Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Đặc điểm thơ lục bát trong Nguyễn Bính - Tố Hữu Luận văn ThS. Văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.51 KB, 106 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ THỊ HOÀI




ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH- TỐ HỮU






LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN







Hà Nội, năm 2014



2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ THỊ HOÀI




ĐẶC ĐIỂM THƠ LUC BÁT NGUYỄN BÍNH - TỐ HỮU

Chuyên ngành: Văn Học Viêt Nam
Mã ngành: 60.22.02.21


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ VĂN LÂN







Hà Nội, năm 2014

3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những nghiên cứu
nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung thực và chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 7 tháng 12 năm 2014

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Vũ Thị Hoài













4

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ tận
tình của các thầy cô giáo, bạn bè và người thân.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Lê Văn Lân - người đã
tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Văn học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội những người đã
tận tình giảng dạy, quan tâm tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu tại trường.
Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những
người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận
văn Thạc sĩ.

Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Vũ Thị Hoài









5
MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU 7
NỘI DUNG 22
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ THƠ LỤC BÁT VÀ THƠ
LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH - TỐ HỮU 22
1.1. Những vấn đề chung về thể thơ lục bát 22
1.1.1. Nguồn gốc và đặc tính chung 22
1.1.2. Tiến trình thể thơ 28
1.2. Khái lược về thơ lục bát của Nguyễn Bính và Tố Hữu 35
1.2.1. Cái nhìn khái quát về thơ lục bát Nguyễn Bính 35
1.2.2. Cái nhìn khái quát về thơ lục bát Tố Hữu 37
CHƢƠNG II: ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH VÀ TỐ HỮU
PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG 41
2.1. Tình yêu quê hương, đất nước 41
2.1.1. Truyền thống dân tộc 42
2.1.2 Cảnh sắc thiên nhiên 46
2.1.3. Niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai đất nước. 53
2.2. Tình yêu lứa đôi 57
2.2.1. Tình yêu chân phác, giản dị. 57
2.2.2.Tình yêu đậm chất thế sự 63
2.3. Tình yêu cách mạng 68
2.3.1. Hiện thực khốc liệt của chiến tranh 69
2.3.2. Hình ảnh những con người cách mạng 72

6
CHƢƠNG III: ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH VÀ TỐ HỮU
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 83
3.1. Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ 84
3.1.1. Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong thơ lục bát Nguyễn Bính 84
3.1.2.Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong thơ lục bát Tố Hữu 86
3.2. Ngôn ngữ 89

3.2.1. Ngôn ngữ trong thơ lục bát Nguyễn Bính 90
3.2.2. Ngôn ngữ trong thơ lục bát Tố Hữu 93
3.3. Giọng điệu 97
3.3.1.Giọng điệu trong thơ lục bát Nguyễn Bính 97
3.3.2.Giọng điệu thơ lục bát Tố Hữu 99
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO



7
PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ xưa tới nay thơ ca luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống
tinh thần của con người. Nó nảy sinh từ rất sớm, có thể là những bài niệm chú của thầy
mo, thầy cúng, là lời cầu nguyện tốt lành cho mùa màng bội thu, là bài hát trong cuộc
sống lao động vất vả của người nông dân, là lời đối đáp tình tứ của trai gái trao
duyên…Cho tới sau này, trong văn học viết, nó chính là những tác phẩm trữ tình - nơi
dung hòa và kết hợp tiếng nói của con tim, của trí tưởng tượng phong phú và chất thơ
của cuộc đời. Thơ gắn liền với chiều sâu tâm hồn, với thế giới nội tâm sâu kín của con
người. Thơ có lúc là tiếng nói của tình cảm “chảy tràn trên những dòng cảm xúc”. Lê
Quý Đôn cho rằng: “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”. Đuy Belay nhận xét: “Thơ
là người thư kí trung thành của trái tim”. M.Gorki thì cho rằng: “Thơ trước hết phải
mang tính chất tình cảm”. Đúng thế, nó là nơi mọi cung bậc cảm xúc của con người
được phát khởi: yêu, ghét, giận hờn, nhớ nhung, lo lắng, hờn trách, tủi giận, căm hờn,
say mê hay đau khổ… Thơ chính là nơi con người giãi bày, thể hiện cảm xúc, là nơi
con người khao khát và ước nguyện và cũng là nơi con người chiêm nghiệm, suy
ngẫm về cuộc đời. Thơ không chỉ nói lên tình cảm của riêng nhà thơ mà thông qua đó
nói lên niềm hi vọng của dân tộc, ước mơ của nhân dân, nhịp đập của trái tim quần
chúng và xu thế của lịch sử loài người như nhà thơ Sóng Hồng đã viết: “Thơ là sự thể

hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Tuy nhiên thơ không chỉ là tiếng nói
của tình cảm mãnh liệt mà có lúc thơ mang những hạt nhân lí tính, là tiếng nói của lí
trí. Chính vì thơ là sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa lí trí và tình cảm nên thơ cao quý và
tinh vi: “nó là một thông báo thẩm mĩ trong đó kết hợp 4 yếu tố: ý, tình, hình , nhạc”
(Mã Giang Lân).
Thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, “nó xuất hiện cách
đây khoảng hơn 500 năm, có vai trò đặc biệt qua trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu
sáng tác của nghệ sĩ cũng như nhu cầu thưởng thức của quần chúng nhân dân”. Được
hình thành từ điều kiện văn hóa dân tộc, vượt qua mọi khoảng cách của thời gian,
không gian, sự sàng lọc trong văn hóa- văn học, lục bát như thứ “vàng mười” vẫn tồn

