Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Khảo sát sự nghiệp dịch thuật và trước tác của Tùng Vân - Nguyễn Đôn Phục trên Nam phong tạp chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.81 KB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐỖ THỊ LAN




KHẢO SÁT SỰ NGHIỆP DỊCH THUẬT VÀ
TRƢỚC TÁC CỦA TÙNG VÂN – NGUYỄN ĐÔN
PHỤC TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


















Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐỖ THỊ LAN



KHẢO SÁT SỰ NGHIỆP DỊCH THUẬT VÀ
TRƢỚC TÁC CỦA TÙNG VÂN – NGUYỄN ĐÔN
PHỤC TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Trần Ngọc Vƣơng










Hà Nội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này đƣợc hoàn hành tại khoa Văn học trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, dƣới sự hƣớng dẫn
khoa học của GS.TS Trần Ngọc Vƣơng.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến các thầy cô khoa Văn học
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội, đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong suốt
quá trình học tập, hoàn thành luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn tới thầy giáo hƣớng dẫn – GS.TS Trần Ngọc Vƣơng, đã tận tình hƣớng
dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn



Đỗ Thị Lan






1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Mục tiêu nghiên cứu 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6
7. Giới thiệu luận văn 6
CHƢƠNG I: ĐỘI NGŨ TÁC GIẢ TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ
VÀ ĐÔI NÉT VỀ TÙNG VÂN NGUYỄN ĐÔN PHỤC 8
1.Đôi nét về Nam Phong tạp chí 1917 – 1934. 8
2.Lực lƣợng trƣớc tác trên Nam Phong tạp chí. 12
3.Tiểu sử, con ngƣời và sự nghiệp của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trên
Nam Phong tạp chí 34
3.1. Đôi nét về tiểu sử của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục. 34
3.2. Những quan niệm về chữ nho, chữ quốc ngữ và quốc văn đƣơng thời
của nhà nho Nguyễn Đôn Phục. 36
3.3. Sự nghiệp của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp chí.39
Tiểu kết 40

CHƢƠNG II: SỰ NGHIỆP DỊCH THUẬT VÀ BIÊN KHẢO CỦA
TÙNG VÂN NGUYỄN ĐÔN PHỤC TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ 42
1. Đôi nét về tình hình dịch thuật trên Nam Phong tạp chí. 42
2. Sự nghiệp dịch thuật của Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp chí 46
2.1 Hệ thống những tác phẩm dịch của Nguyễn Đôn Phục trên Nam
Phong tạp chí. 46

2
2.2. Nét khác biệt trong việc dịch thuật của Tùng Vân trên Nam Phong
tạp chí so với đồng sự. 55
3. Khảo cứu của Nguyễn Đôn phục trên Nam Phong tạp chí. 62
3.1 Khảo cứu về hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
và ca trù dân tộc. 62
3.1.1 Khảo cứu về các nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. 62
3.1.2 Khảo cứu về hát ca trù dân tộc 66
3.2 Khảo cứu về nhân vật, lịch sử nƣớc Tàu. 69
Tiểu kết: 72
CHƢƠNG III: TRƢỚC TÁC CỦA NGUYỄN ĐÔN PHỤC TRÊN
NAM PHONG TẠP CHÍ 73
1. Thể du kí trên Nam Phong tạp chí 73
2. Giá trị những bài kí của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong
tạp chí. 75
2. 1. Giá trị về nội dung 75
2.2. Đặc điểm chung về nghệ thuật những tác phẩm du ký của Tùng
Vân Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp chí 86
3. Giá trị những sáng tác Hài văn của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trên
Nam Phong tạp chí. 99
Tiểu kết: 100
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105


3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Đôn Phục là một tác giả cộng tác thƣờng xuyên, tên tuổi của
ông xuất rất nhiều trên các trang Nam Phong tạp chí nhƣng bạn đọc thế hệ
ngày nay ít ngƣời biết đến. Ông là một trong số tác giả thuộc kiểu hữu
công vô danh trên Nam Phong tạp chí. Không nhƣ cây bút chính kiêm chủ
bút Phạm Quỳnh phần chữ Nho, Nguyễn Bá Học phần chữ Hán đƣợc
ngƣời đọc biết đến bởi những tác giả này có mặt ngay từ khi Nam Phong
tạp chí còn trong thời kì trứng nƣớc, đặt những viên gạch đầu tiên xây
dựng nền móng thành công của Nam Phong, tên tuổi của họ xuất hiện khá
nhiều, những bài báo của họ đƣợc tập hợp in thành những tuyển tập lớn vì
thế độc giả ngay từ thời kì đó đến nay đều biết đến. Không đƣợc nhƣ vậy
nhƣng Nguyễn Đôn Phục là một trong số những thành viên chính. Ông
xuất hiện lần đầu tiên từ số báo 25 với tác phẩm dịch tiểu thuyết Tàu là Vợ
thầy cử Lư in trang 80 quyển số 5. Tác phẩm dịch đầu tiên đánh dấu mốc
quan trọng đối với sự nghiệp dịch thuật và sáng tác của ông. Và từ đó cho
tới số báo chót năm 1934 rất hiếm khi ông vắng mặt trên trang báo. Với số
lƣợng những bài Nguyễn Đôn Phục cho đăng trên báo khá đồ sộ đã nói
lên phần nào vai trò vị trí của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trên Nam
Phong tạp chí.
Đến với những bài viết có danh Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trên
báo Nam Phong ta sẽ thấy đƣợc một Nguyễn Đôn Phục am rất nhiều lĩnh
vực. Chính vì vậy, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học có giá trị với
những bài thơ truyện ngắn hay về thể tài, pha trộn giữa truyền thống và
hiện đại.
Thực tiễn trên đã thôi thúc chúng tôi – tác giả của luận văn một tình
yêu ham mê nghiên cứu, tìm hiểu và khảo lại, khẳng định và đƣa Nguyễn


