Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Vai trò của ASEAN trong Trật tự Đông Á tới năm 2020 và Định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.99 KB, 26 trang )



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài – tính cấp thiết của vấn đề
Một chính sách đối ngoại hiệu quả phải có định hướng phù
hợp với hoàn cảnh quốc tế vào thời điểm chính sách đó được hoạch
định và triển khai, đồng thời phải có các công cụ và phương tiện phù
hợp để có thể triển khai được chính sách theo định hướng đã chọn.
Hiện nay, trật tự thế giới nói chung và trật tự khu vực Đông Á nói
riêng đang có những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp do nhiều
nguyên nhân, song quan trọ ng nhất là sự thay đổi tươ ng quan sức
mạnh cả kinh tế, chính trị, quân sự của các quốc gia trong và ngoài
khu vực, đặc biệt là sự trỗi dạy của Trung Quốc và những tham vọng
bành trướng và mở rộng ảnh hưởng của quốc gia này. Theo cơ quan
phân tích thông tin tình báo địa chiến lược Stratfor, trật tự thế giới
đang có những xáo trộn lớn nhất kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh
cho tới nay. Cũng có ý kiến cho rằng, trật tự thế giới, nhất là trật tự
khu vực Đ ông Á đang có những biến động tầm cỡ thế kỷ do sự trỗi
dạy của Trung Quố c. Trong bối cảnh đó, việc xác định đúng triển
vọng phát triển của trật tự Đông Á là rất cần thiết cho việc hoạch
định chính sách đối ngoại của Việ t Nam, do đây là khu vực có tác
động trực tiếp tới môi trường đối ngoại của đất nước. Trước những
tác động của sự thay đổi trật tự khu vực Đông Á, trong 2-3 năm vừa
qua, ASEAN đã trải qua rấ t nhiều bước thăng trầm, đã có những
thành tựu lớn, song cũng đã có những thất bại nặng nề lần đầu tiên
gặp phải trong lịch sử phát triển của tổ chức này. Trong khi đó,
ASEAN đang ngày càng trở thành một công cụ và phương tiện quan


2


trọng giúp tạo thế và lực cho Việt Nam trong trật tự Đông Á trong
những năm tới, nhất là khi ASEAN đang nỗ lực tiếp tục phát huy vai
trò trung tâm trong việc định hình trật tự mới ở khu vực Đông Á.
Việc đánh giá vai trò của ASEAN trong tiến trình xây dựng trật tự
Đông Á đến năm 2020, qua đó xác định phương cách tham gia hợp
tác ASEAN để ASEAN có thể phát huy tối đa vai trò là rất cần thiết
và cấp bách nhằm giúp Việt Nam có đư ợc định hướng chính sách đối
ngoại phù hợp trong những năm tới.
Với những ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề này,
nghiên cứu sinh quyết định chọn chủ đề "Vai trò của ASEAN trong
Trật tự Đông Á tới năm 2020 và Định hướng chính sách đối ngoại
của Việt Nam" làm đề tài cho luận án này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là vai trò của
ASEAN trong trật tự Đông Á. Luận án không phân tích vai trò của
ASEAN ở Đông Á theo nghĩa rộng mà chỉ giới hạn trong việc phân
tích vai trò đó với trật tự Đông Á. Đối tượng chính là ASEAN, đối
tượng nền và cơ sở phân tích là trật tự thế giới. Đối tượng nghiên
cứu kiến nghị chính sách là định hướng chính sách đối ngoại Việt
Nam nói chung và chính sách đố i với tổ chức ASEAN nói riêng.
Phạm vi không gian của luận án là khu vực Đông Á mở rộng, được
định nghĩa bao gồm khu vực Đông Nam Á, Đông Bắc Á và một số
nhân tố nằm ngoài khu vực Đông Á nhưng cũng có ảnh hưởng quan
trọng tới trật tự Đông Á như Mỹ, Nga, Ấn Độ, Úc Phạm vi thời
gian nghiên cứu dự báo của luận án là từ nay tới năm 2020, nhưng
cũng sẽ nhìn xuyên suốt lịch sử Đông Á, nhất là từ khi ASEAN đượ c


3
thành lập năm 1967 cho đến nay. Mốc thời gian 2020 được chọn do

đây là một mốc quan trọng trong chiến lược phát triển của Việt Nam,
phù hợp với khung thời gian của Chiến lược phát triển Kinh tế - Xã
hội 10 năm 2011-2020 mà Đại hội Đảng XI (2011) đã thông qua.
3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứ u chủ yếu được luận án áp dụng
là phương pháp lịch sử, hệ thống, phân tích quan hệ quốc tế và
phương pháp dự báo. Trong quá trình phân tích, phương pháp tư duy
biện chứng, đối chiếu so sánh giữa lý thuyết và thực tiễ n, phương
pháp lấy ý kiến chuyên gia thông qua các hội thảo khoa học trong
nước và quốc tế được áp dụng. Một số trường hợp điển hình cũng
được nghiên cứu nhằm củng cố thêm cơ sở khoa học của các lập luận.
4. Đóng góp của luận án
Khi hoàn thành luận văn này, tác giả hi vọng sẽ đóng góp
một công trình nghiên cứu có hệ thống đầu tiên ở trong nước về vai
trò của ASEAN trong việc hình thành trật tự Đông Á hiện nay và dự
báo đến năm 2020, trên cơ sở đó kiến nghị phương thức tham gia
ASEAN phù hợp với vai trò của nó trong trật tự khu vực từ nay tới
năm 2020. Đóng góp về phương pháp nghiên cứu của luận án là việc
xây dựng và áp dụng một khung phân tích tương đối hoàn chỉnh về
trật tự thế giới để giải thích trật tự khu vực Đông Á. Trên cơ sở đó,
luận án đã cung cấp thêm một cách tiếp cận mới trong phân tích vai
trò của ASEAN ở Đông Á. Đóng góp về học thuật của luận án là
việc thúc đẩy nghiên cứu vai trò của các nước vừa và nhỏ trong quan
hệ quốc tế , chỉ ra rằng các nước vừa và nhỏ có thể tác động vào việc