8
tại để minh chứng cho sự bất diệt, trường tồn của mình. Nó biểu tượng cho tiếng Việt,
tâm hồn Việt, văn hóa Việt. Từ những câu ca dao ngọt ngào, tha thiết, mộc mạc cho
đến Truyện Kiều, đến các nhà thơ hiện đại và đương đại lục bát vẫn tồn tại và khẳng
định được vị trí của mình trong nền văn học luôn luôn vận động và biến đổi không
ngừng để phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó không chỉ là hồn của đất
nước, hơi thở của thời đại, bóng dáng của lịch sử mà sâu xa hơn nó chính là linh hồn
của con người, đời sống của người Việt. Nó lay động và cuốn hút con người bởi nó
chính là họ, là chính tâm hồn, hình bóng của họ.
Để thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người, đặc biệt trong cái nhìn “khó tính”
của người hiện đại, văn học nói chung, thơ ca nói riêng phải thay đổi cho kịp quá trình
vận động. Thơ lục bát tự mình đổi mới để hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức biểu
hiện. Vừa kế thừa truyền thống, vừa tiếp thu sáng tạo tinh hoa văn hóa Đông Tây. Thơ
lục bát mới mẻ bởi nó đan xen giữa cổ điển với hiện đại, giữa mộc mạc của dân gian
với uyên thâm của bác học, giữa say đắm của tình cảm với tỉnh táo của lí trí, trí tuệ. Vì
vậy nó không chỉ khẳng định được vị trí của mình trong cái bộn bề của các thể thơ
(một chữ, hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, thơ đường
luật, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ tự do,…) mà nó ngày càng độc đáo, hấp dẫn
và cuốn hút bạn đọc. Tuy nhiên việc làm thơ lục bát không phải là một công việc đơn

giản: “Lục bát là thể thơ ngỡ như dễ làm, ai cũng làm được nhưng để đạt tới hay thì
khó thay nếu không nói là khó nhất”. (Nguyễn Quang Sáng), khó hơn các thể loại thơ
khác vì nó là thể thơ nôm na, cổ truyền, đặc trưng Việt Nam. “Người Việt Nam vị
tình, thơ lục bát cũng vị tình”. Nó mộc mạc giản dị như cái chân chất trong lối sống,
nếp nghĩ của người nông dân. Vì vậy người làm thơ lục bát nếu dụng công quá, “khôn
chữ quá” thì không hay bởi nó thiếu tự nhiên, nó bị gò ép trong cái khuôn âm luật chật
hẹp nhưng đồng thời nếu dễ dãi quá nó cũng “dễ tuồn tuột trở thành một bài thơ
thường” (Đinh Nam Khương). Cho nên không phải ai cũng thành công, những người
đến với thể thơ này phải là những người thật sự có tài năng và bản lĩnh, những người
“có duyên”, những người “chịu ân huệ của đất trời”. Trong hàng triệu người làm thơ
mới có một vài người xuất sắc. Thành công với thể lục bát, ta có thể kể đến các tác giả
tiêu biểu trong suốt quá trình phát triển của văn học Việt Nam từ trung đại, cận đại cho

9
tới hiện đại và đương đại như: Nguyễn Du, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Tố
Hữu, Nguyễn Duy Và trong luận văn này, tôi tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về thơ
lục bát của hai nhà thơ: Nguyễn Bính và Tố Hữu-hai nhà thơ lớn đại diện cho hai
phong trào thơ lãng mạn và thơ cách mạng của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Bính được mệnh danh là “nhà thơ của đồng quê, chân quê và hồn quê”- một
trong những gương mặt tiêu biểu của dòng thơ lãng mạn, và Tố Hữu- nhà thơ của cách
mạng, sống và thuỷ chung son sắt với lý tưởng cách mạng . Nguyễn Bính lôi cuốn
người đọc không phải ở việc sử dụng ngôn ngữ thơ mới lạ, độc đáo, mà chính ở cái
“hồn”, cái chân quê, cái dân dã, mộc mạc. Tố Hữu đi sâu vào lòng người bởi tình yêu
dành cho quê hương, đất nước sâu nặng của người chiến sĩ cách mạng. Sự khác nhau
trong nghiệp văn của họ chính là do sự ảnh hưởng của hoàn cảnh. Hai ông sống trong
hai thời kì lịch sử khác nhau, có thể coi là nối tiếp nhau, đã chi phối đến nhận thức, tư
tưởng, quan điểm, điều đó được thể hiện rõ trong thơ của hai ông. Nguyễn Bính và Tố
Hữu đã trở thành hai hiện tượng lớn của nghệ thuật thơ ca thu hút được hầu hết các
nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hà Minh Đức,
Lê Đình Kỵ, Nguyễn Đăng Mạnh và các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Chế Lan Viên,

Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi Tuy xuất phát từ những yêu cầu mục đích
khác nhau, những khía cạnh nghiên cứu khác nhau thì những nhận xét, đánh giá của
các nhà nghiên cứu, phê bình đều có sự thống nhất với nhau và hoàn toàn có cơ sở
thực tế. Như bao dòng sông cùng chảy về biển cả, như bao người cùng giải một bài
toán và tìm về một đáp số…Song từ thực tế sáng tác của hai nhà thơ, việc khái quát
đặc điểm thơ lục bát, nhất là những đặc điểm có ý nghĩa phân biệt thơ lục bát Nguyễn
Bính với thơ lục bát Tố Hữu, và vai trò góp phần vào sự phát triển của thể lục bát cũng
như nền thơ ca dân tộc thì chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào.
Hơn thế nữa, hai tác giả này cũng như một số sáng tác của họ đều được đưa vào
chương trình giảng dạy trong các bậc học, đặc biệt là thơ lục bát với một số bài tiêu
biểu như: Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Khi con tu hú (Tố Hữu), Tương tư
(Nguyễn Bính)… Việc đưa các tác phẩm này vào trong nhà trường giảng dạy đã
chứng tỏ chúng có một giá trị nhất định.

10
Ở mặt lý luận thì vậy song ở trong thực tế ta cũng không thể phủ nhận, thơ lục
bát của hai nhà thơ đã đi vào trong cuộc sống hàng ngày của con người, với người
dân, nó “vô tình” mà trở thành những câu hát dân gian, đâu đó vào một trưa hay
một tối, một xóm nhỏ hay một ngõ nhỏ, làng quê hay ở khu phố, ta vẫn nghe thấy
tiếng bà ru cháu, tiếng chị nựng em,…– họ vẫn hát, vẫn ru, vẫn nựng bằng những
câu thơ, dòng thơ lục bát của hai nhà thơ này. Nhà thơ đã thả hồn mình, tâm mình,
lời mình vào nhân dân và cuộc sống, khắc sâu vào trong “ký ức văn hóa của đồng
bào”. Họ cũng như thơ họ sống mãi trong lòng người dân nước Việt và trên từng
mảnh đất của người Việt.
Vì tất cả những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Đặc điểm thơ lục
bát Nguyễn Bính và Tố Hữu” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Thơ lục bát là thể thơ thuần Việt, nó gần gũi và quen thuộc với người dân Việt.
Trở về với thể lục bát là trở về với cội nguồn, trở về với dòng trữ tình dân gian. Từ ca
dao đến Truyện Kiều của Nguyễn Du rồi đến thơ hiện đại với các tên tuổi: Tản Đà,

Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, …thơ lục
bát là mạch nguồn xuyên suốt thể hiện được tâm thức của dân tộc và thời đại. Việc
nghiên cứu thể thơ này là một công việc khoa học nghiêm túc, là chìa khóa để giải mã
dòng thơ mang âm hưởng dân gian. Từ trước tới nay có rất nhiều công trình nghiên
cứu về thể thơ này, các tác giả đề cập trên nhiều khía cạnh, nhiều góc độ, nhiều
phương diện: nguồn gốc, cấu trúc, chức năng, âm luật, thể tài,…
Về nguồn gốc của thể lục bát có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và đưa ra
nhiều ý kiến khác nhau.Ví dụ các công trình nghiên cứu của: Chu Xuân Diên, Phan
Diễm Phương, Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Xuân Đức,… Các nghiên cứu của họ đều
gặp nhau ở một điểm là: Lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, không
chịu ảnh hưởng của những yếu tố ngoại lai, nó xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ XV
trong văn học viết… Trong bài nghiên cứu của Chu Xuân Diên (Tục ngữ Việt Nam),
Nguyễn Xuân Đức (Đi tìm nguồn gốc thể loại lục bát Việt Nam)… cho rằng thể lục
bát có dấu vết của ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Trong nghiên cứu của Phan Thị Diễm

11
Phương (Ngọn nguồn của hai thể thơ dân tộc: Lục bát và song thất lục bát), Nguyễn
Thái Hòa (Tiếng Việt và thể lục bát) thì cho rằng tiếng Việt và văn hóa Việt là những
điều kiện hình thành nên hai thể thơ này.
Về vần, luật, ngôn ngữ, nhịp điệu, chức năng,…có hàng loạt các bài nghiên cứu
cho thể loại nói chung và cho các tác giả, tác phẩm nói riêng. Theo Nguyễn Xuân
Kính trong Thi pháp ca dao, có 95% ca dao được sáng tác theo thể lục bát, điều này đã
khẳng định được vị trí của nó trong nền văn học dân tộc. Nguyễn Xuân Đức tìm hiểu
“về thể lục bát trong ca dao” đã chỉ ra hiện tượng biến thể cấu trúc, về hiệp vần, về
phối thanh, về luật bằng trắc của lục bát. Tương tự, trong Những thế giới nghệ thuật ca
dao- tác giả Phan Thu Yến cũng nhấn mạnh ý nghĩa của thể lục bát trong các sáng tác
dân gian và sáng tác văn học viết.
Với công trình: Khảo sát một số đặc trưng ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại… tác
giả Hồ Văn Hải đã nghiên cứu thể thơ lục bát dưới góc độ của chuyên ngành ngôn
ngữ. Quan điểm của ông cho thơ lục bát có một phẩm chất thẩm mĩ đặc biệt, kết tinh

tinh hoa văn hóa- ngôn ngữ dân tộc. Nó thể hiện cảm thức cộng đồng ở mọi thời đại.
Vì thế nó đồng hành với tiến trình phát triển văn hóa xã hội. Nó bền bỉ và sâu lắng.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn
luận án có bàn đến thể thơ này như : Thơ ca Việt Nam- Hình thức và thể loại (Bùi Văn
Nguyên, Hà Minh Đức), Về sự đổi mới của thể thơ lục bát (Nguyễn Huy Thông), Thơ
1975-1995-sự biến đổi của thể loại (Vũ Văn Sĩ),…
Lục bát là thể thơ quen thuộc với nhiều thi sĩ cũng như độc giả Việt. Việc
nghiên cứu về thể thơ này là tiền đề, cơ sở cho người viết luận văn tìm hiểu, nghiên
cứu, so sánh để thấy sự kế thừa, cách tân, đóng góp của mỗi tác giả cũng như tiến trình
phát triển của thể lục bát trong đời sống văn học.
2.1.Lịch sử nghiên cứu thơ lục bát Nguyễn Bính
Nguyễn Bính- một trong những tài năng của thơ lục bát Việt Nam hiện đại.
Ông sáng tác cả trước và sau Cách mạng tháng Tám – 1945 với hồn thơ luôn gắn bó
với con người, quê hương và cuộc đời. Tuy nhiên người đọc biết tới Nguyễn Bính “chỉ
thật riêng một góc trời ở những bài thơ đầu với một mảng thơ đất quê” – một gương

12
mặt mang niềm tự hào của thơ Mới. Ông xuất hiện trên thi đàn với một giọng điệu
riêng biệt, một phong cách độc đáo, chiếm được đông đảo trái tim người đọc. Đến với
thơ Nguyễn Bính là đến với những giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc. Ông đã sử
dụng thể thơ lục bát thuần Việt vào trong những tác phẩm đặc sắc về làng quê, cảnh
quê, tình quê và hồn quê như một điều tất yếu.
Giữa làng Thơ mới lãng mạn, Nguyễn Bính hiển hiện với một sức viết xứng
danh “kiện tướng”: “Mười năm với trên một ngàn bài thơ”. Thơ Nguyễn Bính nói
chung và thơ lục bát Nguyễn Bính nói riêng là biểu hiện của cái tôi trữ tình đa cảm,
của tình yêu chân phác, đậm chất thế sự và cảm hứng quê hương, đất nước. Nhưng
đương thời thơ Nguyễn Bính chưa được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm, giới
thiệu, cho đến khi Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh ra đời, thì thơ Nguyễn Bính
được đánh giá một cách chừng mực một Nguyễn Bính “chân quê”: “Cái đẹp kín đáo
của những vần thơ Nguyễn Bính” chính là ở “cái điều quý giá vô ngần: “Hồn đất

nước”… “Nguyễn Bính đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng
thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của
dân quê là những tính tình căn bản của ta”[29, 25]. Và sau đó, Vũ Ngọc Phan trong
Nhà văn hiện đại cũng lại nhắc đến thứ “tình quê ” ấy. Từ những năm 80 của thế kỷ
XX đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi sự đổi mới một cách toàn diện mọi
mặt của văn học nghệ thuật nói chung và nghiên cứu phê bình văn học nói riêng,
Nguyễn Bính đã được trở về đúng vị trí của mình trên thi đàn văn học nhân loại. Các
công trình nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà phê bình văn học, của thế hệ học
viên, sinh viên về thơ Nguyễn Bính, ta nhận thấy những cách nhìn mới mẻ, toàn diện
và khách quan.
Hai mươi năm sau ngày Nguyễn Bính mất, tháng 1-1986 Tuyển tập Nguyễn
Bính, do Nhà xuất bản Văn học cùng Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh xuất bản.
Thơ Nguyễn Bính được giới thiệu với bạn đọc và ngày càng thu hút nhiều độc giả. Họ
tìm đến thơ ông không phải để buông xuôi hay lãng quên mà đi đến chiều sâu của
“tâm hồn Việt Nam, tinh hoa của tiếng nói Việt Nam bất tử”.
Tô Hoài trong lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính đã nhận thấy một hiện
tượng thơ độc đáo: “Chỉ có quê hương mới tạo được từng chữ, từng câu Nguyễn