4
Đôn phục về với những vị trí vai trò quan trọng của ông, xứng đáng với
những gì ông đã cống hiến cho Nam Phong tạp chí.
2. Lịch sử vấn đề
Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục nhƣ lúc đầu đã giới thiệu ông là một
tác giả “có công” trên Nam Phong tạp chí tuy nhiên những bài nghiên
cứu về ông còn thƣa thớt. Qua việc sƣu tầm và tìm hiểu, chúng tôi gặp
những tác phẩm của Nguyễn Đôn Phục xuất hiện trong những phần sau:
- Trong tập: “Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong” Nguyễn Khắc
Xuyên là ngƣời đầu tiên dành cho Nguyễn Đôn phục một vài câu chú giải
về một vài bài báo đăng trên tạp chí.
- Trong cuốn sách : “Tìm hiểu tạp chí Nam Phong” Phạm Thị Ngoạn
đã giới thiệu tiểu sử và sự nghiệp của Nguyễn Đôn Phục từ trang 77 đến
trang 84.
- Trong cuốn: “Văn xuôi Hà Tây” do Hồ Phƣơng và Phƣợng Vũ chủ
biên có dành một trang để giới thiệu về Nguyễn Đôn Phục và sƣu tầm bài
“Khảo luận về cuộc hát ả đào” của ông từ trang 17 đến trang 44.
- Trong cuốn: “Văn học Việt Nam thế kỷ 20” do Trịnh Bá Đĩnh chủ
biên đã sƣu tầm toàn bộ những bài du ký của Tùng Vân từ trang 273 đến
401.
- Trong cuốn: “Du ký Việt Nam” tập 1,2, 3 do Nguyễn Hữu Sơn sƣu
tầm và giới thiệu đã sƣu tầm những bài ký của ông.
Tóm lại, trong thực tế các bài nghiên cứu Tùng Vân Nguyễn Đôn
Phục chƣa nhiều, hoặc chỉ đề cập ở dạng sƣu tầm đơn lẻ, chƣa thật sự sâu
sắc và có tính hệ thống. Chính vì vậy, đề tài “ Khảo sát sự nghiệp dịch
thuật và trước tác của Tùng Vân – Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp
chí” đối với chúng tôi là khá mới mẻ, hấp dẫn. Chúng tôi cố gắng hết sức
để có một luận văn nghiên cứu sâu sắc toàn diện về sự nghiệp của Tùng
Vân Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp chí.


5
3. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát toàn bộ sự nghiệp dịch thuật biên khảo cũng nhƣ những
sáng tác văn chƣơng của Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp chí
ngƣời viết muốn hƣớng đến các mục tiêu sau:
- Tìm hiểu tiểu sử con ngƣời, sự nghiệp và vị trí của Tùng Vân trên
Nam Phong tạp chí.
- Ngƣời viết tiến tới điểm danh, sắp xếp, đánh giá thành tựu của ông
trên những lĩnh vực chính: Biên khảo dịch thuật và sáng tác văn thơ.
- Nghiên cứu kĩ và khẳng định ý nghĩa những sáng tác của ông đã bị
bụi thời gian che lấp.
- Tiến hành so sánh Tùng Vân với một số tác giả cùng thời để
khẳng định rõ đƣợc vai trò, sự nghiệp của ông trên tờ báo Nam Phong.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, chúng tôi xin giới hạn đối tƣợng và phạm
vi nghiên cứu chính là toàn bộ những bài biên khảo dịch thuật và những
sáng tác của Nguyễn Đôn Phục trên tạp chí Nam Phong trong suốt thời
gian tồn tại 1917 – 1934.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp khá nhiều
phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau. Nhƣng có một số phƣơng pháp đƣợc
chú trọng tập trung sử dụng nhƣ:
5.1 Phƣơng pháp tập hợp thống kê phân loại:
Sự nghiệp biên khảo dịch thuật và sáng tác văn chƣơng của
Nguyễn Đôn Phục rất phong phú, đa dạng. Phƣơng pháp tập hợp thống kê
phân loại sẽ giúp cho việc tập hợp, sắp xếp thống kê các tác phẩm dịch

6
thuật, sáng tác của Nguyễn Đôn Phục theo từng nhóm, từng vấn đề cần
giải quyết để tăng cƣờng tính chính xác khoa học hơn trong nghiên cứu.