4
xác lập trậ t tự khu vực và thế giới trong một số điều kiện nhất định
và đã chỉ rõ các điều kiện đó, đồng thời áp dụng kết luận mang tính
quy luật đó vào thực tiễn hoạt động của ASEAN để dự báo vai trò

của ASEAN tới năm 2020. Đóng góp về mặt chính sách của luận án
là tạo thêm cơ sở lý luận mang tính khoa học cho việc hoạch định
chính sách đối ngoại của Việt Nam trong bối cảnh trật tự Đông Á
đang có nhiều biến động trong những năm tới. Đặc biệt, luận án đã
tiếp cậ n có hệ thống và có tầm nhìn rộng hơn cho chính sách tham
gia ASEAN của Việt Nam, kiến nghị được định hướng tham gia
ASEAN vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính cụ thể.
5. Bố cục của luận án
Chương I – Lý luận về trật tự trong quan hệ quốc tế: Làm
rõ khái niệm trật tự thế giới, phân tích vai trò của các nước vừa và
nhỏ trong việc hình thành trật tự thế giới, rút ra quy luật về điều kiện
để các nước vừa và nhỏ có vai trò trong trật tự thế giới và chỉ ra các
tiêu chí đánh giá vai trò của các nước vừa và nhỏ.
Chương II – Vai trò của ASEAN trong trật tự Đông Á từ
năm 1967 đến nay và dự báo đến năm 2020: Phân tích vai trò của
ASEAN trong trật tự Đông Á từ khi thành lập cho tới nay bằng các
tiêu chí đã chỉ ra ở Chương I; dự báo xu thế phát triển trật tự Đông Á
và đánh giá triển vọng vai trò của ASEAN căn cứ vào các quy luật
và tiêu chí đã rút ra.
Chương III – Kiến nghị định hướng chính sách đối ngoại
Việt Nam đến năm 2020: Phân tích mối liên hệ giữa trật tự thế giới


5
và định hướng đường lối đ ối ngoại của Việt Nam qua các kỳ Đại hội;
phân tích vai trò của ASEAN trong chính sách đối ngoại Việt Nam
cho tới nay; kiến nghị định hướng đối ngoại phù hợp với trật tự thế
giới đ ến năm 2020 và một số định hướng tham gia ASEAN để nâng
cao vai trò của ASEAN trong trật tự Đông Á đến năm 2020.
CHƯƠNG I: Lý luận về trật tự trong quan hệ quốc tế

1.1 Khái niệm trật tự trong quan hệ quốc tế
- Định nghĩa “trật tự thế giới”: Luận án đã chỉ ra và phân
tích các định nghĩa và trường phái nghiên cứu chính về khái niệm
“trật tự” trong quan hệ quốc tế, phân tích các khái niệm và trường
phái lý thuyết có mối liên hệ gần gũi với khái niệm “trật tự” như
“cục diện” hay “lý thuyết hệ thống”, từ đó làm rõ bản chất của “trật
tự” trong quan hệ quốc tế là các “luật chơi” được các quốc gia trên
thế giới chấp nhận một cách chính thức hoặc không chính thức.
Luận án đã định nghĩa “trật tự” là: “các thỏa thuận một cách chính
thức hoặc không chính thức giữa các quốc gia nhằm duy trì luật
chơi điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia đó trong quá trình theo
đuổi các mục tiêu chung, hoặc mục tiêu riêng của từng nước”.
Biểu hiện của “luật chơi” trong quan hệ quốc tế là các nguyên tắc,
chuẩn mực, thủ tục, quy định, luật lệ quốc tế, hoặc là các tập quán
hình thành từ thực tiễn.
- Các dạng trật tự trong quan hệ quốc tế: Vì một quốc
gia có nhiều mục tiêu trong quan hệ quốc tế, có thể có nhiều dạ ng
thức trật tự khác nhau cùng song song tồn tại, chi phối các loại hành
vi khác nhau của các quốc gia trong quá trình tìm kiếm các lợi ích


6
và mục tiêu khác nhau đó. Các dạng thức trật tự chính là (1) Trật tự
nền tảng (instrumental) là trật tự nhằm phục vụ lợi ích cốt lõi của
các quốc gia thành viên, đó là bảo đảm an ninh quốc gia, duy trì bản
sắc dân tộc, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao sức
mạnh của quốc gia; (2) Trật tự chuẩn tắc – khế ước (normative –
contractual), có thể gọi là trật tự hợp tác: là trật tự vừa nhằm phục
vụ lợi ích quốc gia vừa phục vụ lợi ích chung của các quốc gia
thành viên thông qua một số chuẩn tắc để thúc đẩy hợp tác giữa các

quốc gia; (3) Trật tự đoàn kết - cộng đồng (solidarist), gọi tắt là trật
tự cộng đồng: là trật tự nhằm củng cố tính cộng đồng và thúc đẩy
lợi ích, phúc lợi chung, loại bỏ chiến tranh trong quan hệ quốc tế,
thúc đẩy hội nhập, nhân quyền.
1.2 Nhân tố tác động, công cụ và phương cách thiết lập trật
tự trong quan hệ quốc tế
- Các nhân tố tác động tới trật tự thế giới: Mọi diễn biến,
động thái trong quan hệ quốc tế có ảnh hưởng đủ lớn tới quan hệ
giữa các quốc gia đều có thể tác động tới trật tự thế giới. Các học
giả tổng kết các diễn biến, động thái đó thành 3 loại nhân tố chủ đạo
tác động tới trật tự thế giới là (1) quyền lực và cấu trúc quyền lực
(hay tương quan quyền lực) giữa các quốc gia; (2) các vấn đề nổi
lên trong quan hệ quốc tế tác động tới quan hệ giữa các quốc gia; và
(3) quan niệm về lợi ích và giá trị, tác động tới lợi ích, mục tiêu và
chính sách (cả đối nội và đối ngoại) của các quốc gia.
- Công cụ thiết lập trật tự: Các công cụ chính được sử
dụng phổ biến nhất để tạo lập và duy trì trật tự thế giới có thể xếp
thành 3 loại: ngoại giao, quân sự và luật pháp quốc tế.