13
Bính” [12,72].“Quê hương là tất cả và cũng là nơi in đậm dấu vết của cuộc đời
mình[12,73].“Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước, sau, và mãi mãi Nguyễn
Bính vốn là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê”[12,76] Ông “nhẩn nha” nói về
mọi thứ xung quanh mình với một nét riêng biệt, ông cho ra đời những bài thơ hay
chưa bao giờ thấy mà lại như sẵn đâu trong tâm hồn thơ dân tộc. “Thơ Nguyễn Bính là
một nhành hoa trong trào lưu cách tân thơ. Và cùng với Nguyễn Bính xuất hiện một
trường thơ, một phái thơ”.[12,76]
Ở công trình nghiên cứu Nguyễn Bính-thi sĩ của đồng quê, GS. Hà Minh Đức
đã có những khai thác, phân tích rất sắc sảo. Về “hình ảnh-quê hương và con người”
trong thơ Nguyễn Bính, giáo sư khẳng định: “Nguyễn Bính đã gắn bó sâu sắc với làng
quê tình quê qua những trang thơ. Có thể nói trong thi ca thời kỳ hiện đại Nguyễn

Bính là người có công hơn cả trên mảng thơ viết về làng quê. Ông đã khơi gợi ở mỗi
người độc tình cảm quê hương”[36,33]. Ông nhấn mạnh cái “hồn quê” thấm đượm
trong mỗi cảnh vật, con người làng quê. Trong thế giới nghệ thuật, tác giả nhấn mạnh
cái hồn quê và tình quê trong sáng, đậm đà của nhà thơ nghèo Nguyễn Bính. GS
chứng minh: “Hồn thơ Nguyễn Bính đã tìm đến và trở về với ca dao và sâu xa hơn là
trở về với cội nguồn dân tộc đã hàng ngàn năm ấp ủ ở làng quê”[36,34].Và cuối cùng,
công trình nghiên cứu này đã chỉ ra được cái bút pháp và giọng điệu thơ ca khá đa
dạng của Nguyễn Bính: “Trang thơ của Nguyễn Bính có một dòng viết về làng quê
giàu chất dân gian và một dòng trữ tình nhiều tâm trạng trăn trở mà có màu sắc hiện
đại”. Bởi vì: “Ở Nguyễn Bính dường như có hai con người, con người của đồng quê
và con người thi sĩ giang hồ đắm đuối với sự nghiệp. Hai con người đó tạo nên hai
“cái tôi” trữ tình trong thơ”.[36,42]
Dưới góc độ thi pháp học TS. Đoàn Thị Đặng Hương đưa ra nhận xét, đánh giá
về những sáng tạo cơ bản của Nguyễn Bính, những cách tân nghệ thuật và vị trí của
thơ trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại: “Ông là nhà thơ đầu tiên trên thi đàn thơ hiện
đại của thế kỷ này đã dùng hình thức của thơ ca dân gian … để chuyển tải nội dung
thẩm mỹ của Thơ mới…”.[36,73]
Cũng từ những thập kỷ 80 tới nay, thơ Nguyễn Bính được đưa vào giới thiệu
trong các trường trung học phổ thông và chuyên nghiệp với tư cách là một tác giả tiêu

14
biểu của phong trào Thơ mới. Bằng độ nhạy cảm và tinh sắc của mình, GS.TS Mã
Giang Lân đã có những đánh giá và phát hiện đầy mới mẻ. Nếu như những sáng tác
trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Bính được tác giả nhận xét: “Bản sắc dân
tộc trong thơ Nguyễn Bính rất đậm, rất rõ từ nội dung đến hình thức. Tâm hồn dân
tộc, giọng điệu dân tộc là chất men để thấm sâu vào trí nhớ người đọc” …Ông lại có
sở trường về lục bát và đưa thêm vào lục bát cổ truyền cái bản sắc của Thơ mới” thì
sau cách mạng “cuộc sống đã đến bước ngoặt quan trọng. Nguyễn Bính nhập vào
dòng thác cách mạng và kháng chiến. Ông viết nhiều tác phẩm kịp thời ca ngợi cuộc
chiến đấu và sự nghiệp xây dựng của nhân dân ta”[9,175]. Với những phát hiện sâu xa

ấy, tác giả phê bình dường như đã trở thành người đồng sáng tạo cùng với thi sĩ và
cũng chính là điều kiện làm cho thơ Nguyễn Bính đẹp lên gấp nhiều lần trong lòng độc
giả nhiều thế hệ.
Có thể nói có rất nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên cứu, các luận văn, luận
án nói về hiện tượng Nguyễn Bính như đã nói ở trên. Và gần đây nhất là luận văn Đặc
điểm thơ lục bát Nguyễn Bính của học viên cao học Trần Văn Trọng, chuyên ngành Lí
luận văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Trong luận văn của mình, tác giả khẳng định thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ lục
bát Nguyễn Bính nói riêng đã thực sự có được vị thế quan trọng trong sự phát triển
của thơ ca dân tộc. Luận văn đi sâu vào những đặc điểm nổi bật về nội dung cũng như
nghệ thuật thơ lục bát Nguyễn Bính để chứng tỏ rằng : bên cạnh việc tiếp nối truyền
thống, ông đã có những cách tân, sáng tạo để hướng tới “hồn xưa của đất nước” và
chuyển tải những tình ý của xã hội đương thời.
Trở về với hệ thống các công trình nghiên cứu nói trên ta có thể nhận thấy :
Không có sự đối lập giữa các quan niệm, sự nhìn nhận và đánh giá dưới các góc
độ và phương diện khác nhau khi tiếp cận với thành tựu sáng tác của tác giả. Khi đi sâu
vào đánh giá và nghiên cứu thơ ông, ta không thấy có hiện tượng “người khen-khen hết
lời, người chê-chê không thương tiếc” trong đội ngũ độc giả và giới nghiên cứu.
Phần lớn các ý kiến đều khẳng định đặc sắc làm nên phong cách thơ Nguyễn
Bính chính là ở bản sắc dân tộc ngưng đọng, ở chỗ thi sĩ đã lột tả được cái “hồn quê”