5.2 Phƣơng pháp hệ thống
Ngƣời viết sẽ tập hợp sắp xếp lại những bài dịch, những tác phẩm
văn chƣơng của Nguyễn Đôn Phục theo hệ thống đáp ứng yêu cầu của
luận văn.
5.3 Phƣơng pháp so sánh
So sáng đồng đại: So sánh phần dịch của Nguyễn Đôn Phục với
phần dịch của ngƣời bạn đồng môn của ông đó chính là Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến để ngƣời đọc thấy đƣợc những đặc điểm riêng, những
thành tựu của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhiều các phƣơng pháp khác trong
quá trình nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp liệt kê, phƣơng pháp phân tích…
để hỗ trợ cho việc nghiên cứu đạt kết quả cao.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa khoa học
Với đề tài này, trƣớc hết, luận văn sẽ cung cấp cho ngƣời đọc những
thông tin đầy đủ về Nguyễn Đôn Phục, tiếp đến là góp phần tìm hiểu thêm
về vai trò vị trí của tác giả trên Nam Phong tạp chí.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc khảo sát sự nghiệp dịch thuật và sáng tác văn chƣơng của
Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp chí ta có thể thấy rõ
đƣợc những tài sản lớn về văn chƣơng cũng nhƣ dịch thuật của một tác
giả có công nhƣng bị lãng quên ít ai biết đến và nghiên cứu nhiều.
7. Giới thiệu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
các chƣơng mục chính sau:

7
Chƣơng I: Đội ngũ tác giả trên Nam Phong tạp chí và đôi nét về Tùng
Vân Nguyễn Đôn Phục
Chƣơng II: Sự nghiệp dịch thuật và biên khảo của Tùng Vân Nguyễn Đôn

Phục trên Nam Phong tạp chí.
Chƣơng III: Trƣớc tác của Nguyễn Đôn Phục trên Nam Phong tạp chí.
Cuối cùng là phần Danh mục tài liệu tham khảo.


8
CHƢƠNG I
ĐỘI NGŨ TÁC GIẢ TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ VÀ ĐÔI NÉT
VỀ TÙNG VÂN NGUYỄN ĐÔN PHỤC
1. Đôi nét về Nam Phong tạp chí 1917 – 1934.
Những năm đầu của thế kỉ XX đƣợc gọi là những năm đầy biến
động, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển. Do những biến đổi mới và
thị hiếu thẩm mĩ của những bạn đọc đƣơng thời mà có sự chuyển biến rõ rệt
trong văn học, đó là chuyển từ văn học trung đại sang nền văn học hiện đại.
và đồng thời, đây cũng là cơ hội cho báo chí hoạt động mạnh mẽ từ Bắc chí
Nam. Có biết bao tờ báo ra đời trong lúc này nhƣ: Đăng cổ tùng báo,
(Nhật báo Hà Nội 1907 -1909, do Schereider sáng lập, Đào Nguyên Phổ
chủ bút phần Hán văn); Trung bắc tân văn (Hà Nội 1913, Scherider sáng
lập, Nguyễn Văn Vĩnh chủ bút, trong đó có cả chữ Hán và chữ Quốc
ngữ)… và trong đó ta không thể không nhắc đến Nam Phong tạp chí. Nói
về vị trí của tờ báo Nam Phong tác giả cuốn sách “Nhà văn hiện đại” đã
nói: “Nam Phong tạp chí sinh sau Đông Dương tạp chí bốn năm, nhưng
sống lâu hơn và ở thời điểm thích hợp nên ảnh hưởng về nền văn chương
đối với quốc dân Việt Nam đã to tát hơn nhiều”.
1917, Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ
ngày 1 tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản. Tờ báo ra
đời do Đế quốc Pháp chủ trƣơng, nhằm phục vụ chính sách cai trị của
thực dân Pháp tại Việt Nam. Tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ bút phần
chữ Quốc ngữ và phần văn, Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần chữ nho.
Sau một thời gian ngắn hoạt động, với sự khéo léo của ngƣời đứng đầu,

chủ bút Phạm Quỳnh đã chuyển nội dung của tạp chí hƣớng về học thuật,
tìm hiểu các nền văn hóa Đông Tây, đặc biệt là văn hóa Việt Nam với
mục đích nâng cao hiểu biết cho nhân dân. Sau mƣời bảy năm tích cực