7
- Phương cách thiết lập trật tự: dựa trên lý thuyết của
Muthiah Alaggapa, luận án chỉ ra 3 phư ơng cách chính để tạo lập
trật tự là cạnh tranh, hợp tác và chuyển hóa hệ thống. (1) Cạnh
tranh: gồm 3 phương cách chính là bá quyền (hegemony), cân bằng
quyền lực (balance of power) và hài hòa quyền lực (concert of
power); (2) Hợ p tác: gồm các phương cách chính là An ninh tập thể
(collective security), Thiết chế quốc tế (International Regime), Hợp
tác kinh tế quốc tế (economic cooperation); (3) Chuyển hóa hệ
thống: gồm các phương cách chính là Hòa bình dân chủ

(Democratic Peace) và Hộ i nhập quốc tế (International integration).
1.3 Vai trò của nước vừa và nhỏ trong trậ t tự thế giới
Cho tới nay vẫn không có định nghĩa cụ thể về “nước nhỏ”,
mà “nước nhỏ” vẫn thường được hiểu là các nước còn lại sau khi đã
loại trừ các nước lớn. Hans Morgenthau cho rằng “Nước lớn là các
quốc gia có khả năng áp đặt ý chí lên các nước nhỏ Còn các nước
nhỏ là các nước không có khả năng chống lại ý chí của các nước
lớn”. Cách phân loại các quốc gia theo sức mạnh và quyền lực dựa
trên một giả thuyết căn bản rằng nước có nhiều sức mạnh sẽ sử dụng
quyền lực của mình, do vậy các nước lớn là các nước có vai trò quan
trọng hơn trong quan hệ quốc tế và là các nước chịu trách nhiệm
chính trong hệ thống quan hệ quốc tế hiện hành. Hans Morgenthaus
định nghĩa sức mạnh quốc gia nằm trong các tiêu chí sau: lãnh thổ;
dân số; quân đội; nền kinh tế; tài nguyên; đặc đ iểm của dân tộc, tinh
thần dân tộc, khả năng của chính phủ và nền ngoại giao.
Tuy nhiên, thuyết tự do cho rằng cần phân biệ t khái niệm
nước nhỏ và nước yếu. Nước nhỏ không có nghĩa là nước yếu và


8
ngược lại. Một số nước tuy nhỏ nhưng vẫn có thể có ảnh hưởng lớn
nhờ các giá trị đạo đức, về năng lực tổ chức và quản lý đất nước và
tạo công bằng trong xã hội Các thước đo mới về sức mạnh quốc
gia trong thế giới toàn cầu hóa cần bổ sung thêm các tiêu chí về sức
mạnh kinh tế như năng lực thương mại, sức mạnh về tri thức như
khoa học công nghệ. Sức mạnh của các nền kinh tế trong thế giới
hiện nay không nằm ở các tài nguyên truyền thống như đất đai hay
số lượng lao động mà chất lượng lao động và tri thức mới là các tài
nguyên có vai trò chủ chốt. Vì vậy, các nước vừa và nhỏ nhưng có
chất lượng lao động cao, có nền giáo dục tiên tiến và đầu tư nhiều

cho nghiên cứu, phát triển và khoa học công nghệ lại là các quốc gia
có ảnh hư ởng trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, trong thế giới đa cực
hóa, vai trò của các thể chế đa phương trong việc xác lập luật chơi
ngày càng quan trọng. Các quốc gia vừa và nhỏ tuy đứng một mình
sẽ không có tiếng nói đáng kể nhưng nếu là các quốc gia năng động
trong các diễn đàn đa phương vẫn có thể nhân lên sức mạnh của
mình. Nước nhỏ còn có thể dựa vào thể chế và luật pháp quốc tế để
phát huy vai trò. Các nước nhỏ có thể tập hợp, liên kết lại với nhau
trong các định chế quốc tế và đấu tranh nhằm thay đổi các định chế
đó để bảo vệ lợi ích của mình.
Chương I của luận án kết luận rằng cả lý thuyết và thực tiễn
lịch sử thế giới đã chứng minh các nước lớn tiếp tục có vai trò chủ
đạo trong việc tạo lập trậ t tự thế giới. Phươ ng cách tạo lập trật tự chủ
đạo trong lịch sử vẫn là bá quyề n. Công cụ tạo lập trật tự chủ yếu
vẫn là vũ lực. Tuy nhiên, các nư ớc vừa và nhỏ vẫn có thể có vai trò
đối với trật tự thế giới trong các hoàn cảnh nhất định. Đó là khi trật
tự thế giới không phải là trật tự bá quyền hoặc trật tự hòa hợp quyền


9
lực giữa các nước lớn. Bằng cách góp phần tạo ra các dạng thức trật
tự phù hợp như cân bằng quyền lực; an ninh tập thể hoặc hội nhập,
và bằng cách liên kết lại với nhau và thông qua sức mạnh tinh thần
như các ý tưởng, giá trị, chuẩn mực phù hợp với lợi ích chung của
cộng đồng quố c tế, các nước vừa và nhỏ hoàn toàn có thể có vai trò
đối với trật tự thế giới.
Bốn tiêu chí để đánh giá vai trò các nước vừa và nhỏ đối với
trật tự thế giới là: (i) nhận diện: các nước vừa và nhỏ tạo ra luật chơi
được các nước khác biết tới và hiểu một cách đ ầy đủ; (ii) thừa
nhận: các luật chơi đ ó được các nước thừa nhận; (iii) tuân thủ: các

nước cơ bản tuân thủ các luật chơi này trên thực tế; (iv) chế tài: các
nước vừa và nhỏ có biện pháp chế tài nếu một nước không tuân thủ
các luật chơi đó.
CHƯƠNG II Vai trò của ASEAN trong trật tự Đông
Á từ năm 1967 đến nay và dự báo đến
năm 2020
2.1 Vai trò của ASEAN ở Đông Á từ năm 1967 cho tới nay
- Sơ lược quá trình hình thành trật tự Đông Á: trật tự khu
vực Đông Á đã trải qua các giai đoạn chính như sau: (i) Trậ t tự
Đông Á cổ đại là trật tự chủ đạo bao trùm phần lớn khu vực Đ ông Á
thời kỳ phong kiến, thường được gọi là “trật tự Sắc Phong - Triều
cống”, là dạng trật tự bá quyền dựa trên sức mạnh mềm văn hóa
Trung Quốc, nhất là các chuẩn mực giá trị đạo Khổng; (ii) Trật tự
Đông Á thời kỳ thuộc đ ịa của phương Tây là trật tự thay thế trật tự
bá quyền triều cống ở Đông Á, do các cường quốc về kinh tế và