15
mà theo Hoài Thanh đã nói đó là chất “quê mùa” trong phẩm chất thơ ông. Ông đã viết
rất nhiều thể loại thơ, trong đó thể lục bát được ông viết nhiều nhất và thành công hơn
cả. Ông đã phổ hồn dân tộc vào một thể thơ đặc biệt cổ truyền của dân tộc. Bằng cái
nhìn khách quan và toàn diện, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra được sự song hành
của hai trạng thái tình cảm tồn tại trong tâm hồn thi sĩ để làm nên hai “cái tôi” trữ tình
trong thơ: “cái tôi của thi sĩ đồng quê” và cái tôi của thi sĩ tiểu tư sản mang nỗi “sầu đô
thị” và “bi kịch tha hương”…đồng thời nổi bật trong thơ ông là một tình yêu chân
phác, đậm chất thế sự và một cảm hứng về quê hương, đất nước.

Và cuối cùng ta nhận thấy trong thế giới nghệ thuật thơ lục bát Nguyễn Bính
mang một màu sắc riêng. Một thế giới vừa mang đậm nét chung của ca dao, dân ca
vừa có cá tính sáng tạo. Nó được nảy nở, sinh thành trên cái nền của nghệ thuật truyền
thống. Sự hòa hợp giữa hồn quê hương của khúc ca dao cùng với ý tưởng và tình cảm
của cuộc đời mới được chắp cánh trong những vần thơ hiện đại khiến cho không chỉ
sống dậy vẻ đẹp và bản sắc thơ dân tộc mà còn biểu hiện được những tình ý mới mẻ
của xã hội đương thời. Có thể nói riêng ở thể thơ lục bát hiện đại, với những sáng tạo
độc đáo của mình, Nguyễn Bính đã mang đến cho thơ Việt Nam hiện đại một dáng vẻ
mới, một sinh lực mới và một sự đa dạng mới. “Nguyễn Bính đã trở thành một nhành
hoa trong vườn hoa cách tân của Thơ mới lãng mạn”. Thành tựu ấy đã khẳng định vị
thế của một cây bút, một khuynh hướng và một phong trào thơ ca đã từng in dấu một
thời đại - thơ Việt Nam thế kỷ XX.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ lục bát Tố Hữu
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho dòng thơ cách mạng. thơ trữ tình chính trị của
văn học Việt Nam thế kỷ XX. Là một trong số ít những nhà thơ đi sâu vào trái tim quần
chúng . Ông chinh phục trái tim họ không phải ở khối lượng tác phẩm lớn mà bằng
“những năm tháng gắn bó với mọi người, bằng lẽ sống đẹp và đã nói hộ quần chúng
khát vọng sâu xa của họ bằng chính nhịp đập của trái tim nghệ sĩ”. Nhưng tất cả chỉ
thực sự có ý nghĩa khi nhà thơ có đủ bản lĩnh nghệ thuật để chuyển tải “một hình thức
đẹp và gần gũi với mọi người”. Đó là việc nhà thơ đã sử dụng thể thơ được coi là linh
hồn, là mạch máu, là hơi thở của dân tộc-thể lục bát.

16
Khi tìm hiểu về Tố Hữu, ta cũng nhận thấy thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có
những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử như thơ ông.
Tình yêu lý tưởng, yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào
những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng, là
người mở đường cho nền thơ cách mạng Việt Nam hiện đại. Nội dung ấy được biểu
lộ vừa thầm kín và tinh tế, vừa sâu sắc và đậm đà qua 7 tập thơ nổi tiếng của Tố Hữu.
Nếu như Từ ấy là “tiếng hát say mê, sôi nổi của một tâm hồn trong trẻo, giàu yêu

thương, một tiếng hát hồn nhiên chân thật nhưng không kém phần hùng tráng” thì Việt
Bắc và Gió lộng là tiếng hát ân tình thủy chung trong kháng chiến, là nhịp điệu sôi
nổi trong lao động xây dựng lại đất nước với một khát vọng, một ý chí: “Giũ sạch cô
đơn riêng lẻ bần cùng”. Tiếp đến là những ngày kêu gọi, cổ vũ cuộc kháng chiến hào
hùng trong Ra trận, Máu và Hoa. Và cuối cùng khi gần hết cuộc đời, thơ ông là sự
chiêm nghiệm, suy tư, trầm lắng trong Một tiếng đờn, Ta với Ta. Có thể nói, cho dù
là sáng tác trước hay sau cách mạng thì thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lý
tưởng và con đường cách mạng.
Tóm lại, cả cuộc đời của ông là sự cống hiến hết mình, không mệt mỏi cho
nền văn học dân tộc. Thơ ông đi sâu vào lòng độc giả nhưng cũng đồng thời thu hút
được sự chú ý, quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Nghiên cứu thơ Tố Hữu
có nhiều công trình trong các giáo trình đại học, chuyên luận, tạp chí, luận văn,
luận án…
Xuất hiện cuối vào thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, thơ Tố Hữu được
đăng trên các tờ báo cách mạng. Bài viết đầu tiên giới thiệu thơ Tố Hữu là bài Tố
Hữu - nhà thơ của tương lai của K và T, được đăng trên báo Mới số 1(ngày
1/5/1939). Với tư cách là một người yêu thơ Tố Hữu, tác giả “giới thiệu Tố Hữu với
bạn đọc để yêu Tố Hữu như tôi. Vì Tố Hữu không phải là nhà thơ riêng của tôi, mà
là nhà thơ của tất cả thanh niên, nhà thơ của tương lai”[15,169]. K và T đã trích dẫn
và bình luận những câu thơ, đoạn thơ của Tố Hữu để khẳng định: “ Tố Hữu là một
chàng thanh niên của tương lai… Chàng đeo đuổi một lý tưởng. Thơ chàng là cả
một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lý tưởng”[15,172]. Kết thúc bài báo tác giả
khẳng định Tố Hữu là “nhà thơ cách mệnh có tài lần đầu tiên trong lịch sử văn hóa