9
hoạt động liên tục (1917 – 1934) Nam Phong tạp chí đã xuất bản đƣợc
210 số báo, với khoảng 35.000 trang chữ Quốc ngữ, chữ Pháp và chữ
Nho. Đây là một tài liệu vô cùng quý giá về văn chƣơng, đề cập nhằm đối
mặt với văn minh cơ khí và và hóa phƣơng Tây mà đế quốc Pháp muốn
áp đặt nhằm tẩy nền Nho học lâu đời của cha ông ta. Giá trị của Nam
Phong rất lớn về mọi mặt: Chính trị xã hội, Lịch sử, Văn hóa…
Nam phong tạp chí kể từ khi ra đời đến khi đình bản đã trải qua 4 giai
đoạn chính:
- Giai đoạn 1917 – 1922: Thời kì thành lập và bành trƣớng của tờ báo.
- Giai đoạn 1922 – 1925: Thời kỳ đề cao mục đích giáo huấn, khai hóa
quốc dân. Tờ báo phát triển mạnh và truyền ra nƣớc ngoài nhờ ảnh hƣởng
của Phạm Quỳnh.
- Giai đoạn 1925 – 1932: Đây là giai đoạn hoạt động chính trị mạnh nhất
của tờ báo.
- Giai đoạn 1932 – 1934: Giai đoạn suy yếu của tờ báo. Quyền chủ bút
chuyển cho Nguyễn Trọng Thuật. Tới tháng 12 năm 1934 thì tờ báo đình
bản.
* Về nội dung, Nam phong tạp chí đề cập đến rất nhiều vấn đề của đời
sống cũng nhƣ văn học, với nhiều tiểu mục khác nhau. Chúng tôi có thể
hệ thống hóa lại nhƣ sau:
- Mục thứ nhất: Phần lƣợc thuật: bàn chung những vấn đề có liên đến
thời thế, nhất là có những phần liên hệ đến riêng nhân dân ta để cho
những ngƣời đọc báo trong cả nƣớc có những hiểu biết và quan điểm rõ
ràng về những vấn đề này.
- Mục thứ hai: Phần đề cập đến những vấn đề văn chƣơng lịch sử, có thể

hiểu những môn gọi chung là văn học.

10
- Mục thứ ba: Phần triết học gồm những luận thuyết tƣ tƣởng từ xƣa đến
nay. So sánh tƣ tƣởng Âu – Á để giúp cho sự đề xƣớng một tƣ trào riêng
cho nƣớc ta. Với mục đích tôn chỉ là giúp cho dân hiểu về trí thức đạo
đức.
- Mục thứ tƣ: Phần khoa học mục này đề cập vấn đề đại cƣơng, nguyên
lí, lịch sử tiến hành của khoa học.
- Mục thứ năm: Phần văn uyển là nơi sƣu tầm và biên soạn lại những tác
phẩm thơ ca chữ Hán, chữ Nôm và đăng tải giới thiệu những bài thơ mới.
- Mục thứ sáu: Phần tạp trở đăng những bài ký (du hành ký và du ký) nội
dung những bài ký là những câu chuyện mắt thấy tai nghe, cảnh đẹp, kiến
thức lịch sử địa lí theo bƣớc chân của tác giả bài kí trên những chuyến
thăm quan, công tác… và những bài tựa, bài giới thiệu sách mới, những
danh ngôn, bài giới thiệu sách mới, trích lục các sách.
- Mục thứ bảy: Thời đàm gồm các bài báo bàn về tình hình thế sự trong
và ngoài nƣớc. Những bài viết này thể hiện một thái độ khá bình tĩnh khi
trình bày những vấn đề khác nhau, tuy nhiên vẫn có chút, hơi hƣớng ca
ngợi Pháp.
- Mục thứ tám: Là phần tiểu thuyết, đây là phần dành riêng cho văn
chƣơng, chuyên đăng tải những tác phẩm dịch các tiểu thuyết cận, hiện
đại Trung Quốc và Pháp sang quốc văn, đăng tải một số tiểu thuyết mới.
- Mục thứ chín: Phần từ vựng với mục đích là giải thích nghĩa những từ
mới và mở rộng vốn từ của dân tộc.
Nam Phong tạp chí thiên về biên khảo dịch thuật và sáng tác văn học,
vì vậy đối với văn hóa và văn học dân tộc trong một giai đoạn hơn mƣời
năm, nó đã có những ảnh hƣởng không nhỏ. Có thể nói đây là tờ báo gần
nhƣ duy nhất trong những năm chuyển tiếp giữa thập kỷ 20 và 30 của thế
kỷ 20 cung cấp cho bạn đọc Việt Nam những kiến thức về văn chƣơng,

