Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Truyền thuyết và lễ hội hội Chùa Dâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.43 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN XUÂN CHƢƠNG





TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI CHÙA DÂU







LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian






HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







TRẦN XUÂN CHƢƠNG





TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI CHÙA DÂU



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Chí Quế





HÀ NỘI – 2014


LỜI CẢM ƠN


Em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo khoa ngữ văn trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã dày công đào tạo và giúp đỡ em trong
suốt thời gian theo học tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy hướng dẫn
khoa học GS.TS Lê Chí Quế đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng nghiệp, người thân, bạn bè đã tạo điều kiện giúp
đỡ, góp ý, động viên em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

TRẦN XUÂN CHƢƠNG

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và do chính tác giả nghiên cứu, phân tích chƣa đƣợc sử dụng để bảo vệ bất kỳ
học vị nào.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2014
TRẦN XUÂN CHƢƠNG


1
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu. Trang
1: Lý do chọn đề tài . 4
2. Lịch sử nghiên cứu 7
2.1. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội 7
2.1.1. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết. . 7
2.1.2. Lịch sử nghiên cứu về lễ hội… 9
2.2. Lịch sử nghiên cứu Truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu . 10
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu . 13

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: 13
3.2. Phạm vi nghiên cứu: 13
4. Mục đích nghiên cứu: . 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 14
6. Dự kiến đóng góp của luận văn. 15
7. Cấu trúc luận văn. 15
B. Phần nội dung.
Chƣơng 1. Tổng quan đề tài. 16
1. Khái niệm về vùng văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc 16
1.1. Khái niệm vùng văn hóa. 16
1.2. Vùng văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc. 17
1.3. Thuận Thành - không gian văn hóa đặc sắc 21
1.3.1. Sự hình thành không gian văn hóa Dâu - Luy Lâu 22
1.3.2. Đặc điểm tự nhiên 25
1.3.3. Đặc điểm lịch sử xã hội 25
1.3.4. Đặc điểm văn hóa dân gian 26
2. Khái niệm về truyền thuyết 31
3. Khái niệm về lễ hội 33

2
Tiểu kết chƣơng 1 35
Chƣơng 2. Truyền thuyết Man Nƣơng và hệ thống Chùa Tứ Pháp . 37
1. Giới thiệu về chùa Dâu và hệ thống chùa Tứ Pháp 37
1.1. Chùa Dâu 37
1.2. Chùa Tƣớng 39
1.3.Chùa Dàn 39
1.4. Chùa Tổ 40
2. Truyền thuyết Man Nƣơng và hệ thồng Tứ Pháp 41
2.1: Khảo sát về truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc nhân dân kể lại: 41
2.1.1. Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ngƣời dân vùng Dâu kể lại: . 41

2.1.2. Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc nhà Chùa kể lại: 43
2.1.3.Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ngƣời dân vùng Công Hà kể lại:. . 44
2.2.Khảo sát bằng văn bản 45
2.2.1. Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ghi chép trong bản Cổ Châu
Phật bản hạnh: 46
2.2.2. Truyền thuyết Man Nƣơng trong sách Lĩnh Nam chích quái . 49
2.2.3. Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ghi chép trong Thần tích -
Thần sắc tại Đình Khƣơng Tự 51
2.3. Sự khác biệt của các bản truyện trên: 53
2.4. Giá trị tƣ tƣởng thẩm mỹ qua truyền thuyết Man Nƣơng . 55
Chƣơng 3. Lễ hội chùa Dâu 59
1. Nguồn gốc lễ hội chùa Dâu 60
2. Thời gian và không gian diễn ra lễ hội 62
2.1. Thời gian tổ chức lễ hội 62
2.2. Không gian tổ chức lễ hội 62
3. Mô tả lễ hội 63
3.1. Mô tả nội dung phần lễ 63

3
3.2. Mô tả nội dung phần hội 67
3.2.1. Hội thi cƣớp nƣớc 67
3.2.2. Hội thi hát quan họ 69
3.2.3. Hội thi thả chim bồ câu 70
3.2.4. Hội thi chơi cờ ngƣời 70
3.2.5. Hội thi chọi gà 72
3.3. Một số tục lệ trong lễ hội chùa Dâu 72
3.3.1. Tục đón đƣờng ở hội Dâu 72
3.3.2. Tục múa gậy Hồng Côn và Bạch Trƣợng 74
4. Ý nghĩa của lễ hội 76
4.1. Ý nghĩa hƣớng về cội nguồn 76

4.2. Ý nghĩa đối với đời sống tâm linh của nhân dân 77
4.3. Ý nghĩa đoàn kết sức mạnh cộng đồng 78
4.4. Ý nghĩa bảo tồn và lƣu truyền văn hóa 79
C. Kết Luận 81













4
A. PHÂN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học dân gian rất phong phú và đa dạng về thể loại, trong đó truyền
thuyết đƣợc coi là một thể loại văn học độc đáo và hết sức đặc biệt với đặc
trƣng của thể loại truyền thuyết đã cho ta thấy đƣợc những giá trị to lớn trong
việc lƣu truyền lịch sự văn hóa dân tộc. Theo GS- Lê Chí Quế truyền thuyết
có thế phân chia thành bốn loại: Truyền thuyết lịch sử; truyền thuyết anh
hùng; truyền thuyết về các danh nhân văn hóa; truyền thuyết về các nhân vật
tôn giáo.
1.1 Có thể nói trong bốn loại truyền thuyết nói trên thì truyền thuyết về
các nhân vật tôn giáo không chỉ góp phần lƣu giữ văn hóa dân tộc mà nó còn
đi sâu vào đời sống tâm linh của ngƣời Việt Nam. Truyền thuyết về các nhân