17
ta. Cuộc chiến đấu đã làm dày dạn tâm hồn anh, đã đem lại kinh nghiệm cho anh, sẽ
hiến cho anh những khí giới mới”[15,174]. Và theo tôi, khí giới ấy chính là tư tưởng
mà Tố Hữu hun đúc qua những năm tháng chiến tranh và đời người.
Tiếp sau đó có rất nhiều công trình nghiên cứu nhưng có thể xem công trình
nghiên cứu đầu tiên đánh giá bao quát được nhiều mặt thơ Tố Hữu đặc biệt là phong

cách nghệ thuật thơ ông, phải kể đến Chế Lan Viên trong lời giới thiệu in ở đầu
quyển Thơ Tố Hữu(1963).
Tiếp theo, từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, thơ Tố Hữu đã được xem
xét ở nhiều phương diện quan niệm nghệ thuật, con đường thơ, hình tượng, phong
cách, bút pháp và thi pháp…Những công trình chuyên khảo được coi là dày dặn về
thơ Tố Hữu là cuốn Thơ Tố Hữu của GS. Lê Đình Kỵ (Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, 1979), Thơ Tố Hữu- tiếng nói đồng chí, đồng tình của GS.TS
Nguyễn Văn Hạnh (Nxb Thuận Hóa, 1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của GS. Trần
Đình Sử( Nxb Tác phẩm mới, 1987).
Thơ Tố Hữu của GS.Lê Đình Kỵ (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
1979) là chuyên luận nổi bật nghiên cứu về thơ lục bát của Tố Hữu. Chuyên luận
được xây dựng trên ba phần, mỗi phần mang một nội dung khác nhau. Phần một giới
thiệu quá trình sáng tác của Tố Hữu qua các giai đoạn. Phần hai tập trung ở nội dung
tư tưởng, nội dung hiện thực của các tác phẩm. Phần ba đề cập những vấn đề về
phong cách nghệ thuật thơ lục bát của Tố Hữu qua bút pháp và phong cách biểu hiện,
đi vào tìm hiểu những mặt mạnh trong phong cách thơ cũng như các giai đoạn sáng
tác khác nhau.
Thi pháp thơ Tố Hữu của GS.Trần Đình Sử - Đây có thể được coi là tư liệu quý
giá để tham khảo về thơ lục bát Tố Hữu. Trong chuyên luận, ông đề cập tới hai vấn đề
chính: Quan niệm của Tố Hữu về văn học nghệ thuật và con đường thơ Tố Hữu. Phần
hai đi sâu nghiên cứu tác phẩm, tác giả đề cập bốn vấn đề chính: Tố Hữu- người mở
đầu cho nền thơ cách mạng Việt Nam hiện đại, Tố Hữu- nhà thơ của tình thương mến,
Tố Hữu - nhà thơ của lẽ sống lớn, thời đại lớn và Tố Hữu - nhà thơ của tương lai. Ở
đây, Trần Đình Sử đã chỉ ra được sự cộng sinh giữa tính dân tộc truyền thống và quá

18
trình hiện đại hóa văn học, những đóng góp trong ngôn ngữ, thể tài và sự nghiệp thơ
cách mạng Việt Nam.
Tố Hữu- về tác gia và tác phẩm do PGS.TS Mai Hương và nhà nghiên cứu
Phong Lan biên soạn (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002) là cuốn sách được coi là tư liệu

chọn lọc những bài viết, những công trình nghiên cứu về Tố Hữu. Từ đó có thể có
được một cái nhìn cụ thể và đa dạng về giá trị tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị nghệ
thuật trong các tác phẩm của ông. Đây cũng được coi là nguồn tư liệu quý khi nghiên
cứu thơ lục bát của Tố Hữu.
Tố Hữu-cách mạng và thơ (Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2004)- công trình
của GS. Hà Minh Đức đã tập hợp những bài viết của tác giả về nhà thơ khoảng hai
mươi năm qua, là những cuộc trò chuyện, ghi chép về thơ giữa tác giả và nhà thơ, là
sự đánh giá, bình luận, cảm nhận về thơ Tố Hữu qua các chặng đường thơ cũng như
chặng đường hoạt động cách mạng.
Ngoài một số công trình tiêu biểu trên, ta có thể kể đến các bài viết, luận văn
về Tố Hữu và thơ lục bát của ông như:
- Phong vị dân ca ca dao trong thơ Tố Hữu, Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Văn
học, 1968, số 11(tháng 11 năm 1968).
- Nhạc điệu thơ Tố Hữu, Nguyễn Trung Thu, Tạp chí Văn học, 1968, số 6
(tháng 6 năm 1968).
- Tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Báo
Nhân dân, ngày 15/5/1968.
- Tính dân tộc hiện đại của ngôn từ thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử, Báo Văn nghệ,
ngày 7/9/1985.
-Nhịp trong thơ lục bát của Tố Hữu, Phạm Minh Thúy, Luận văn Cao học khóa
5, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1982.
Cũng như Nguyễn Bính, Tố Hữu làm thơ theo nhiều thể nhưng điển hình nhất
trong sáng tác của ông là thể lục bát. Thơ lục bát của Tố Hữu vẫn giản dị nhưng mang
một bản sắc riêng, một nét không thể lẫn với các nhà thơ khác, bởi nó xuất phát từ

19
trong tình yêu, trong lao động, trong chiến đấu hi sinh…Nếu như Nguyễn Bính phổ
cái hồn dân tộc vào làng quê một thứ tình quê thì bao trùm tất cả trong thơ lục bát Tố
Hữu là tấm lòng tha thiết của nhà thơ với cách mạng, với quê hương đất nước- tình
cảm hòa với dòng thác cách mạng, tình cảm lớn lao, rộng lớn, không riêng tư, cá nhân.