triết học, lịch sử, địa lý…phƣơng Đông cũng nhƣ phƣơng Tây, một cách

11
bài bản hệ thống và liên tục. Phải qua Nam Phong, đạo Nho cổ truyền lần
đầu tiên mới đƣợc trình bày hệ thống. Cũng phải qua Nam Phong, các áng
văn thơ tinh hoa cổ điển của dân tộc mới đƣợc sƣu tầm, phiên âm, phiên
dịch và truyền bá sâu rộng trong lớp thanh niên tân học thuở bấy giờ.
Nam Phong cũng là nơi thử thách, rèn luyện ngòi bút viết văn xuôi quốc
ngữ, văn xuôi nghệ thuật và cao hơn là văn xuôi lý luận, trong bƣớc
chuyển mình của văn xuôi quốc ngữ nƣớc ta. Thế hệ trí thức một thời, kể
cả những đại biểu xuất sắc của phong trào “Thơ mới” nhƣ Xuân Diệu, đã
coi Nam Phong nhƣ một “trƣờng đào tạo” văn chƣơng quan trọng.
Trƣớc cách mạng tháng Tám, nhiều ngƣời rất đề cao Nam Phong, cho
rằng Nam Phong tạp chí nhƣ một ngôi trƣờng, ở đó dạy cho ngƣời ta biết
bao kiến thức mới mẻ ở bên ngoài, từ ngôi trƣờng bổ túc ấy mà có biết
bao nhiêu nhà thơ đã trƣởng thành đặc biệt có công lớn trong việc xây
dựng nền quốc văn cho nƣớc nhà. Ngay từ năm 1933 tức là thời điểm
Nam Phong đang trong những ngày cho ra đời một vài số báo chót, trong
cuốn “Phê bình cảo luận”, Thiếu Sơn đã viết: “có nhiều người không biết
văn Tây văn Tàu, chỉ nhờ Nam Phong mà hun đúc được những kiến thức
phổ thông tạm đủ sinh hoạt ở đời. Có những ông đồ Nho chỉ coi Nam
Phong mà cũng biết được đại khái văn chương học thuật”. Thông qua lời
nhận xét ta thấy nhà nghiên cứu Thiếu Sơn đề cao vai trò của Nam Phong
trong việc bổ túc, bồi dƣỡng hun đúc tri thức cho những bạn đọc những kiến
thức văn hóa, văn chƣơng nƣớc ngoài. Đặc biệt là văn chƣơng phƣơng Tây.
Sau tám năm sau khi Nam Phong đình bản tức năm 1942, nhà nghiên
cứu Vũ Ngọc Phan vẫn đánh giá cao vai trò của Nam Phong tạp chí trong
cuốn “Nhà văn hiện đại Việt Nam” nhƣ sau: “Nhiều thanh niên tri thức
đã có thể căn cứ vào Nam Phong tạp chí bồi bổ cái học còn khiếm khuyết
của mình. Thậm chí có người lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu

thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây. Muốn hiểu những vấn đề

12
đạo giáo, muốn biết văn học sử cùng văn học nước Tàu, nước Nhật, nước
Pháp, muốn đọc thi ca Việt Nam từ Lý, Trần cho đến ngày nay, muốn biết
thêm lịch sử nước Nam, lịch sử các danh nhân nước nhà, muốn hiểu vẫn
đề chính trị xã hội Âu Tây và cả những học thuyết của mấy nhà hiền triết
cổ La Hi, chỉ cần đọc kĩ Nam Phong có thể hiểu biết được. Một người chỉ
biết đọc chữ quốc ngữ mà có khiếu thông minh có thể dùng tạp chí Nam
Phong để mở mang kiến thức của mình. Nam Phong tạp chí sinh sau
Đông Dương tạp chí bốn năm, nhưng sống lâu hơn và ở thời thích hợp
hơn nên ảnh hưởng về đường văn chương đối với quốc dân Việt Nam đã
to tát hơn nhiều”. Bên cạnh những đó còn có những ý kiến trái chiều họ
phủ định một cách không công bằng những đóng góp của Nam Phong tạp
chí. Tuy nhiên những năm gần đây Nam Phong tạp chí đã thật sự trở
thành đối tƣợng nghiên cứu vô cùng thú vị thu hút rất nhiều bài báo, luận
văn và công trình nghiên cứu dựa trên cái nhìn khách quan, khoa học và
đánh giá công bằng.
2. Lực lƣợng trƣớc tác trên Nam Phong tạp chí.
Có rất nhiều ngƣời đã nghiên cứu về đội ngũ sáng tác trên Nam
Phong tạp chí. Ngƣời ta thƣờng chia đội ngũ ấy ra thành các lĩnh vực
khác nhau dựa trên những tiêu chí không giống nhau. Có tác giả dựa trên
tiêu chí các giai đoạn phát triển của Nam Phong mà chia ra những nhóm
tác giả, có ngƣời lại dựa trên những thể loại, hoặc tiểu mục đƣợc đăng tải
trên tờ báo để chia ra những tiểu nhóm tác giả khác nhau, tiêu biểu nhƣ
Nguyễn Khắc Xuyên – tác giả của Mục Lục phân tích tạp chí Nam Phong
lại dựa trên số lƣợng những bài đƣợc đăng tải hoặc là dựa trên thể loại.
Ông cho rằng thể loại văn vần chiếm đã số trên Nam Phong tạp chí, đó
cũng là một cơ sở để xếp nhóm nhà văn. “Về các tác giả, trước hết phải
kể đến các nhà văn, và các nhà văn này, tiên vân phải nói đến Phạm