vật tôn giáo có nguồn gốc từ cơ sở thực tiễn: Việt Nam nằm trong khu vực
nhiệt đới ẩm, gió mùa, thiên nhiên phong phú và đa dạng. Thời xa xƣa, ngƣời
Việt sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nƣớc và khai thác tự nhiên. Vì vậy
việc thờ cúng các vị thần tự nhiên để cầu cho mƣa thuận gió hòa đã sớm hình
thành và gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam là nơi giao lƣu của nhiều tộc
ngƣời, nhiều nền văn minh. Hai yếu tố đó đã làm Việt Nam trở thành một
quốc gia đa tôn giáo, tín ngƣỡng. Điều đó dẫn đến một đặc điểm của đời sống
tín ngƣỡng tôn giáo của ngƣời Việt đó là tính “ hỗn dung tôn giáo”.
Trƣớc sự du nhập của tôn giáo ngoại lai, ngƣời Việt không tiếp nhận
một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tƣ tƣởng tôn giáo
bản địa ở nƣớc ta trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì tín ngƣỡng dân gian
vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của ngƣời dân. Điều này
đƣợc thể hiện rõ nhất ở vùng văn hóa Kinh Bắc xƣa, trong đó có Bắc Ninh
ngày nay. Bắc Ninh là vùng đất văn hiến với tầng tầng, lớp lớp bề dày văn
hóa, vùng đất thiêng hội tụ linh khí non sông. Trong sự đa dạng của bản sắc

5
văn hóa vùng miền Kinh Bắc xƣa ta không thể bỏ qua một dấu ấn về truyền
thuyết và lễ hội Chùa Dâu – một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, là
cái nôi của trung tâm phật giáo Việt Nam.
Do vậy nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu là công việc
vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc làm sáng tỏ hơn
thể loại truyền thuyết dân gian Việt Nam.
1.2. Trong hoàn cảnh của đất nƣớc Việt Nam hiện nay đang đổi thay
từng ngày công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một đất nƣớc giàu mạnh.
Trƣớc tốc độ phát triển của kinh tế hiện nay thì văn hóa truyền thống sẽ dễ bị
mai một nếu nhƣ chúng ta không có ý thức gìn giữ và lƣu truyền cho thế hệ
sau. Trong sự đa dạng và phong phú của văn hóa truyền thống dân tộc, chúng
ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của truyền thuyết và lễ hội ở địa
phƣơng, vùng, miền, nó góp phần tạo nên giá trị của văn hóa cổ truyền dân

tộc. Cho đến nay số lƣợng các công trình của các nhà khoa học nghiên cứu,
sƣu tầm về truyền thuyết đã gặt hái đƣợc những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên
mảng truyền thuyết và lễ hội ở địa phƣơng nghiên cứu theo góc độ VHDG
vẫn còn ít đƣợc quan tâm. Trong xu thế chung ấy truyền thuyết và lễ hội chùa
Dâu – Thuận Thành – Bắc Ninh cũng đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa
học nghiên cứu. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu này chủ yếu nghiên
cứu theo góc độ lịch sử học, chứ không phải dƣới gó độ VHDG. Hơn nữa
trong điều kiện hiện nay xã hội Việt Nam cần có sự tiếp nối nguồn mạch văn
hóa truyền thống dân tộc. Có một thời kỳ do những quan điểm lệc lạc, nhiều
giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc bị phá bỏ vì coi là mê tín dị đoan. Những
năm gần đây đặc biệt sau đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) với tinh thần
đổi mới văn hóa dân tộc, nhiều đền đài, chùa chiền … đƣợc chú ý trùng tu,
khôi phục, các lễ hội đƣợc tổ chức long trọng hơn trong đó có lễ hội Chùa
Dâu -Thuận Thành - Bắc Ninh.

6
Từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay, xu hƣớng nghiên cứu thể
loại truyền thuyết trong mối quan hệ với lễ hội ở nhiều địa phƣơng trên phạm
vi cả nƣớc đã thu hút sự quan tâm, chú ý của các nhà khoa học và các học giả,
hƣớng nghiên cứu này mang lại ý nghĩa rất thiết thực trong việc bảo tồn các di
sản văn hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng.
1.3. Vì những điều trên, ngƣời viết với tất cả mong muốn đƣợc góp sức
mình vào việc bảo tồn và lƣu gữ bản sắc dân tộc. Mặt khác, trong giai đoạn
hiện nay khi lễ hội cổ truyền Việt Nam đang ngày càng lôi cuốn nhiều tầng
lớp nhân dân tham gia thì một vấn đề đặt ra là: Cần tổ chức và tham gia lễ hội
nhƣ thế nào cho đúng với ý nghĩa của loại hình sinh hoạt văn hóa truyền
thống này? Chúng ta cần phải có một cái nhìn học thuật để sao cho vừa có sự
kế thừa, vừa phát triển mà vẫn giữ đƣợc bản sắc văn hóa truyền thống của dân
tộc. Tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu, giúp chúng ta thêm một lần
nữa hiểu sâu về văn học dân gian nói chung và truyền thống nói riêng của

dân tộc, vừa là một hiện tƣợng văn học vừa là một hiện tƣợng văn hóa.
Là một giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy bộ môn văn học nói
chung trong đó có văn học dân gian nói riêng, ở huyện Thuận Thành, nơi tọa
lạc Chùa Dâu, thì việc nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu là cơ
hội để ngƣời viết tích lũy kiến thức về kho tàng truyền thuyết từ đó bồi đắp
cho học sinh lòng tự hào về truyên thống quý báu của dân tộc, khơi dậy trong
các em ý thức về việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Để truyền
thống văn hóa của dân tộc đƣợc lƣu truyền một cách rộng rãi, không bao giờ
bị mai một.
Trên đây là tất cả những lý do khiến ngƣời viết lựa chọn đề tài “Truyền
thuyết và lễ hội Chùa Dâu - Thuận Thành - Bắc Ninh”.