Cũng chính vì thế cái tôi trong thơ Tố Hữu không có màu sắc rơi rớt của cái tôi tiểu tư
sản mà ban đầu là cái tôi chiến sĩ về sau cái tôi hòa nhập với cái ta chung của cuộc
sống cách mạng, cái tôi vừa sôi nổi tràn đầy nhiệt huyết, vừa lặng thầm, vừa suy tư
chiêm nghiệm, cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc.
Trong cội nguồn văn hóa của dân tộc, Tố Hữu chắt lọc được tinh hoa của thơ ca
cổ điển và dân gian đồng thời sáng tạo sao cho phù hợp với khẩu vị của quần chúng
cách mạng. Thơ lục bát Tố Hữu trở về với cách nói gần gũi, chân thành của thơ truyền
thống. Với giọng điệu thơ đằm thắm, thiết tha mang hồn quê hương, đất nước Tố Hữu
là một trong những người làm thơ lục bát hay nhất ở giai đoạn sau cách mạng. Không
trăn trở để đổi mới cấu trúc, thơ lục bát Tố Hữu gần với mạch thơ của ca dao, của
Truyện Kiều nhưng hài hòa với đề tài cách mạng. Tố Hữu “tắm đẫm các ý tình cách
mạng hiện đại trong những hình thức tư duy cổ truyền thấm thía, đậm đà”.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
3.1. Mục đích
Về mặt lí luận: Nghiên cứu thơ lục bát của Nguyễn Bính và Tố Hữu nhằm chỉ
ra những đặc sắc về nội dung cũng như về nghệ thuật trong những bài thơ lục bát của
hai nhà thơ qua những tập thơ, những giai đoạn thơ. Từ đó cho thấy phong cách riêng
của mỗi nhà thơ, mối quan hệ giữa thơ lục bát của hai nhà thơ đồng thời ta thấy được
quá trình vận động và biến đổi của thể thơ dân tộc trong tiến trình thể loại.
Về mặt thực tiễn: Giúp cho người đọc hiểu được những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Từ đó họ biết trân trọng, bảo tồn, giữ gìn và phát huy vốn
văn hóa đó.



20
3.2.Nhiệm vụ
-Khái quát những vấn đề lí luận chung về thơ lục bát
-Khảo sát phân tích tác phẩm
-Đi sâu tìm hiểu chi tiết về đặc điểm, thành tựu trong thơ lục bát của hai nhà thơ trong

mối quan hệ và tiến trình thể loại.
4.PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong quá trình làm đề tài này chúng tôi dựa vào các tập:
- Tuyển tập Tố Hữu- Thơ. NXBGD, H, 1994. Lời giới thiệu của Hà Minh Đức
- Ta với ta. NXBVH, H, 2000. Tố Hữu.
- Tuyển tập Nguyễn Bính. NXBVH, H, 1986. Vũ Quốc Ái, Quang Huy, Đỗ Đình Thọ,
Kim Ngọc Diệu sưu tầm và tuyển chọn.
Do giới hạn đề tài, luận văn chỉ nghiên cứu các bài thơ lục bát của Nguyễn
Bính và Tố Hữu.
5.PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp:
-So sánh, đối chiếu: Luận văn luôn đặt đối tượng nghiên cứu trong sự so sánh
với ca dao và thơ lục bát của hai nhà thơ để chỉ ra đặc điểm của hai nhà thơ đồng thời
thấy được sự tương đồng cũng như dị biệt qua những sáng tác, từ đó nổi bật phong
cách nhà thơ.
-Thống kê, phân loại: Đây là thao tác có tầm quan trọng trong việc hình thành
những nhận định, đánh giá chính xác, khoa học. Tôi thống kê và phân loại đối tượng
theo hai tiêu chí lớn: những nguồn cảm hứng và đặc điểm nghệ thuật nổi bật. do đó nội
dung trọng tâm của luận văn cũng bao gồm hai chương trên.
-Phân tích tác phẩm: Là phương pháp được sử dụng trong suốt quá trình nghiên
cứu. Thông qua các dẫn chứng rồi lập luận, phân tích, chứng minh và cuối cùng người
viết đánh giá, tổng hợp để làm sáng tỏ vấn đề.

21
6.CẤU TRÚC LUẬN VĂN
-Phần mở đầu
-Phần nội dung
Chương I: Những vấn đề chung về thể thơ lục bát và thơ lục bát Nguyễn Bính-Tố Hữu
Chương II: Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính-Tố Hữu, phương diện nội dung.
Chương III: Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính-Tố Hữu, phương diện nghệ thuật.

-Phần kết luận
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Chỉ ra được những giá trị về nội dung và nghệ thuật, khẳng định những đặc
sắc thẩm mĩ trong thơ lục bát hai tác giả. Đồng thời làm nổi bật những đóng góp,
cống hiến của họ đối với lịch sử văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi chỉ ra
điểm tương đồng và dị biệt trong thơ lục bát của hai nhà thơ để làm nổi bật phong
cách tác giả.













22
NỘI DUNG
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ THƠ LỤC BÁT
VÀ THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH - TỐ HỮU

1.1. Những vấn đề chung về thể thơ lục bát
1.1.1. Nguồn gốc và đặc tính chung
1.1.1.1. Nguồn gốc
Trong nền thơ ca dân tộc có sự đóng góp không nhỏ của một thể thơ được coi là

kết tinh của tâm hồn Việt. Đó chính là thể thơ lục bát. Ngay từ khi mới xuất hiện hay
tồn tại lâu bền trong đời sống văn học thì thể thơ này luôn có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu sáng tác của người nghệ sĩ cũng như nhu cầu
thưởng thức của độc giả. Lục bát là thể thơ dân tộc được hình thành trên những điều
kiện cụ thể là tiếng Việt và văn hóa Việt, trong mối quan hệ rất mật thiết với văn vần
dân gian của dân tộc Việt. Từ xa xưa đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, học giả, nhà biên
khảo đã đặt ra câu hỏi lục bát là thể thơ hoàn toàn thuần Việt hay là thể thơ ngoại lai
vay mượn từ Trung Hoa? Có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và đưa ra những ý
kiến khác nhau về nguốn gốc của thể thơ này.
Cách đây khoảng 120 năm, có một người rất yêu thơ lục bát, muốn được biết về
phát tích của nó, là nhà thơ Phạm Đình Toái đã từng than thở: “Không biết thể này bắt
đầu từ đời nào, được người nào xướng xuất”. Trải qua quá tìm tòi và bàn luận, các
nhà nghiên cứu đã thống nhất: Lục bát- cái thể thơ thanh thoát và uyển chuyển ấy, có
mặt lần đầu tiên trong thơ ca thành văn vào khoảng những năm cuối thế kỷ XV và
những năm đầu thế kỷ XVI với tác phẩm đầu tiên Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả
đào của Lê Đức Mao.
Đến thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng lục bát là thể thơ của người
Việt. Dương Quảng Hàm nhận định: Lục bát là “lối văn riêng của ta mà Tàu không
có”, hay Phan Diễm Phương trong công trình nghiên cứu của mình Ngọn nguồn của
hai thể thơ lục bát và song thất cùng đã khẳng định: “Chính người Việt đã dày công
trong việc tìm kiếm, lựa chọn trong suy nghĩ và vận dụng trong suốt nhiều thế kỷ để

