tồn tại và biến đổi của các giá trị đạo đức.
Ba là, giá trị đạo đức là sự bộc lộ thái độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập đoàn
xã hội về lợi ích. Chính trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã
hội, các giá trị đạo đức xuất hiện với tư cách sự nhìn nhận, đánh giá của cá nhân,
cộng đồng trước những quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử. Sự
nhìn nhận, đánh giá này chịu sự chi phối trực tiếp của lợi ích và ở đây dường như
giá trị đạo đức mang tính chủ quan. Điều này lý giải tại sao một hành vi đạo đức là
18

giá trị đối với một cá nhân, một cộng đồng này mà chưa hẳn là giá trị, thậm chí là
phản giá trị đối với một cá nhân, một cộng đồng khác.
Bốn là, giá trị đạo đức gắn với hoạt động thực tiễn của con người, định
hướng cho hành động của con người. Một mặt, các giá trị được hình thành, tồn tại,
biến đổi trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Chính trong thực tiễn và chỉ
có thông qua thực tiễn, các giá trị vật chất và tinh thần mới xuất hiện, biến đổi.
Mỗi cộng đồng người, do các đặc điểm về địa lý, văn hóa đều hình thành nên
những mẫu nhân cách mang tính đại diện, là kết quả của sự định hướng giá trị. Ví
dụ, người châu Á coi “cần cù, yêu lao động” là giá trị hàng đầu của sự làm người.
Nhưng người Mỹ lại coi “tự lực cánh sinh” mới là giá trị đáng quý nhất, cần cù
cũng được coi trọng nhưng chỉ đứng thứ ba sau “tự lực cánh sinh và thành đạt cá
nhân”. Như vậy, nói rằng người châu Á cần cù, người Do Thái khôn ngoan hay
người Đức ưa chính xác đều có nghĩa là các giá trị đó được tôn trọng hơn, được
xếp vào vị trí ưu tiên hơn so với các giá trị khác trong định hướng nhân cách của
các cộng đồng này mà thôi.
Năm là, giá trị đạo đức trừu tượng nhưng có thể nhận thức và noi theo, thực
hiện được. Giá trị đạo đức không phải là cái chúng ta có thể dễ dàng nhận thức,

càng không phải cái bằng trực quan mà hiểu nhưng điều đó cũng không có nghĩa là
giá trị đạo đức không thể nhận thức được, mà nó cần được cụ thể hóa cho phù hợp
với từng đối tượng nhận thức. Chẳng hạn như giá trị đạo đức truyền thống yêu
nước, là giá trị đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc ta trong giai đoạn hiện nay, nhưng sự thể hiện lòng yêu nước của
người dân với Tổ quốc không giống nhau, đối với nhà lãnh đạo đất nước thì phải
luôn trau dồi phẩm chất đạo đức và tài năng để lãnh đạo đất nước phát triển, luôn
thanh liêm, trong sạch, đặt mục đích quốc gia dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân,
đối với người nông dân lòng yêu nước của họ là hăng say lao động sản xuất, đối
với học sinh, sinh viên là tích cực học tập vì tương lai đất nước
19