7
2. Lịch sử nghiên cứu.
2.1. Lƣợc điểm Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội.
2.1.1. Lƣợc điểm Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết.
Trong khoa học nghiên cứu văn hóa dân gian ở nhiều nƣớc trên
thế giới, việc coi truyền thuyết là một thể loại riêng biệt đã trở thành truyền
thống. Còn ở nƣớc ta thể loại truyền thuyết xuất hiện khá sớm “thế kỷ XIV,
XV” nhƣng thuật ngữ truyền thuyết và vấn đề nghiên cứu truyền thuyết thì ra
đời muôn, vào khoảng nửa cuối thế kỷ XX .
Giáo sƣ Nguyễn Đổng Chi trong lời tựa “Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam” cho rằng: Truyền thuyết thƣờng dùng để chỉ những câu chuyện cũ
những sự việc lịch sự còn đƣợc quần chúng truyền lại nhƣng không đảm bảo
về mặt chính xác (có thể do truyền rộng mà sai lệch) và truyền thuyết phần
nhiều chƣa đƣợc xây dựng thành truyện. Nó mới chỉ là những câu chuyện còn
nếu nó phát triển đến mức hoàn thiện thì tùy theo nội dung nó có thể là cổ tích
hoặc thần thoại : hiện nay truyền thuyết Việt Nam tìm đƣợc rất ít ỏi đƣợm khí

cổ tích nhiều hơn thần thoại vì thế khi sƣu tầm thì thƣờng xếp lẫn với cổ tích
và coi nhƣ truyện cổ tích.
Trong giáo trình trƣờng đại học sƣ phạm xuất bản 1961 – 1970 đã đƣa
truyền thuyết vào cơ cấu các thể loại văn hóa dân gian nhƣng đã đặt bên cạnh
thần thoại.
Nhƣ vậy cách sắp xếp truyền thuyết trong hệ thống các thể loại văn bản
dân gian có khác nhau nhƣng điểm tƣơng đồng giữa các nhà khoa học Việt
Nam là khi nghiên cứu truyền thuyết bao giờ cũng đặt nó trong mối quan hệ
với thần thoại và cổ tích.
Đáng chú ý hơn cả là công trình truyền thống anh hùng dân tộc trong
loại hình tự sự dân gian Việt Nam tập trung những bài nghiên cứu về truyền
thuyết đƣợc xuất bản năm 1971. Các tác giả: Tầm Vu, Phan Trần, Đinh Gia

8
Khánh, Nguyễn Ngọc Côn và Kiều Thu Hoạch đã có những đóng góp lớn.
Trong đó đặc biệt đáng lƣu ý là truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong
kiến của Kiều Thu Hoạch. Tác giả đã đƣa ra định nghĩa và phân loại truyền
thuyết, đồng thời đƣa ra những kiến giải sâu sắc về bản chất thể loại.
Đến những năm 1973 trong bài tìm hiều quan hệ giữa thần thoại
truyền thuyết và diễn xƣớng tín ngƣỡng phong tục, tác giả Nguyễn Khắc
Xƣơng nêu rõ mối quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và lễ hội “thần
thoại, truyền thuyết lƣu truyền bằng miệng trong dân gian đã đƣợc tái hiện cụ
thể và sinh động trƣớc dân gian qua nghệ thuật diễn xƣớng hỗn hợp”.
Ý kiến của thủ tƣớng Phạm Văn Đồng tuy không chú ý đến định nghĩa
truyền thuyết nhƣng nó có ý nghĩa cho các nhà nghiên cứu văn học dân gian .
Thủ tƣớng cho rằng : “những truyền thuyết dân gian thƣờng có một cái lõi là
sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tƣởng hóa, gửi gắm vào đó
một tâm tính thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức
tƣởng tƣợng và nghệ thuật dân gian làm nên tác phẩm văn hóa mà đời con
cháu ƣa thích” .

Đầu những thập niên 90 cuốn giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam”
của đại học tổng hợp đƣợc viết lại, Giáo sƣ Lê Chi Quế đã dành một phần viết
về truyền thuyết, trong đó Giáo sƣ đã đƣa ra khái niệm và đặc biệt là phân
loại truyền thuyết một cách hợp lý, đầy tính thuyết phục hơn.
Tác giả Lê Văn Kỳ trong một bài viết năm 1991 mối quan hệ giữa
truyền thuyết ngƣời Việt và lễ hội các anh hùng “cũng đã đề cập đến định
nghĩa hội, lễ, mối quan hệ giữa hội lễ nhƣ hội lễ Hai Bà Trƣng; Thánh Gióng.
Giáo trình văn học dân gian của trƣờng đại học sƣ phạm hà nội dùng
cho hệ đào tạo Đại Học từ xa, tác giả Nguyễn Bích Hà biên soạn về phần
truyền thuyết. Tác giả đã đề cập đến khái niệm, đặc trƣng, phân loại, nội
dung, ý nghĩa của truyền thuyết.