10
quân sự châu Âu thiết lập ở khu vực vào thế kỷ thứ 18 và 19 theo
mô hình hài hòa quyền lực trên cơ sở các quốc gia – dân tộc, tương
tự như trật tự quan hệ quốc tế phương Tây vào thế kỷ 19; (iii) Trật
tự khu vực Đ ông Á cuối thể kỷ 19 đến hết Chiến tranh thế giới II
là trật tự được thiết lập do sự trỗi dậy của Nhậ t Bản cuối thế kỷ 19
(thường được tính từ năm 1894 – năm bắt đầu cuộc chiến Nhật -
Trung) đồng thời với sự suy yếu của các đế quốc châu Âu do hai
cuộc chiến tranh thế giới thứ I và thứ II. Trật tự này kết thúc với sự
thất bại củ a Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ II (1945); (iv) Trật
tự Đông Á hậu Chiến tranh thế giới thứ II là trật tự cân bằng
quyền lực giữa phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và khối
tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu. Trật tự hai cực toàn cầu này tồn

tại đến cuối những năm 80 và là nhân tố chủ đạo chi phối trật tự khu
vực Đông Á thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh.
- Vai trò củ a ASEAN đối với trật tự Đông Á kể từ khi ra
đời: các nước ASEAN đều đặt ư u tiên bảo đảm sự sinh tồn của
quốc gia, trong đó bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, chống lại chủ nghĩa ly
khai và duy trì vị thế của đảng cầm quyền là các ưu tiên cao nhất.
ASEAN đượ c thành lập nhằm mục đích an ninh chứ không phải vì
mụ c tiêu kinh tế thuần túy, tuy nhiên Tuyên bố Băng-cốc năm 1967
phải nhấn mạnh mục tiêu hợp tác kinh tế vì ASEAN không muốn
tạo ra ấn tượng các nước Đông Nam Á đang lập một liên minh quân
sự, có thể gây thêm nghi kỵ, căng thẳng và đối đầ u trong khu vực.
Bảng tổng kết sau tổng hợp đánh giá vai trò của ASEAN cho tới nay
trong từ ng lĩnh vực theo các tiêu chí đã lựa chọn ở Chương I. Tuy có
thể còn có ý kiến khác nhau về cách chấm điểm các tiêu chí, bảng
này giúp có đánh giá khái quát về vai trò của ASEAN.


11



12
Kết quả đánh giá cho thấy ASEAN đáp ứng tố t 3 trong 4 tiêu chí
đánh giá, trong đó tiêu chí nhận biết và thừa nhận các chuẩn mực và
nguyên tắc của ASEAN đạt gần như tuyệ t đối. Tiêu chí ASEAN
chưa đáp ứng được là về chế tài và các biện pháp bảo đảm thực thi.
Tuy nhiên, xét ASEAN là tập hợp của các nước vừa và nhỏ, tạo ra
luật chơi chung cho các nước lớn hơn tham gia thì ASEAN khó lòng
mà có thể có các biện pháp chế tài một cách hiệ u quả. Mặt khác, đặc
thù của ASEAN và châu Á là chú trọng tham vấn và đồng thuận,

chưa tạo ra các thiết chế mang tính ràng buộc pháp lý cao. Với chuẩn
mực chung như vậy thì việc ASEAN chưa có biện pháp chế tài để
bảo đảm thực thi luật chơi của mình không thể hiện vai trò yếu kém,
mà phản ảnh đặc thù riêng trong việc tạo lập luậ t chơi và trật tự ở
khu vực Đông Á.
- Trật tự Đông Á hiện nay và vai trò của ASEAN: có
nhiều nhân tố cùng tham gia tác động và ảnh hưởng tới trật tự Đông
Á, tạo ra nhiều dạng thức trật tự cùng song song tồn tại, tuy nhiên 3
nhân tố nổi bật là: (1) tác động và ảnh hưởng truyền thống của Mỹ
ở khu vực; (2) sự trỗi dậy của Trung Quố c; (3) và chủ nghĩa đa
phương khu vực do ASEAN chủ đạo. Ba nhân tố chủ đạo trên góp
phần tạo ra ba dạng thức trật tự chính ở khu vực Đông Á, đó là (1)
trật tự an ninh truyền thống (là trật tự nền tảng), hiện vẫn do Mỹ có
vai trò chủ đạo; (2) trật tự kinh tế (hay trật tự hợp tác), trong đó các
quốc gia tăng cường hợp tác kinh tế và có xu hướng chấp nhận vai
trò đầu tàu của nền kinh tế Trung Quốc; (3) trật tự chính trị - ngoại
giao đa phương (hay trật tự cộng đồng) giúp các nước duy trì đối
thoại và hợp tác trong khu vực một cách hài hòa thông qua các tiế n


13
trình hợp tác đa phương, trong đó các cơ chế đa phươ ng của
ASEAN có vai trò chủ đạo.
Ba dạng thức trật tự trên cùng song song tồn tại và do ba
nhân tố Mỹ, Trung Quốc và ASEAN chi phối, song không tồn tại
biệt lập mà có tác động qua lại với nhau, và đang trong quá trình vận
động trong đó các “nhân vật chính” là Mỹ, Trung Quốc và ASEAN
đều tìm cách mở rộng phạ m vi ảnh hưởng, tác động vào các dạng
thức trật tự không do mình chủ đạo. Các dạng thức trật tự có thể bổ
trợ và củng cố cho nhau, nhưng cũng có thể cạnh tranh và triệt thoái

lẫn nhau. Ví dụ, trật tự an ninh truyền thống giúp bảo đảm môi
trường hòa bình, ổn định khu vực, trên cơ sở đó các quốc gia mới có
lòng tin và điều kiện để tập trung nguồn lực vào hợp tác phát triển
kinh tế, thúc đẩy liên kết, hội nhập. Trật tự hợp tác kinh tế cũng có
tác dụng làm phân bổ lại sức mạnh kinh tế của các nướ c trong khu
vực, làm thay đổ i cán cân quyền lực, tác động tới cân bằng quyền lực
là nền tảng của trật tự an ninh truyền thống. Cả ba nhân tố chính là
Mỹ, Trung Quốc và ASEAN đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng sang
các khu vực trật tự khác phục vụ lợi ích của mình. Mỹ muốn can
thiệp trật tự kinh tế khu vự c và ngăn cản ảnh hưởng của Trung Quốc
bằng sáng kiến Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP).
Trung Quốc cũng không dừng lại ở trật tự hợp tác kinh tế trong khu
vực mà muốn xây dựng một khuôn khổ an ninh mới theo mô hình an
ninh tập thể hoặc thậm chí hòa hợp quyền lực bằng các ý tưởng về
lập nhóm G2 (Group of 2) hoặc C2 (Cooperative 2). ASEAN tuy
không trực tiếp tác động được vào các dạng thức trật tự khác nhưng
vẫn có ảnh hưởng tới các trật tự đó bằng cách thể hiện thái độ ủng hộ


14
hoặc dè dặt của mình với các chính sách của Mỹ và Trung Quốc, với
cả tư cách tổ chức và tư cách từng thành viên đơn lẻ.
2.2 Dự báo trật tự Đông Á đến năm 2020
- Xu thế chuyển biến trật tự Đông Á đế n năm 2020: Sự
thay đổi của trật tự khu vực Đông Á đến năm 2020 sẽ chịu tác động
bởi 3 nhân tố:

(1) chuyển dịch quyền lực giữa các quốc gia; (2) sự
nổi lên của các vấn đề khu vực và quốc tế làm thay đổi lợi ích, ưu
tiên và vị thế của các quốc gia; (3) sự thay đ ổi nhận thức và giá trị

của các quốc gia, dẫn đến thay đổi lợi ích và cách hành xử trong
quan hệ quố c tế. Qua phân tích cụ thể các nhân tố trên, luận án kết
luận trật tự Đông Á đang có những biến chuyển khá sâu sắc, tuy
nhiên đến năm 2020 trật tự Đông Á vẫn sẽ gồm các dạng thức cơ bản
của trật tự Đông Á hiện nay, đó là các trật tự an ninh truyền thống do
Mỹ chủ đạo; dạng thức trật tự hợp tác kinh tế do Trung Quốc có vai
trò đầu tàu; và dạng thức trật tự chính trị - ngoại giao do ASEAN dẫn
dắt. Các nước lớn khác ở khu vực như Nhật bản, Ấn độ, Nga hay các
quốc gia tầm trung khác như Hàn Quốc, Úc sẽ góp phần tác động
vào các dạng thức trậ t tự trên, nhưng chưa thể chủ đạo hoặc tạo ra
các thay đổi căn bản trong các trật tự đó.
- Dự báo đến năm 2020, ASEAN vẫn có điều kiện để tiếp
tục phát huy được vai trò ở khu vực Đông Á do các điều kiện để các
nước vừa và nhỏ phát huy vai trò được xác định ở Chương I vẫn tiếp
tục tồn tại, đó là: (1) Trật tự an ninh truyền thống khu vực tiếp tục
được duy trì theo mô hình cân bằ ng quyền lực hoặc an ninh tập thể,
ít khả năng Trung Quốc hoặc Mỹ sẽ hộ i tụ đủ sức mạnh để trở thành
bá quyền ở khu vực, cũng ít khả năng Trung Quốc và Mỹ “bắt tay”


15
để tạo ra mộ t hòa hợp quyền lực chi phối trật tự khu vực; (2) Trật tự
hợp tác kinh tế khu vực cũng sẽ tiếp tục được duy trì do trọng tâm
kinh tế thế giới tiếp tục chuyển dịch về Đông Á, và các cơ chế hợp
tác khu vực ngày càng được hoàn thiện. Trong bối cảnh đó, các
khuôn khổ hợp tác chính trị - ngoại giao của ASEAN sẽ tiếp tục phù
hợp với lợi ích của các bên, các “luật chơi” của ASEAN sẽ cơ bản
tiếp tục được các bên chấp nhận và tuân thủ do chưa có nước lớn nào
có đủ sức mạnh và lòng tin để tạo ra hệ thống luật chơi khu vực khác
có khả năng thay thế. Điều đó tạo điều kiện để ASEAN tiếp tục có

vai trò.
2.3 Dự báo vai trò của ASEAN trong trật tự Đông Á đến năm
2020
- Về mục tiêu an ninh, ASEAN không có khả năng trực tiếp
ứng phó với các thách thức an ninh truyền thống, nhưng có thể gián
tiếp duy trì trật tự an ninh thông qua việc tạo điều kiện để các nước
ngoài khu vực duy trì cân bằng quyền lực ở Đông Á, thúc đẩy đối
thoại và hợp tác giữa các lực lượng quốc phòng của các nước trong
khu vự c, thúc đẩy xây dựng lòng tin và các biện pháp kiểm soát
khủng hoảng v.v Về mục tiêu kinh tế, ASEAN đã và sẽ tiếp tục
phát huy vai trò mạnh mẽ do có đồng thuận khu vực cao. Tuy nhiên,
ASEAN bị giới hạn bởi nguồn lực eo hẹp của mình, do vậy ít có khả
năng ASEAN chủ động đưa ra các ý tưởng, sáng kiến lớn để các
nước khác theo. Về mục tiêu xây dựng cộng đồng, đến năm 2020,
Cộng đồng ASEAN mới chỉ hình thành ở tầng chính phủ và phần
nào đó ở giới doanh nghiệp. ASEAN sẽ phải mất nhiều năm nữa để
tạo được đồng thuận và sự chấp nhận rộng rãi về các nguyên tắc,


16
chuẩn mực do ASEAN đề ra, nhất là trong không gian đa dạng của
các nước Đông Á.
- Vai trò của ASEAN đến năm 2020 sẽ gặp nhiều thách
thức do: (1) Trung Quốc ngày càng lớn mạnh và có lợi ích trong
việc dần thay đổi luật chơi khu vực, do đ ó tùy từ ng lúc, từng vấn đề
Trung Quốc có thể sẽ không còn thừa nhận và ủng hộ hoàn toàn vai
trò trung tâm của ASEAN do muốn điều chỉnh dần các luật chơi do
ASEAN đề ra; (2) cạnh tranh chiến lược của các nước lớn ở khu vực
ngày càng gia tăng, có khả năng dẫn đến khủng hoảng cục bộ vượt ra
ngoài khuôn khổ xử lý của ASEAN; (3) các nước lớn như Trung

Quốc, Mỹ, Nhật, Ấn độ sẽ tác động và can thiệp nhiều hơn vào các
cơ chế hợp tác đa phương từ trước tới nay do ASEAN chủ đạo để
hướng các cơ chế này phục vụ nhiề u hơn cho mình, cạnh tranh vai
trò trên chính “sân chơi” truyền thống của ASEAN. Do vậy, để duy
trì và tăng cường vai trò của mình ở Đông Á từ nay đến năm 2020,
ASEAN phải thích ứng tốt hơ n trước các thách thức mới nảy sinh và
hoạt động hiệu quả hơn trong môi trường Đông Á đang thay đổi.
CHƯƠNG III KIẾN NGHỊ ĐỊNH HƯ ỚNG CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
3.1 Trật tự thế giới và chính sách đối ngoại của Việt Nam
Tư duy đối ngoại Việt Nam luôn cố gắng gắn Việt Nam với
thế giớ i. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước phản ảnh tư
duy của Đảng và Nhà nước về trật tự và xu thế vận động của trật tự
thế giới. Có thể thấy trong quá trình hoạch định đường lối và chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Đảng ta đã cố gắng nhận diện