23
đưa hai thể thơ từ chỗ còn lỏng lẻo, xô bồ, đến chỗ ngay ngắn, hoàn chỉnh, trở thành
những phương thức biểu đạt hoàn mĩ không phải chỉ cho một giai đoạn thơ ca nhất
định mà cho nhiều nền thơ ca nối tiếp nhau của dân tộc Việt…” [37,667] đồng thời tác
giả cũng nhận thấy: “Trên thực tế chưa ai tìm thấy ở Trung Hoa những bài thơ như
thế”- những bài thơ mang âm luật trầm bổng của tiếng Việt.
Sự thống nhất ở các nhà nghiên cứu đều cho rằng thể lục bát chính là thể thơ
thuần Việt, thể thơ của dân tộc Việt. Tuy nhiên đi sâu tìm hiểu các nghiên cứu, ta lại

thấy hai hướng tiếp cận chủ yếu về nguồn gốc thể loại:
Thứ nhất lục bát có dấu vết của tục ngữ, ca dao tức là có ngọn nguồn của văn
học dân gian, qua các công trình nghiên cứu: Nguyễn Xuân Đức trong Đi tìm nguồn
gốc thể loại lục bát Việt Nam - Tạp chí văn học số 6-2004, Chu Xuân Diên trong Tục
ngữ Việt Nam,…
Theo hướng nghiên cứu thứ hai, Phan Diễm Phương trong Ngọn nguồn của
hai thể thơ dân tộc: Lục bát và song thất lục bát – Tạp chí Văn nghệ Quân đội,
tháng 12 – 2000, tác giả cho rằng: “Tiếng Việt và văn hóa Việt là những điều kiện
nội tại cho sự hình thành hai thể thơ”. Trong bài viết Tiếng Việt và thể lục bát -
Tạp chí Văn học số 2- năm 1999, Nguyễn Thái Hòa cũng có ý kiến tương đồng.
Tác giả cha rằng thơ lục bát không phải xuất phát từ dân ca, thành ngữ, tục ngữ mà
chính từ đặc trưng của tiếng Việt.
Tóm lại, về nguồn gốc ra đời của thể lục bát có nhiều hướng nghiên cứu, đánh
giá, nhận định khác nhau nhưng đều đi đến một câu trả lời thống nhất cho vấn đề này.
Lục bát là thể thơ cổ truyền của dân tộc Việt Nam, được đưa vào văn học viết từ thế
kỷ XV, được hình thành từ chính đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt và “xu hướng thẩm
mỹ mang tính chất tâm lí xã hội riêng của dân tộc mình trong việc xây dựng âm luật
thơ ca, nhất là sở thích sử dụng vần và nhịp”[37,663], được ghi chép lưu truyền lại và
phát triển trong những giai đoạn tiếp theo trong quá trình văn học phù hợp với thẩm
mĩ của thời đại và độc giả.


24
1.1.1.2. Đặc tính chung
Thơ lục bát xuất phát từ văn học dân gian phát triển lên mà hình thành, “một thể
thơ cách luật thuần túy của thơ tiếng Việt, đơn vị cơ bản là một cặp gồm hai câu, một
câu lục sáu tiếng và một câu bát tám tiếng, số câu của bài thơ làm theo thể này là
không hạn định: có thể gồm hai câu như ca dao cổ truyền, có thể gồm hàng ngàn câu
như các truyện thơ Nôm và các diễn ca lịch sử.
Thể lục bát gồm cả vần lưng lãn vần chân: tiếng thứ sáu của câu lục hiệp vần

với tiếng thứ sáu của câu bát (vần lưng), tiếng thứ tám của câu bát này hiệp vần với
tiếng thứ sáu của câu lục tiếp theo (vần chân) ”.[1,265]
Các thể thức chủ yếu của thơ lục bát:
-Về niêm, vần, luật
Tiếng Việt đa âm điệu bởi có tới 6 thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng, huyền, thanh
ngang (không) được chia thành 2 nhóm chính: bằng và trắc. Niêm, vần, luật của lục
bát được tóm tắt theo bảng sau theo hình mẫu của các tác phẩm lục bát cổ điển:

1
2
3
4
5
6
7
8
Câu lục
-
B
-
T
-
B
Vần(bằng)


-


B

vần(bổng/trầm)
Câu bát
-
B
-
T
-
B
vần(trầm/bổng)
Trong đó: -: tự do (có thể là bằng hoặc trắc)
T: thanh trắc
B: thanh bằng
- Về phối thanh
Các tiếng lẻ 1, 3, 5, 7 được tự do. Các tiếng chẵn: 2, 6 thanh bằng đối nhau qua
thanh trắc (4).Ở câu bát có thêm một nhịp bằng nhưng tiếng thứ 6 và tiếng thứ 8 đối

25
nhau về âm vực trầm bổng. Sự đối lập này (đối lập trầm - thanh huyền/ bổng -thanh
ngang) là một nguyên tắc đặc trưng của thi luật dân tộc. Từ luật phối thanh ở trên,
trong một cặp lục bát tiếng chẵn phải niêm với nhau.
Ví dụ trong ca dao:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Hay trong văn học viết:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương tư – Nguyễn Bính)

-Về nhịp
Trong thơ nhịp điệu mang tính đặc thù tùy theo dòng cảm xúc, thông thường là
nhịp chẵn, mỗi nhịp 2 tiếng, chủ yếu là nhịp 2.
Ví dụ:
Có rửa/ thì rửa/ chân tay
Chở rửa/ lông mày/ chết cá/ ao anh.
(Ca dao)
Mình về/ mình có/ nhớ ta
Ta về/ ta nhớ/ những hoa/ cùng người.
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Đôi khi, có thể gặp lối ngắt nhịp lẻ, mỗi nhịp ba tiếng. Hoặc cũng có thể ngắt
nhịp xen kẽ chẵn/ lẻ( 1, 2, 3, 4…) tùy theo nội dung cảm xúc, ví dụ:

×