Cũng theo tác giả, cấu trúc của giá trị đạo đức gồm hai yếu tố: Thứ nhất
là bản thân các quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử của con
người. Thứ hai là ý nghĩa tích cực đối với con người, với đời sống xã hội của
những quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử đó. Trước hết giá trị
đạo đức luôn gắn liền với những phẩm chất và chuẩn mực cụ thể. Các giá trị đạo
đức, theo tác giả Phạm Văn Nhuận, “được biểu hiện tập trung trong hệ thống
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cơ bản dùng để điều chỉnh thái độ, hành vi của
con người mang ý nghĩa xã hội của nó” [40]. Chúng ta không thể nói đến giá trị
đạo đức mà lại tách rời các quan niệm, chuẩn mực, phẩm chất đạo đức, không
thể nhận thức giá trị đạo đức mà không dựa trên cơ sở những quan niệm, chuẩn
mực, phẩm chất đạo đức cụ thể.
Ví dụ, đạo đức cách mạng với tư cách một giá trị sẽ trở nên trừu tượng, khó
hiểu nếu không gắn với những chuẩn mực cụ thể như trung, hiếu, cần kiệm, liêm
chính, chí công vô tư Đạo đức cách mạng cũng sẽ trở nên sáo rỗng nếu không
nhìn vào một nhân cách lớn với những phẩm chất đạo đức trong sáng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại. Giá trị đạo đức không tách rời những quan niệm, chuẩn mực,
nguyên tắc, hành vi ứng xử cụ thể nhưng cũng không đồng nhất với quan niệm,
chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức, thông thường đối với con người, thế giới hiện ra

trong những khuôn thước, dù rằng bản thân nó (thế giới vô vàn những hiện tượng
phong phú và phức tạp) không mang ý nghĩa (sang - hèn, hay - dở, tốt - xấu ) gì
đối với chính nó. Nói đến cùng, giá trị đạo đức là giá trị của các quan niệm, chuẩn
mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử trong tương quan với chủ thể đạo đức xác định.
Từ phương diện này, đạo đức cách mạng với tư cách giá trị không chỉ là những
chuẩn mực trung, hiếu, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư - những phẩm chất cơ
bản của đạo đức Hồ Chí Minh mà quan trọng hơn cả nó còn là ý nghĩa đối với mỗi
người, đối với đời sống đạo đức dân tộc và nhân loại.
Chắt lọc từ những ý kiến nêu trên, trong luận văn này chúng tôi quan niệm
Giá trị đạo đức là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng về mặt đạo đức,
20

những quy tắc ứng xử, những thái độ và hành vi được con người lựa chọn, được
đánh giá có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và
dư luận biểu dương, nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa các hành vi đạo đức của con
người trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Khi phân tích giá trị đạo đức chúng tôi cũng muốn tìm hiểu thêm về giá trị
văn hóa để thấy rõ hơn về giá trị đạo đức. Giá trị văn hóa thường được coi là rộng
nhất, bao trùm nhất, vì theo nghĩa rộng văn hóa là tất cả những gì “do con người
sáng tạo ra”. Song đã có nhiều quan niệm về “giá trị văn hóa” theo nghĩa hẹp và
đồng nhất “giá trị văn hóa” với “giá trị đạo đức”, “giá trị tinh thần” hoặc với
“chuẩn mực”. Theo chúng tôi, quan niệm như vậy là không hẳn đúng, bởi lẽ, văn
hóa rộng hơn đạo đức, còn đạo đức chỉ là một khía cạnh, một thành tố của văn hóa,
văn hóa không chỉ là tinh thần và hệ giá trị văn hóa gồm cả giá trị vật chất lẫn giá
trị tinh thần. Trong giá trị văn hóa có các chuẩn mực nhưng không hoàn toàn là
một, chúng phân biệt với nhau theo tiêu chí thời gian. Giá trị văn hóa có tính lịch
sử bao gồm các giá trị do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại trong khi
những chuẩn mực là những giá trị mà con người hướng tới trong hiện tại và tương
lai. Như vậy, “giá trị văn hóa đối lập với giá trị tự nhiên và bao gồm tất cả các loại
giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý, giá trị toán học , vì mọi giá trị và hệ

giá trị do con người sáng tạo ra đều thuộc văn hóa cả rồi” [57, 100].
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
Bất cứ một dân tộc, quốc gia nào trên thế giới cũng đều có truyền thống của
mình, vậy truyền thống là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, truyền thống là “thói quen hình thành đã lâu đời
trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác” [44].
Theo nghĩa tổng quát nhất “truyền thống là những yếu tố của di tồn văn hóa
thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen, lối
sống và cách ứng xử của một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã
trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lại lâu dài”

×