17
trật tự thế giới trong từng thời kỳ và điều chỉnh chính sách phù hợp
với nhận thức về trật tự thế giới trong thời kỳ đó. Trong đa số các
trường hợp, Đảng đã nhận diện đúng đắ n và kip thời được cục diện
thế giới, và hoạch định đường lối phù hợp với cục diện đó. Tuy
nhiên, khi cục diện khu vực, thế giới có chuyển biến nhanh chóng và
sâu sắc (như Đại hội IV, Đ ại hội VII, Đại hộ i IX), Đảng có phần thận
trọng trong việc đánh giá và nhận diện các thay đổi của cục diện, và
thường chưa điều chỉnh chính sách đối ngoại ngay khi có những thay
đổi trong trật tự thế giới. Đôi khi, nhiều năm sau chiến tranh nhưng
Đảng và Nhà nước ta vẫn nhìn tình hình khu vực theo cách nhìn cũ.
Hơn nữa, trong hoạch định đường lối đối ngoại của các kỳ Đại hội,
mức độ quan tâm của Đảng thường dừng lại ở việc đánh giá cục diện

và một số nhân tố cơ bản tác động tới trật tự thế giới, chưa thực sự
quan tâm sâu hơn tới trật tự khu vực và thế giới đ ó để đánh giá lợi
ích của Việt Nam trong trật tự đó như thế nào, qua đó việc hoạch
định chính sách được sâu và sát hơn với thực tiễn. Đại hội XI là một
ngoại lệ khi Đảng đã quan tâm hơn tới các “chi tiết” trong trật tự thế
giới, và có nhiều điều chỉnh “chi tiết” trong chính sách đối ngoạ i một
cách phù hợp.
3.2 Vai trò của ASEAN trong chính sách đối ngoại Việt Nam:
Chính sách của Việt Nam với ASEAN có thể được chia
thành các giai đoạn chính sau: (1) giai đoạn trước Đại hội Đảng lần
thứ VI (1986); (2) giai đoạn sau Đại hội Đả ng lần thứ VI (1986) đến
khi ta gia nhập ASEAN (1995); (3) giai đoạ n từ khi trở thành thành
viên của ASEAN. Trước năm 1986, Việt Nam chưa có ý đ ịnh gia
nhập ASEAN. Việc Việt Nam cải thiện quan hệ với các nước Đông
Nam Á sau năm 1975 là nhằm cải thiện môi trường khu vực, tăng


18
cường an ninh quốc gia. Trong giai đoạn này, ưu tiên đối ngoại của
Việt Nam là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, không phải các
nước láng giềng. Khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam coi đó
là một biện pháp nhằm phá thế bao vây, cô lậ p, cải thiện môi trường
an ninh và cải thiện vị thế quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh. Các
lợi ích về kinh tế, phát triển và lợ i ích an ninh chung của cộng đồng
chưa phải là mục tiêu của Việt Nam khi mới tham gia ASEAN. Tuy
nhiên, trong giai đoạn hiện nay, ASEAN đã chính thức trở thành
trọng tâm quan trọng của chính sách đối ngoại của Việt Nam. Lợi ích
chiến lược của Việt Nam là xây dựng một ASEAN vững mạnh, một
Cộng đồng ASEAN thực sự gắn kết, có vai trò chủ đạo ở khu vực
Đông Nam Á, ở châu Á – Thái Bình Dương và có tiếng nói được chú

ý, lắng nghe trên trường quốc tế. Chính sách đ ó được thể hiện trong
đường lối đối ngoại Đại hội XI (2011), khẳng định Việt Nam sẽ chủ
động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng
ASEAN.
3.3 Định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam và chính
sách đối với ASEAN đến năm 2020
- Định hướng CSĐN trong trật tự Đông Á đến năm
2020: Muốn bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia dân tộc, chính sách đối
ngoại Việt Nam đến năm 2020 cần thích ứng và tìm chỗ đứng phù
hợp cho Việt Nam trong cả 3 dạng thức trật tự chính ở khu vực
Đông Á. Trật tự an ninh truyền thống sẽ tiếp tục xu thế cân bằng
quyền lực hoặc an ninh tập thể. Việt Nam cần tiếp tục đa dạng hóa,
đa phương hóa quan hệ với các nước lớn, tạo thêm công cụ để linh
hoạt điều tiế t quan hệ với các nước này nhằm duy trì cân bằng lợi


19
ích và ảnh hưởng của các nước với khu vực và với Việt Nam. Trật
tự kinh tế có xu thế ngày càng hợp tác và gắn kết chặt chẽ trong đó
Trung Quốc sẽ có vai trò đầu tàu. Việt Nam cần chấp nhận vai trò
trung tâm của Trung Quốc, coi Đông Á là trọng tâm hội nhập kinh
tế, lấy tiêu chí hiệu quả kinh tế làm đầu trong việc mở rộng các
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trật tự chính trị - ngoại giao đa
phương sẽ tiếp tục do ASEAN đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ
chức, sắp xếp và điểu khiển “luật chơi”. Việt Nam cần tiếp tục tận
dụng vai trò củ a ASEAN và tạo thuận lợi cho ASEAN phát huy vai
trò ở Đông Á.
- Định hướng chính sách đối với ASEAN đến năm 2020:
Chính sách của Việt Nam với ASEAN cầ n giúp củng cố các điều
kiện tiên quyết để ASEAN có thể có vai trò, đó là cùng ASEAN xây

dựng trật tự khu vực theo mô hình cân bằng quyền lực, hoặc thể chế
an ninh tập thể; đồng thời khuyến khích ASEAN gắn kết chặt chẽ
và năng động phát huy sức mạnh mềm trên trường quốc tế. Các biện
pháp cụ thể Việt Nam cần cùng ASEAN tiến hành là: (1) Tác động
vào cấu trúc và phân bổ quyền lực của khu vực, giúp các bên giám
sát quá trình chuyển giao quyền lực, bảo đảm cho tiến trình này diễn
ra minh bạch và tính đến lợi ích của tất cả các bên, đồng thời giám
sát việc thực thi các thỏa thuận khu vực giúp duy trì lòng tin giữa tất
cả các bên; (2) Phát huy quyền lực mềm củ a ASEAN, chủ động
đóng góp vào các vấn đề khu vực và thế giới, chủ độ ng đề xuất
sáng kiến khu vực phù hợp với lợi ích chung; (3) Cả i tiến và đổi
mới chính mình để luôn thích ứng với môi trư ờng, cải tiến cách
thức hoạt động, cập nhật các định nghĩa về giá trị và lợ i ích chung
khu vực, xây dựng bản sắc ASEAN phù hợp với xu thế chung.