9
Điểm qua các ý kiến nghiên cứu chuyên hoặc không chuyên về thể loại


truyền thuyết trong VHDG Việt Nam chúng tôi rút ra một số nhận định sau:
Thời kỳ đầu các nhà nghiên cứu đều thống nhất: Truyền thuyết ra đời
sau thần thoại nhƣng vẫn có yếu tố song trùng với thần thoại. Mặt khác truyền
thuyết và cổ tích cũng có những nét gần gũi nhau. Thời kỳ về sau các nhà
nghiên cứu đều coi truyền thuyết là một thể loại riêng của văn học dân gian.
Đặc biệt các tác giả đã chứng minh và đi sâu phân tích về đặc trƣng, nội dung,
ý nghĩa và phân loại truyền thuyết một cách rõ ràng và độc lập so với thể loại
khác trong văn học dân gian.
Những năm gần đây có nhiều hƣớng nghiên cứu mới về truyền thuyết
trong đó nổi bật là hai hƣớng nghiên cứu: Hƣớng nghiên cứu dựa trên văn bản
và hƣớng nghiên cứu truyền thuyết gắn với hoạt động diễn xƣớng đặc biệt,
thông qua lễ hội. Trong 2 hƣớng nghiên cứu này chúng ta thấy hƣớng thứ 2
đang ngày càng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm hơn và mang lại ý nghĩa thiết
thực. Nghiên cứu về Truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu chúng tôi cũng đã kế

thừa các hƣớng nghiên cứu này.
2.1.2. Lƣợc điểm Lịch sử nghiên cứu về lễ hội.
Trong những năm gần đây các công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín
ngƣỡng và lễ hội đƣợc quan tâm nhiều hơn, trên các bình diện khác nhau nhƣ:
Tôn giáo học, khoa học xã hội, văn học dân gian Vấn đề lễ hội và tôn giáo
tín ngƣỡng đƣợc đề cập ở nhiều mức độ khác nhau. Trong đó có những công
trình nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng nhƣ:
Lê hội cổ truyền của Viện văn hóa dân gian, Nxb khoa học xã hội
(1992). Công trình đề cập đến các vấn đề lễ hội, môi trƣờng liên quan đến sự
hình thành lễ hội, lịch sử, cơ cấu, phân loại các biểu hiện và giá trị của hội
làng, đồng bằng Bắc Bộ.

10
60 lễ hội truyền thống ở Việt Nam Nxb khoa học xã hội (1992). Đề cập
đến sáu mƣơi lễ hội truyền thống ở Việt Nam.
Lễ cầu mùa của các dân tộc ở Việt Nam của các tác giả Phan Hữu Dật,
Lê Ngọc Thắng, Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam, Nxb Văn hóa dân tộc (1993).
Công trình đề cập đến lễ cầu mùa của ngƣời kinh, các dân tộc vùng Việt Bắc,
Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, Trƣờng Sơn - Tây Nguyên.
Từ điển hội lễ Việt Nam của Bùi Thiết, Nxb Văn hóa thông tin (2000).
Trong đó tác giả đã sƣu tầm, tập hợp hệ thống, chỉnh lí và biên soạn tất cả hội
lễ truyền thống, đã từng diễn ra trên khắp lãnh thổ nƣớc ta từ xƣa tới nay.
Lễ tục, lẽ hội truyền thống xứ Thanh của Lê Huy Trâm - Hoàng Anh
Nhân, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà nội - 2001. Các tác giả đã đƣa quan điểm
nhận thức và nghiên cứu lễ hội, nhấn mạnh đến việc quan sát, tiếp cận lễ hội
trong sự tổng thể của nó chứ không nên tách phần lễ riêng, phần hội riêng.
Đáng kể là công trình gần đây của GS.TS Ngô Đức Thịnh “Về tín
ngƣỡng lễ hội cổ truyền” Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội 2007. Trong đó đề
cập đến các vấn đề “tín ngƣỡng dân gian” của ngƣời Việt, các dân tộc thiểu số
với đa sắc diện ở các vùng của đất nƣớc, đề cập đến đạo Mẫu và lên đồng của

ngƣời việt, Chăm, Tày, đề cập đến “lễ hội cổ truyền” với môi trƣờng tự nhiên,
xã hội, văn hóa, vai trò của “tín ngƣỡng, môi trƣờng nảy sinh, tích hợp, bảo
tồn sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian ”. Nhƣ vậy điểm qua các công
trình nghiên cứu về lễ hội, chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây, đề
tài này đã đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, nhằm khôi phục, gìn
giữ bẳn sắc văn hóa của dân tộc.
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội chùa Dâu.
Chùa Dâu là trung tâm phật giáo sớm nhất ở Việt Nam, có vị trí vai trò
quan trọng đối với đạo Phật nói chung và tín ngƣỡng của dân tộc Việt Nam

11
nói riêng. Vì vậy “Chùa Dâu” đã thu hút các công trình khoa học nghiên cứu
và sƣu tầm.
Có thể nói cho đến nay Chùa Dâu vẫn lƣu giữ đƣợc nhiều bản ghi chép
lại truyền thuyết và lễ hội trong đó đáng chú ý nhất là 3 cuốn sách đƣợc khắc
bằng ván gỗ: Cổ Châu Lục, Cổ Châu Pháp, Cổ Châu Nghi viết tắt, đƣợc in
khắc vào năm 1752. Cuốn sách Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục
là cuốn sách song ngữ Hán Nôm, còn cuốn Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản
Hạnh là cuốn truyện thơ lục bát nôm. Hai cuốn này đều nói về sự tích Man
Nƣơng đƣợc coi là biên soạn vào khoảng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18. Cuốn
thứ ba là Cổ Châu Nghi nói về các nghi thức tế lễ. Nhƣ vậy ba cuốn sách này
đƣợc xem là những tài liệu cổ xƣa nhất, còn đƣợc lƣu giữ tại nhà Chùa.
Trong cuốn sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp cũng nói về
truyện Man Nƣơng nhƣng so với Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh ngữ lục
thì Trần Thế Pháp đã rút ngắn truyện lại còn khoảng một phần ba. Đến đầu
đời Lê, khi nền Phật giáo dân tộc phục hƣng mạnh mẽ, phật pháp vân đƣợc
nhiều lần thỉnh lễ về Hà Nội để cầu đảo và tôn thờ, Lý Tử Tấn (1378 – 1460)
đã viết một bài ký về đức Phật Pháp Vân với nhan đề: Pháp Vân Cổ Tự Bi ký
chép trong Toàn việt thi lục và Kiến văn tiểu lục 9, cả 2 đều do Lê Quý Đôn
biên soạn.