Quỳnh, hiệu Hồng Nhân hoặc Thượng Chi, một trong ba người sáng lập

13
lại kiêm chủ bút phần Việt ngữ, trong đó ông Nguyễn Bá Trác phụ trách
phần Hán ngữ. Sau đó lần lượt phải chú trọng đến Nguyễn Hữu Tiến hiệu
là Đông Châu, Nguyễn Trọng Thuật hiệu là Đồ Nam, Nguyễn Bá Học và
Nguyễn Đôn Phục hiệu là Tùng Vân”. Sau khi liệt kê phân tích những
gƣơng mặt chủ chốt tiêu biểu giữ các vị trí quan trọng trong tờ báo Nam
Phong hay nói khác đi đó là những ngƣời tạo nên hồn cốt diện mạo thì
nhà biên khảo đã điểm danh lại những gƣơng mặt quen thuộc với ngƣời
đọc và có số lƣợng bài đăng tải cũng kha khá trên tờ báo “Sau đó chúng
ta phải nhắc tới Lâm Tấn Phác, hiệu Đông Hồ cùng với nhóm “Trí Đức
học xá”; Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Kiêm, hiệu Trọng Toàn; Lê Dư
hiệu Sở Cuồng; Tương Phố. Sau cùng chúng ta phải chú ý tới một số tác
giả quen thuộc đã cộng tác với Nam Phong với những bài xuất sắc như
Dương Bá Trạc hiệu Tuyết Huy, Dương Quảng Hàm, Hoàng Ngọc Phách,
Lê Thăng, Nguyễn Mạnh Bổng hiệu Mân Châu; Nguyễn Tiến Lãng hiệu
Hán Thu, Nguyễn Triệu Luật, Thiện Đình, Thiếu Sơn, Trần Trọng Kim
hiệu Lệ Thần, Trần Văn Ngoạn hiệu Tuyết Trang, Vũ Đình Long”. Tới
mảng thơ thì tác giả cuốn sách họ Nguyễn cũng diểm danh khá tỉ mỉ chi
tiết, những nhà thơ không chỉ có nhiều bài đƣợc in ấn trên Nam Phong mà
còn nổi tiếng vang danh trên thi đàn thơ ca một thời nhƣ: “Về các nhà
thơ, trước hết chúng ta phải kể đến các thi sĩ như: Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Kế Xương, nhóm “Hồng Đức”
rồi trong rất nhiều thi gia nổi lên về lượng mà ít khi chúng ta nhắc tới
theo thiện ý. Chúng tôi phải có công cuộc khai thác mới, đó là những nhà
thơ như: Dương Đình Tây, Đình Trai, Đoàn Nhữ Nam, Đoàn Tinh Canh,
Lê Đình Huyến, Minh Phượng, Mộng Lan, Nguyễn Bá Xuyến, Nguyễn
Can Mộng hiệu Nông Sơn, Nguyễn Tiến, Nguyễn Trung Khuyến, Nguyễn
Văn Đào, Nhàn Khanh, Nhàn Đình Vân, Trần Mỹ, Vũ Tích Cống. Trong