20
KẾT LUẬN
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ở Đông Á đã chứng tỏ các
nước vừa và nhỏ nói chung, thể hiện qua ví dụ điển hình là ASEAN,
có thể có vai trò và tác động tới việc xác lập trật tự khu vực và thế
giới trong một số hoàn cảnh nhất định. Điều kiện để có hoàn cảnh
đó là: (1) trật tự khu vực không phải do một nước lớ n bá quyền chi
phối hoặc do một số nước lớn cùng nhau chi phối thông qua một
“hòa hợp quyền lực”, mà được thiết lập ở các dạng trật tự khác như
“cân bằng quyền lực”, “an ninh tập thể”, “liên kết và phục thuộc lẫn
nhau” hoặc “cộng đồng” v.v ; (2) các nước nhỏ biết cách tập hợp
lại với nhau và phát huy được sức mạnh mềm của mình thông qua
việc xây dựng các thiết chế đa phương vận hành hiệu quả, thúc đẩy
các ý tưởng hợp tác, các sáng kiến phản ảnh các lợi ích, giá trị và

chuẩn mực ứng xử chung. Kể từ khi ra đời nă m 1967, ASEAN đã
phát huy được vai trò ở khu vực Đông Á. Nhân tố khách quan là cân
bằng quyền lực được duy trì ở khu vực, giúp cho Đông Á giữ được
ổn định tương đối; trong khi các nước trong khu vực đều chú trọng
tăng cường hợp tác kinh tế để phục vụ các lợi ích phát triển chung.
Nhân tố chủ quan là ASEAN đã tranh thủ đư ợc trật tự có sẵn đó,
linh hoạt và khéo léo xây dựng các thiết chế đa phương khu vực để
củng cố các dạng thức trật tự đã có và làm cơ sở để ASEAN phát
huy các sáng kiến thúc đẩy hợp tác, phát huy sức mạnh mềm củ a
mình.
2. Ba (3) nhân tố chủ đạo chi phối trật tự Đông Á hiện nay
và tới năm 2020 là Mỹ, Trung Quốc và ASEAN. Dự báo đến năm
2020, ít khả năng Mỹ hay Trung Quốc sẽ trở thành các bá quyền để


21
mộ t mình quyết định luật chơi khu vực. Cũng không nhiều khả năng
Mỹ và Trung Quốc sẽ có thể bắt tay dàn xếp mọi trật tự trong khu
vực. Các nước lớn và tầm trung khác ở khu vực như Nhật Bản, Ấn
Độ, Nga, Úc, Hàn quốc sẽ tham gia và góp phần tác động vào trật tự
khu vực, song chưa thể tạo ra luật chơi hay tác động làm thay đổi
đáng kể luật chơi đó. Mỹ sẽ tiếp tục có vai trò chủ đạo trong việc
thiết lập trật tự an ninh truyền thống ở Đông Á, là trật tự nền tảng
giúp bảo đảm cho chiến tranh hay xung đột lớn không xảy ra.
Phương thức chủ đạo là tạ o ra cân bằng quyền lực đối trọng vớ i sự
trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc. Công cụ chính là quân sự
thông qua việc tái bố trí lực lượng của quân đội Mỹ ở châu Á - Thái
Bình Dương, nhưng Mỹ cũng sẽ sử dụng công cụ ngoại giao nhiều
hơn để thuyết phục các nước trong khu vực cùng gánh vác, chia sẻ
trách nhiệm, đồng thời sử dụng cả công cụ pháp lý quốc tế đ ể tăng

cường tính ổn định của trật tự này. Trung Quốc ngày càng có vai trò
đầu tàu trong việc thúc đẩy trật tự kinh tế Đông Á do trọng tâm kinh
tế thế giới ngày càng dịch chuyển về khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, và các quốc gia trong khu vực có chung lợi ích tăng cường
hợp tác với nhau và với Trung Quốc để đón nhận cơ hội này. Với
đà phát triển kinh tế củ a mình, Trung Quốc sẽ không chỉ thúc đẩy
hợp tác, liên kết kinh tế khu vực mà sẽ dành ngày càng nhiề u nguồn
lực cho các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành khác, và sẽ cung cấp
ngày càng nhiều hàng hóa công cho khu vực. ASEAN là lực lượng
chủ đạo xây dựng trật tự chính trị - ngoại giao đa phươ ng ở khu vực,
trong đó hướng các quốc gia trong khu vực hợp tác không chỉ vì lợi
ích quốc gia mà vì lợi ích và giá trị chung của toàn bộ khu vự c.
ASEAN phát huy được vai trò nhờ xây dựng được các chuẩn mực
và nguyên tắc quan hệ quốc tế phù hợp với lợi ích chung của cả khu


22
vực, và làm chủ các cơ chế hợp tác đa phương được tất cả các nước
trong khu vực chấp nhận.
3. Đến năm 2020, môi trường khu vực vẫn đáp ứng được
các điều kiện cần để các nước vừa và nhỏ phát huy được vai trò, tuy
nhiên ASEAN sẽ không mặc nhiên có đượ c vai trò mà cần phải rất
chủ động và linh hoạt tạo dựng vai trò cho mình bằng cách nỗ lực tác
động tới cả 3 dạng thức nói trên của trật tự Đông Á. ASEAN cần hỗ
trợ củng cố trật tự an ninh truyền thống bằng cách tạo thuậ n lợi cho
việc hình thành thế cân bằng linh hoạt giữa các nước lớn ở khu vực,
đồng thời chủ đạo tham gia vào quá trình chuyển dịch quyền lực ở
khu vực, bảo đảm cho tiến trình đó diễn ra minh bạch, công khai và
giảm thiểu các rủi ro có thể nảy sinh. ASEAN cần hỗ trợ thúc đẩy
trật tự hợp tác kinh tế khu vực bằng cách giúp xây dựng và củng cố

các khuôn khổ, cơ chế hợp tác kinh tế khu vực, thúc đẩy liên kế t
kinh tế thông qua các thiết chế kinh tế đa phương. ASEAN cần
năng động, sáng tạo đầu tư nguồn lực để có các ý tưởng, sáng kiến
mới, thúc đẩy các chuẩn mực ứng xử khu vực phù hợp với tất cả
các bên, tổ chức áp dụng và thực thi các chuẩn mực đó trong hoàn
cảnh thực tiễn của Đông Á thông qua các cơ chế đa phương do
ASEAN chủ đạo, qua đó kiến tạo trật tự cộng đồng khu vực. Khả
năng phát huy ảnh hưởng củ a ASEAN nhiều hay ít phụ thuộ c vào
tương quan lực lượng giữa các nước lớn ở khu vực và dạng trật tự
khu vực nào sẽ hình thành trên cơ sở tương quan lực lượng đó. Vai
trò của ASEAN cũng sẽ phụ thuộc vào khả năng của ASEAN kiểm
soát và tác động vào quá trình thay đổi trậ t tự ở khu vực, và việc liệu
ASEAN có đủ khả năng phát huy sức mạnh mềm bằng các ý tưởng,
sáng kiến để tạo ra các chuẩn mực quan hệ quốc tế phù hợp vớ i bối