Về mặt chính sử thì Phật Pháp Vân xuất hiện lần đầu tiên vào năm
1073 dƣới thời vua Lý Nhân Tông, khi vua mới lên ngôi. Đại Việt sử ký bản
kỷ toàn thƣ quyển 3 viết: Thái Ninh năm thứ hai, năm Quý Sửu, lúc bấy giờ
mƣa dầm bèn rƣớc Phật Pháp Vân về kinh đô để cầu tạnh.
Tài liệu Hồng Đức quốc âm thi tập do Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn
Nguyên phiên âm, chú giải và giới thiệu NXB Văn học, Hà Nội 1982, “Hoàng
Việt địa dƣ Chí chép: Chùa (Pháp Vân) ở xã Vạn Kỳ, huyện Gia Bình, trấn
Kinh Bắc (tức huyện Gia Lƣơng tỉnh Hà Bắc lúc bấy giờ). Thời Sĩ Vƣơng,

12
một nhà sƣ đi lại với Man Nƣơng ở trong chùa, có mang, sinh con gái, đặt tên
là Pháp Vân. Do đấy chùa này cũng gọi là chùa Đại Bi. Trong chùa có thờ hai
vị sƣ: Huyền Quang và Pháp Loa là 2 ngƣời sáng lập ra chùa này: Các chi tiết
này đều sai lầm.
Đặc biệt trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu
về Chùa Dâu một trong những tác giả có nhiều công trình nghiên cứu nhất
phải kể đến tiến sĩ sử học Trần Đình Luyện. Cuốn sách thứ nhất: Luy Lâu lịch
sử và văn hóa, sở văn hóa thông tin tỉnh Bắc Ninh 1999, cuốn thứ 2 Lễ Hội
Bắc Ninh – sở văn hóa thông tin Bắc Ninh 2003. Đặc biệt trong đó phải kể
đến cuốn sách: Chùa Dâu và lễ hội rƣớc phật Tứ Pháp- phòng văn hóa thông
tin thể thao huyện Thuận Thành 2000. Trong các cuốn sách này tiến sĩ Trần
Đình Luyện đã nghiên cứu rất kỹ về truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu nhƣng
chủ yếu nhìn theo góc độ sử học, nghĩa là chú ý văn bản ghi chép nhiều hơn là
những câu chuyện đƣợc lƣu truyền trong dân gian.
Cuốn sách Chùa Dâu – Cổ Châu, Pháp Vân, Diên Ứng Tự tác giả
Nguyễn Quang Khải – NXB Tôn giáo năm 2011, tác giả cũng trích dẫn truyền
thuyết chùa Dâu dựa theo bản: Cổ Châu pháp Vân bản hạnh.
Cuốn sách: Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, tác giả: Nguyễn Hữu –
NXB Thanh niên 2010. Trong cuốn sách này nhà văn Nguyễn Hữu đã viết
khá kỹ càng về lịch sử Chùa Dâu, đặc biệt mô tả kỹ lƣỡng về lễ hội Chuà

Dâu. Tuy nhiên vấn đề khảo cứu các văn bản liên quan đến truyền thuyết Man
Nƣơng chƣa đƣợc chú ý.
Nhƣ vậy vấn đề nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu chƣa
từng đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống đặc biệt chƣa chú ý tới những truyền
thuyết đƣợc lƣu truyền bằng miệng trong dân gian hay nói cách khác chƣa
nghiên cứu dƣới góc độ văn học dân gian. Đề tài này sẽ phát triển kết quả của

13
các công trình nghiên cứu trƣớc đó và mở rộng thêm tầm giá trị của truyền
thuyết và lễ hội Chùa Dâu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu và khảo sát là "truyền thuyết và lễ hội Chùa
Dâu", Thanh Khƣơng - Thuận Thành - Bắc Ninh.
Đề tài tập trung nghiên cứu các truyền thuyết về Chùa Dâu đƣợc ghi
chép bằng văn bản và những truyền thuyết đƣợc lƣu truyền bằng miệng trong
dân gian. Đặc biệt chúng tôi cũng đồng thời nghiên cứu truyền thuyết về Chùa
Dâu dƣới góc độ diễn xƣớng, đấy là lễ hội, để thấy đƣợc hết giá trị của truyền
thuyết này.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tìm hiểu, phân tích, đánh giá các giá trị tƣ tƣởng thẩm mỹ của
những truyền thuyết về Chùa Dâu, dƣới góc độ khoa học văn học dân gian
trên các phƣơng diện: Giá trị tƣ tƣởng qua nội dung phản ánh, ý nghĩa nghệ
thuật qua các mô típ cơ bản, ý nghĩa tín ngƣỡng trong tâm thức của ngƣời
dân. Để làm đƣợc điều này, theo đặc trƣng thể loại truyền thuyết luận văn có
khảo sát các chi tiết lễ hội Chùa Dâu - Thanh Khƣơng - Thuận Thành - Bắc
Ninh.
4. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn là bƣớc tổng hợp mới về những thành tựu nghiên cứu tìm
hiểu "truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu".