14
số các văn gia cũng có một số đồng thời là thi gia như: Nguyễn Hữu Tiến,
Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Đôn Phục, Lâm Tấn Phác”.
Theo Phạm Thị Ngoạn tác giả cuốn Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong lại
cho rằng cần phải dựng lại từng tác giả, bà đã thành công trong ý tƣởng
của mình. Ở mỗi tác giả bà tái hiện lại tên thật, bút danh, năm sinh, năm
mất, nguyên quán, nêu sơ qua về những sự kiện chính của cuộc đời và đi
tìm hiểu khái quát của mỗi cộng tác trên Nam Phong tạp chí, cuối cùng
tác giả trích dẫn những lời nhận xét đánh giá đặc sắc của một số nhà văn,
nhà nghiên kì cựu tờ báo Nam Phong nói riêng và diễn trình văn hóa văn
học Việt Nam thời bấy giờ nói riêng nhƣ: Nguyễn Khắc Xuyên, Vũ Ngọc
Phan, Lại Văn Hùng đồng thời cũng không quên để lại những lời nhận xét
đánh giá sắc sảo của bản thân mình.
Hay trong cuốn “Truyện ngắn Nam Phong” của Lại Văn Hùng viết
năm 1989, tuy nội dung chủ yếu là tác giả sƣu tầm, tuyển chọn, giới thiệu
nhƣng ông vẫn điểm qua lực lựng trƣớc tác trên Nam Phong. Sau khi
điểm qua đôi nét về những tác giả trọng yếu nhƣ chủ bút và những trong
mục “Mấy nét sơ lược về nhóm Nam Phong” tác giả còn nêu tên một số
cây bút khác nhƣ: Phan Khôi, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Hoàng Ngọc
Phách, Đông Hồ, Tƣơng Phố, Vũ Đình Long, Nguyễn Tiến Lãng… sau
đó tác giả có đƣa nhận định “Những người này ít nhiều cũng từ “trường
học Nam Phong” mà thử thách, đào luyện để trở thành những nhà văn,
học giả có tiếng tăm, có bản sắc trên văn đàn”. Nhƣ vậy, đọc lời nhận xét
của tác giả ta có thể hiểu tác giả đề cập đến lực lƣợng cộng tác trên tờ
Nam Phong với hai lực lƣợng chủ yếu. Đó là nhóm sáng tác (nhóm những
tác giả chính) và nhóm học tập tiếp thu kiến thức của tờ báo, qua đó khổ
công rèn luyện, và nhờ những kiến thức học tập đó khiến họ cũng trở
thành những ngƣời có tiếng tăm trên văn đàn đƣơng thời. Hay nói khác đi


15
đây là nhóm học trò cũng đồng thời là cộng tác của Nam Phong góp phần
bé nhỏ của mình tạo nên diện mạo của Nam Phong tạp chí.
Tạp chí Nam Phong có lực lƣợng cầm bút cộng tác rất đông. Cả những
trí thức Tây học và những trí thức Nho học, đặc biệt là những trí thức Nho
học bởi việc bãi bỏ chế độ khoa cử cũ (1919) là một biến động dữ dội
trong giới này đã gây ra không ít xáo trộn trong hàng ngũ của họ. Trí thức
Việt Nam thời bấy giờ đa số đƣợc đào tạo từ lò Nho học; nhƣng Nho học
đã hết thời, các nhà Nho không còn nơi để thi thố tài năng, không có đất
để gieo mầm và sử dụng những vốn kiến thức quý giá mình đã học đƣợc.
Khi Phạm Quỳnh đƣa ra chủ trƣơng “bảo tồn cổ học”, “quốc túy”, “dung
hòa Đông Tây”, họ cảm thấy đây là nơi duy nhất có thể giúp mình nói
nên đƣợc nỗi lòng. Chính vì vậy, hàng loạt cây bút Nho học đã đến với
Nam Phong tạp chí, giữ các mục “Văn uyển”, “Tiểu thuyết”, “Văn học
bình luận”… và đem lại cho tờ báo cái “phong vị ngôn ngữ” cũng nhƣ
“tinh thần Hán học”: Dƣơng Bá Trạc, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Thân Trọng Huề, Nguyễn Bá Học, Lê
Dƣ…Về sau, một số ngƣời vừa có Tây học vừa có Hán học, hoặc chỉ có
Tây học, cũng ra cộng tác với Nam Phong: Phạm Duy Tốn, Trần Trọng
Kim, Vũ Đình Long, Nguyễn Tiến Lãng, Đồ Đình Thạch…Nam Phong
tạp chí ra hàng tháng, khổ lớn, dày trên dƣới 100 trang, có một phần viết
bằng chữ Hán, và từ 1922 trở đi còn thêm một phần chữ Pháp. Mục đích
trực tiếp của tờ báo là thay chân Đông Dương tạp chí tuyên truyền, giải
thích chính sách của Pháp ở Đông Dƣơng sau Đại chiến I, cổ vũ công việc
“khai hóa” của Pháp. Ba nhân vật quan trọng đóng vai trò sáng lập tờ báo
là: Macty (Louis Marty), trùm mật thám Pháp ở Phủ toàn quyền lúc ấy,
rồi đến Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác (?-1945). Hai ngƣời sau cũng
chính là những cây bút chủ chốt của Nhóm Nam Phong. Phạm Quỳnh viết