23
cảnh trật tự mới ở khu vực hay không. Một ASEAN đoàn kết, liên
kết chặt chẽ, thể chế hóa cao, hoạt động hiệu quả và năng động, linh
hoạt trong tư duy là điều kiện tiên quyết để ASEAN phát huy được
các vai trò nói trên.
4. Định hướng đối ngoại củ a Việt Nam không những cần
phù hợp xu thế phát triển của cục diện thế giới mà cần tính tới cả
trật tự khu vực Đông Á. Chính sách đối ngoại của Việt Nam từ nay
đến năm 2020 cần phù hợp với cả 3 dạ ng thức trật tự của khu vực
Đông Á. Theo đó, định hư ớng đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế cần tiếp tục là đường lối đối ngoại chủ đạo. Nhằm bảo đảm
lợi ích trong trật tự an ninh truyền thống của Đông Á, Việt Nam cần
có một đường lối đối ngoại linh hoạt và cân bằng trong quan hệ với

các nước lớn; cần có thêm công cụ cả song phương và đa phươ ng
để thúc đẩy hoặc điều tiết quan hệ với các nước lớn, nhất là công cụ
ngoại giao quốc phòng. Việc Việt Nam triển khai định hướng "đưa
các mối quan hệ đi vào chiều sâu" trong dạng thức trật tự này cần
không làm giảm tính cơ động tổng thể của chính sách đối ngoại. Nói
cách khác, việc tăng cường quan hệ với đối tác này không nên kiềm
chế hoặc gây khó cho Việt Nam quan hệ với đối tác khác. Nhằm bảo
đảm lợi ích của Việ t Nam trong trật tự kinh tế Đông Á, cần coi
Đông Á là khu vực hội nhậ p kinh tế trọng điểm củ a Việt Nam, xây
dựng chiến lược hội nhập trên tinh thần đó. Khi triển khai phương
châm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế cần lấy
hiệu quả kinh tế làm tiêu chí chủ đạo, tiêu chí chính trị hoặc an ninh
kinh tế chỉ nên là thứ yếu. Cần coi trọng vị trí đầ u tàu của Trung
Quốc, chấp nhận Trung Quốc là quốc gia có vai trò lãnh đạo khu


24
vực trong hợp tác phát triển, ứ ng xử phù hợp với vị thế đó của
Trung Quốc nhưng không có nghĩa là thần phục Trung Quốc hay hy
sinh các lợi ích về an ninh, chính trị trong quan hệ với Trung Quốc.
Để bảo vệ lợi ích của Việt Nam trong trật tự chính trị - ngoại giao đa
phương khu vực, Việt Nam cần nỗ lực củng cố và nâng cao vai trò
thông qua ASEAN. Một ASEAN mạnh và phát huy được vai trò ở
khu vực đồng nghĩa với việc Việt Nam phát huy được sức mạnh,
hạn chế được điểm yếu của mình. Để củng cố ASEAN và vai trò
của Việt Nam trong ASEAN, một mặt Việt Nam cần khéo léo trong
xử lý quan hệ với các nước lớn, không lôi kéo hoặc đưa ASEAN
vào thế kẹt giữa các nước lớn với nhau hoặc giữa các nước lớn với
Việt Nam, vư ợt quá sức chịu đựng của đoàn kết ASEAN. Mặt khác,
Việt Nam cần chủ động, tích cực phối hợp với các nước ASEAN

nòng cốt khác thúc đẩy các vấn đề ASEAN nói chung và Việt Nam
nói riêng có lợi ích sát sườn, sẵn sàng đi đầu ASEAN trong một số
lĩnh vực và tình huống nếu cần. Việt Nam cũng cần không ngừng
ủng hộ việc tăng cường môi trường thể chế và pháp lý của ASEAN,
thường xuyên tự đánh giá lạ i mình để xác định các lợi ích chung và
giá trị chung của ASEAN trong tình hình mới, coi việ c xây dựng bản
sắc chung ASEAN là cách tốt nhấ t để gắn kết các nước ASEAN
mộ t cách lâu dài.
Tựu trung lạ i, phương châm của Đại hội XI về việc “chủ
động, tích cực và có trách nhiệm” trong hội nhập quốc tế nói chung
và đặc biệt là trong tham gia hợp tác ASEAN cần thực sự được triển
khai trên thực tế để Việt Nam ngày càng trở nên có vai trò trong tổ
chức khu vực quan trọng này./.



25
DANH MỤC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ
1. NGUYỄN HÙNG SƠN: Vấn đề xây dựng các thể chế ở khu
vực và vai trò của ASEAN, Tạp chí Nghiên cứu Quố c tế , số 4
(12-2009)
2. NGUYỄN HÙNG SƠN: Hiến chương ASEAN và việc xây
dựng Cộng đồng ASEAN, Tạp chí Nghiên cứu Quố c tế, số 79
(12-2009)
3. NGUYỄN HÙNG SƠN: Cấu trúc khu vực và vấn đề mở rộng
cấu trúc khu vực ở châu Á - Thái Bình Dương, Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế, số 81 (6-2010)
4. NGUYỄN HÙNG SƠN: Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thờ i đ ại trong tình hình mới, Tạp chí Nghiên cứu Quốc
tế, số 83 (12-2010)

5. NGUYỄN HÙNG SƠN: Xây dựng Quan hệ đối tác chiến lượ c
với các nước thành viên ASEAN: Bước chủ động, tích cực mới
của Việt Nam trong xây dựng Cộng đồng ASEAN, Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế, số 87 (4-2011)
6. NGUYỄN HÙNG SƠN: From community to Community,
towards a Global Community of Nations: ASEAN Community
Building, Challenges and Prospect, Tạp chí Nghiên cứu Quốc
tế (Tiếng Anh), số 25 (12-2011)
7. NGUYỄN HÙNG SƠN: From Regional to Global
Community of Nations, ASEAN Monthly Commentary,
4/2011
8. NGUYỄN HÙNG SƠN (2010), "Nâng cao hơn nữa hiệu quả
tham gia của Việt Nam tại các tổ chức, diễn đàn đa phương",
Định hướng Chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020,
nxb Chính trị quốc gia
9. NGUYỄN HÙNG SƠN (2010), "Việt Nam sau 15 năm là
thành viên ASEAN: Hướ ng tới một Việt Nam chủ động, tích
cực và có trách nhiệm", Định hướ ng Chiến lược đối ngoại
Việt Nam đ ến năm 2020, nxb Chính trị quốc gia

×