Luận văn đã hệ thống hóa, khảo sát diện mạo "truyền thuyết và lễ hội
Chùa Dâu".
Trong khuôn khổ của đề tài, ngƣời viết cũng đi vào phân tích, tổng hợp
những đặc điểm, nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết.

14
Qua đây những truyền thuyết về Chùa Dâu đƣợc xem xét trong mối
quan hệ với nghi lễ và lễ hội đƣợc tổ chức ở địa phƣơng.
Từ đấy đánh giá khách quan, không suy diễn cảm tính về truyền thuyết
và lễ hội Chùa Dâu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Quá trình nghiên cứu đề tài, đã sử dụng một số phƣơng pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
5.1 Phƣơng pháp thống kê:
Luận văn tập hợp các bản kể về "truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu"
Xác định số lƣợng các mô típ, các dị bản để rút ra kết luận cụ thể:
5.2 Phƣơng pháp điền dã:
Trực tiếp gặp gỡ và trao đổi với những ngƣời hiểu biết về "truyền
thuyết và lễ hội Chùa Dâu"
Tìm hiểu, sƣu tầm "truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu" qua các địa
phƣơng xung quanh "Tổng Dâu" lƣu truyền.
Trực tiếp tham dự lễ hội để tìm hiểu về tín ngƣỡng của ngƣời dân.
5.3 Phƣơng pháp so sánh:
Đặt các bản kể trong sự đối sánh với nhau. Thông qua sự phân tích cấu
trúc của bản kể, so sánh từng bản kể để tìm ra các mô típ giống nhau và khác
nhau. Từ đó tìm hiểu ý nghĩa của các mô típ.
5.4 Phƣơng pháp liên ngành:
Giữa truyền thuyết và lịch sử có quan hệ với nhau, do đó có thể vận
dụng lịch sử đề nghiên cứu.
Đặc biệt vận dụng mối quan hệ giữa văn hóa tín ngƣỡng, tôn giáo để lý

giải một số vấn đề có liên quan đến đề tài.



15
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn:
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên đi sâu nghiên cứu các vấn đề
chính về "truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu" dƣới góc nhìn văn hóa văn học
dân gian.
Tổng hợp các mô típ về "truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu" và đánh giá
dựa trên cơ sở những tiến bộ khoa học nghiên cứu VHGD hiện nay.
Lễ hội Chùa Dâu đƣợc khảo tả chi tiết, cụ thể: Phần lễ, phần hội, qua
đó để thấy đƣợc mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội.
Trên cơ sở kế thừa, tham khảo các tài liệu đã nghiên cứu về "Chùa
Dâu" luận văn đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo lƣu và phát triển vốn văn
học dân gian của địa phƣơng nói riêng và dân tộc nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính đƣợc trình bày trong
luận văn.
Chƣơng I: Tổng quan về đề tài.
Chƣơng II: Truyền thuyết về Chùa Dâu.
Chƣơng III: Lễ hội Chùa Dâu.












16
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1. Khái quát về vùng văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc
1.1 Khái niệm về vùng văn hóa:
Văn hóa là một hiện tƣợng xã hội - lịch sử đƣợc các nhà khoa học
nghiên cứu và phân định. Trong quá trình hình thành tồn tại và phát triển của
mỗi nền văn hóa của một quốc gia hay một cộng đồng dân tộc thƣờng đƣợc
hợp thành bởi các vùng văn hóa với những đặc trƣng, sắc thái riêng, làm
thành tích, thống nhất và đa dạng của các nền văn hóa.
Khái niệm vùng văn hóa là đặc trƣng cho bản sắc riêng của từng vùng
dƣới sự thống nhất đó cùng cội nguồn tạo ra bản sắc chung. Nó làm nên tính
đa dạng cho bức tranh văn hóa dân tộc. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc,
nhiều vùng miền, theo các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa đã chia nƣớc ta có
khoảng từ 7 đến 9 vùng văn hóa. Với những đặc trƣng và sắc thái riêng làm
thành tính thống nhất, tạo nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt
Nam. Việc phân chia vùng văn hóa không căn cứ vào đơn vị hành chính bản
đồ mà căn cứ vào quá trình hình thành các vùng không gian văn hóa do những
đặc điểm địa lý và điều kiện lịch sử xã hội của mỗi vùng đã hình thành nên
các vùng văn hóa.
Theo Ngô Đức Thịnh: "Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những
tƣơng đồng về mặt hoàn cảnh tự nhiên, dân cƣ sinh sống ở đó. Từ lâu đã có
mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử, có những tƣơng đồng về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, giữa họ đã đƣa ra những giao lƣu, ảnh hƣởng văn hóa qua lại
nên trong vùng đã hình thành những đặc trƣng chung, thể hiện trong sinh hoạt
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cƣ dân, có thể phân biệt với vùng
văn hóa khác” [34, tr85].


17
Nhƣ vậy khái niệm vùng văn hóa, phản ánh sự tƣơng đồng về văn hóa
của của cƣ dân các dân tộc cùng sinh sống trong một xã hội, một không gian
nhất định. Cùng với các vùng văn hóa khác, Bắc Ninh - Kinh Bắc đã trở thành
một vùng văn hóa đặc biệt, hình thành từ rất sớm, nơi đây còn lƣu giữ đƣợc
những nét văn hóa cổ của dân tộc Việt.
1.2: Vùng văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc:
Bắc Ninh thuộc vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, đây là vùng văn hóa
đặc sắc và độc đáo của miền bắc nƣớc ta. Cùng với Bắc Giang, hai vùng đất
này hợp thành một tiểu vùng văn hóa đƣợc gọi bằng các khái niệm nhƣ: văn
hóa Kinh Bắc hay văn hóa xứ Bắc.
Bắc Ninh - Kinh Bắc xƣa là vùng đất phía bắc của kinh thành Thăng
Long, Đông Đô, Hà Nội. Ngày nay, là vùng đất trung tâm của châu thổ Sông
Hồng. Bắc Ninh còn là nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thủy và
bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa với một vị trí đặc
biệt trong lịch sử dân tộc và văn hóa Việt Nam.
Qua các công trình nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh cho thấy: Đây
là địa bàn cƣ trú của ngƣời Việt Cổ đồng thời là bộ phận cốt lõi của quốc gia
Văn Lang - Âu Lạc. Ngƣời Việt ban đầu cƣ trú ở vùng Châu thổ cao sau đó
dần dần di chuyển xuống vùng châu thổ thấp mà địa bàn cƣ trú ở ven sông
Cầu, sông Dâu, Sông Hồng, sông Đuống, sống chủ yếu bằng canh tác nông
nghiệp. Những giá trị tinh thần, tƣ tƣởng đƣợc phản ánh qua các huyền thoại:
Kinh Dƣơng Vƣơng, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dƣơng
Vƣơng
Từ mấy nghìn năm trƣớc ngƣời Việt cổ đã cƣ trú và lập làng ở ven sông
Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Tiêu Vƣơng… sống chủ yếu bằng canh tác
nông nghiệp kết hợp làm nghề thủ công. Hàng loạt di vật nhƣ trống đồng, dao
găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp… bằng đồng với những hoa văn độc


18
đáo đƣợc tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm, Đại Trạch, Đại Lai… mảnh
khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ ngƣời xứ Bắc rất
tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm…
Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tƣ tƣởng đƣợc phản
ánh qua các huyền thoại: Ông Đùng bà Đùng, ông khổng lồ cắn nát núi hút
sạch rừng, băng ngang lũ, về Kinh Dƣơng Vƣơng, Lạc Long Quân, Âu Cơ,
Thánh Gióng, An Dƣơng Vƣơng, Mỵ Châu - Trọng Thủy và thành Cổ Loa…
Cùng với huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu nhƣ lăng
mộ Kinh Dƣơng Vƣơng, các đền thờ Lạc Long Quân Âu Cơ, đền thờ Phù
Đổng Thiên Vƣơng ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du… đều đƣợc lƣu giữ
trong lòng, đất lòng ngƣời, vùng quê xứ Bắc – Bắc Ninh. Đây chính là sự
minh chứng hùng hồn cho sự phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ địa
phƣơng nào trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến.
Đặc biệt mảnh đất này cũng là trung tâm chống xâm lƣợc và chống
đồng hóa, bảo tồn phát triển văn hóa dân tộc. Khu di tích Luy Lâu rộng hàng
trăm hécta với hệ thống các công trình thành lũy, đền chùa, phố xá, chợ, bến,
kho tàng, dinh thự, các khu sản xuất gạch ngói, các làng nông nghiệp, làng
thợ, làng buôn, khu môn địa… còn là khu di tích thời Bắc thuộc lớn nhất Việt
Nam hiện nay.
Thủ phủ Luy Lâu (tức Long Biển) là nơi ghi dấu những chiến tích hào
hùng chống quân xâm lƣợc phƣơng Bắc. Cho đến ngày nay, hệ thống các đền
thờ tƣớng lĩnh ở đây và những lễ hội mừng chiến thắng mùa xuân vẫn đƣợc
duy trì và tổ chức hàng năm ở trung tâm Luy Lâu càng khẳng định Bắc Ninh
xƣa là trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trƣng.
Không những thế qua các tài liệu thƣ tịch và di khảo cổ còn cho thấy
Luy Lâu đã từng là đô thị lớn , trung tâm thƣơng mại mang tính quốc tế. Trên
đất Giao Chỉ trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X, Luy

19

Lâu không nhƣờng vai trò đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào. Xung quanh
Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán phát triển
mạnh mẽ. Luy Lâu là một đô thị mang tính buôn bán quốc tế, các hoạt động
buôn bán trao đổi hàng hóa ở Luy Lâu thời Bắc thuộc rất nhộn nhịp và sầm
uất.
Cùng với quá trình giao lƣu, hội nhập và trao đổi kinh tế là quá trình
tiếp xúc, hội nhập văn hóa, tín ngƣỡng tôn giáo giữa Việt Nam và các nƣớc
trong khu vực mà trung tâm cũng vẫn là Luy Lâu. Tại đây tƣ tƣởng Nho giáo
và văn hóa Hán, Đƣờng đã đƣợc truyền bá liên tục vào nƣớc ta. Bắc Ninh với
trung tâm Luy Lâu là nơi đầu tiên có trƣờng dạy chữ và văn hóa Hán ở Việt
Nam. Giáo Sƣ sử học Trần Quốc Vƣợng đã nhận xét: Xứ Bắc với đô thị cổ
Long Biên Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến
đổi hội tụ và kết tinh văn hóa Việt Nam cổ với văn hóa Phật - Ấn. Nam Á và
Trung Á, văn hóa Nho Lão (Trung Hoa, Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc
văn hóa Kinh Việt. Vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến và nhân cách Việt
Nam.
Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xƣa nhất của
ngƣời Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm
là Chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu nhƣ tƣợng pháp, bia ký, bản
khắc Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh và lễ hội Chùa Dâu - lễ hội Phật giáo
lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ tắm Phật, rƣớc Tứ Pháp,
rƣớc nƣớc đã chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam.
Trong các triều đại phong kiến, Bắc Ninh đƣợc gọi là Kinh Bắc mà lịch
sử đã để lại những di sản văn hóa truyền thống về mặt vật thể và phi vật thể,
có hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (Sông Nhƣ
Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống giặc ngoại xâm phƣơng Bắc, hệ thống các
đền chùa, miếu mạo ở các vùng Từ Sơn, Thị Cầu, Dâu, Keo… và đặc biệt là

20
hát dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm đà bản sắc văn hóa

dân tộc.
Dƣới triều đại nhà Nguyễn và thơi Pháp Thuộc, xứ Kinh Bắc đƣợc đổi
tên thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh đƣợc tổ chức thành một cứ điểm
trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một trung tâm chính trị, kính tế vùng.
Năm 1938 các đô thị, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dƣơng.
Hòa bình lập lại 1954 Bắc Ninh tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế
trong suốt quá trình xây dựng CNXH ở Miền Bắc. Năm 1963 Bắc Ninh đƣợc
sát nhập với Bắc Giang và đƣợc gọi là tỉnh Hà Bắc. Mặc dù không còn vị trí
tỉnh lỵ nhƣ trƣớc đây, nhƣng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế
chính trị xã hội quan trọng của Hà Bắc. Đến năm 1996 Hà Bắc đƣợc chia lại
thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang theo nghị quyết quốc hội khóa IX. Từ
đó đến nay Bắc Ninh đã phát triển không ngừng về kinh tế, chính trị và văn
hóa xã hội.
Bắc Ninh cũng là vùng quê trù phú, kinh tế phát triển, là vựa lúa của
đồng bằng Bắc Bộ. Ít nơi nào có làng nghề nổi tiếng nhƣ tỉnh Bắc Ninh: gốm
sứ ( Phù Lãng, Thổ Hà), làng đúc đồng (Đại Bái), rèn sắt (Đa Hội), chạm
khắc (Phù Khê, Kim Thiều), sơn mài (Đình Bảng)…
Ngƣời Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà còn khéo tay, tinh xảo,
hoạt bát trong giao thƣơng, buôn bán và nhất là thông minh hiếu học. Nghe
dân gian truyền về đất này quả là có cơ sở “Một giỏ sinh đồ, một bồ tiến sỹ,
một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn”. Đây là quê hƣơng của vị trạng
nguyên Lê Văn Thịnh - vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho lịch sử khoa cử
Việt Nam. Có vùng nhƣ huyện Đông Ngàn thông minh hơn ngƣời “dốt Đông
Ngàn hơn ngƣời ngoan thiên hạ”, có làng nhƣ Tam Sơn - địa phƣơng duy nhất
cả nƣớc có đủ tam khôi với 22 vị đại khoa (tiến sỹ) trong đó có hai trạng
nguyên.

21
Nơi đây còn nổi tiếng với trung tâm Phật giáo và những ngôi chùa có
quy mô to lớn, cổ kính, kiến trúc tạo tác rất công phu, tài nghệ nhƣ Chùa Dâu,

Chùa Phật Tích, Chùa Bút Tháp, Chùa Đạm… Đây là những danh lam cổ tự
nổi tiếng, ngày nay đã trở thành mhững di sản kiến trúc tiêu biểu của dân tộc
ta.
Bắc Ninh còn đƣợc mệnh danh là vƣơng quốc của lễ hội, chủ yếu là hội
chùa, hội đền. Trong đó có những lễ hội lớn nổi tiếng cả vùng, cả nƣớc nhƣ
hội Gióng (9/4), hội Dâu (8/4), hội Đền Đô, hội Lim, hội Chùa Phật Tích…
Về ăn mặc dân Kinh Bắc ƣa sang trọng nhƣng nền nã, nam: khăn xếp
áo the, ô lục soạn, nữ: áo mớ ba, mớ bảy, nón quai thao. Xứ Bắc có nhiều làng
nghề nghệ thuật nhƣ làng tranh Đông Hồ, làng hát ca trù Thanh Tƣơng, làng
rối nƣớc Đồng Ngƣ, Bùi Xá, Đa Hội… và đặc biệt hơn cả là hệ thống 49 làng
chơi quan họ, một lối chơi, một sinh hoạt văn hóa tinh thần độc đáo, đạt tới
đỉnh cao của thi ca và âm nhạc mà chỉ ngƣời Bắc Ninh mới có.
1.3 Thuận Thành - không gian văn hóa đặc sắc:
Khái niệm không gian văn hóa nhằm để chỉ một không gian sinh tồn
của một cộng đồng dân cƣ trên một lãnh thổ ở đây. Khái niệm không gian văn
hóa nhằm mục đích để chỉ là yếu tố nhỏ hơn vùng không gian văn hóa. Theo
Ngô Đức Thịnh: Không gian văn hóa có thể hiểu theo 2 nghĩa: Trừu tƣợng và
cụ thể. Theo nghĩa cụ thể: "Không gian văn hóa là một không gian địa lý xác
định mà ở đó một hiện tƣợng văn hóa nảy sinh, tồn tại, biến đổi và chúng liên
kết với nhau nhƣ một hệ thống". Theo nghĩa trừu tƣợng có thể hiểu không
gian văn hóa nhƣ một "trƣờng" (mƣợn khái niệm Vật lý) để chỉ một hiện
tƣợng hay tổ hợp các hiện tƣợng (một nền văn hóa của tộc ngƣời, quốc gia
hay khu vực) có khả năng tiếp nhận và lan tỏa (ảnh hƣởng), tạo cho nền văn
hóa đó một không gian (trƣờng) văn hóa rộng hay hẹp khác nhau, [34; tr12].

×