16

nhiều, dịch nhiều về tất cả các vấn đề chính trị, văn học, lịch sử, triết
học…nhƣng không chuyên sâu một vấn đề gì, mà gặp đâu bàn đấy, nhằm
giới thiệu những kiến thức phổ quát của văn hóa văn minh “Thái Tây”
cho công chúng đọc Nam Phong tạp chí lúc bấy giờ. Phạm Quỳnh tán
dƣơng chính sách “khai hóa” của Pháp, nhƣng cũng chủ trƣơng “bảo tồn
quốc túy”. “Quốc túy” mà ông quan niệm là tinh thần và đạo lý phƣơng
Đông đã tồn tại trên đất nƣớc ta hàng ngàn năm, trong đó chủ yếu là Nho,
Phật, Lão.
Sau khi tìm hiểu và tiếp thu chọn lọc một số công trình nổi tiếng đề
cập đến vấn đề lực lƣợng trên Nam Phong tạp chí chúng tôi mạnh dạn
đƣa ra ý kiến của mình. Chúng tôi dựa trên tiêu chí gốc học thức và sự
nghiệp của các tác giả cống hiến Nam Phong mà phân chia lực lƣợng xây
dựng nên Nam Phong tạp chí. Chúng tôi không đi sâu vào nghiên cứu
từng tác giả về tiểu sử và điểm danh qua sự nghiệp nhƣ Phạm Thị Ngoạn
trong Tìm hiểu tạp chí Nam Phong, cũng không đi vào chia theo thể loại
nhƣ Nguyễn Khắc Xuyên trong Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong mà
chúng tôi sẽ chỉ ra những vấn đề tiêu biểu nhất về cuộc đời và sự nghiệp
của từng tác giả. Chúng tôi đi theo hai luận điểm chính: Lực lƣợng trƣớc
tác thuộc thế hệ cựu học và lực lƣợng trƣớc tác thuộc thế hệ tân học. Tuy
nhiên, dù lấy tiêu chí gì phân chia đi chăng nữa thì không thể đạt đƣợc
mức tuyệt đối mà chỉ có thể ở mức tƣơng đối bởi có rất nhiều trƣờng hợp
trung gian, có gốc Nho học nhƣng lại theo Tây học, có ngƣời gốc Tây học
nhƣng vẫn ngoái lại Nho học, họ nghiên cứu rộng khắp nhiều vấn đề,
chúng tôi chỉ có thể dựa vào sự cống hiến của họ trên Nam Phong mà
phân chia sắp xếp cho hợp lí. Thƣợng Chi - Phạm Quỳnh là một ví dụ tiêu
biểu nhất. Vì Phạm Quỳnh có vị trí to lớn trên tờ báo Nam Phong thông
qua những đóng góp của ông, tác giả này có rất nhiều vấn đề đáng bàn

17
nên chúng tôi sẽ không đặt tác giả vào mục cụ thể nào mà điểm qua đôi

nét riêng.
Phạm Quỳnh sinh 1892 mất 1945 có những bút danh Thƣợng Chi,
Hồng Nhân, Hoa Đƣờng, Lƣơng Ngọc. Nguyên quán họ Phạm là làng
Lƣơng Ngọc - Bình Giang - Hải Hƣng, nay thuộc huyện Bình Giang Tỉnh
Hải Dƣơng. Phạm Quỳnh là ngƣời con trai đầu lòng của cha Phạm Hữu
Điển xuất thân tú tài Nho học và mẹ Vũ Thị Đoan. Phạm Quỳnh sinh tại
Hà Nội, số nhà 17 phố hàng Trống, ngày 17/12/1892, năm Nhâm thìn.
Gia đình khi đó từ biệt làng Lƣơng Ngọc để lên Hà Nội lập nghiệp và
Phạm Quỳnh đã ra đời, khôn lớn tại Hà Nội.
Nhờ vào vốn kiến thức sâu rộng cổ kim đông tây của mình, Phạm
Quỳnh đã đóng góp cho Nam Phong tạp chí một sản nghiệp lớn thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau. Nếu nhƣ không có sự xuất hiện của Thƣợng
Chi chắc có lẽ không có một tạp chí Nam Phong giá trị nhƣ vậy. Nhận
định về vai trò của ông trên tờ báo, Nguyễn Khắc Xuyên – Tác giả cuốn
sách Mục lục phân tích Nam Phong tạp chí đã từng nhấn mạnh: “Phạm
Quỳnh là như tiêu biểu cho tờ Nam Phong, là linh hồn của tất cả tờ báo”,
hay Nguyễn Tiến Lãng cũng nhận định: “Cho nên trước đây, cái tên Nam
Phong gần như lẫn với cái tên Thượng Chi, đó cũng là đích đáng vậy”
(NPTC số 119 trang 9), hoặc: “Cho hay một đời dễ có mấy Thượng Chi”
là lời khen của Hán Thu trong Nam Phong tạp chí số 188 trang 219-
222 nhìn chung vai trò của ông đƣợc rất nhiều các bạn bè đồng nghiệp
đƣơng thời cũng nhƣ bạn đọc sau này nhận thấy và ca ngợi. Phạm Quỳnh
có đƣợc sự ca ngợi ấy cũng dễ hiểu bởi sự đóng góp của ông cho Nam
Phong không hề nhỏ. Ông đóng góp trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đã có
rất nhiều nhà nghiên cứu Nam Phong nói chung, Phạm Quỳnh nói riêng,
họ đều chia những tác phẩm của Thƣợng Chi ra làm những mảng khác

18
nhau để dễ nghiên cứu nhƣ: Nguyễn Khắc Xuyên trong Mục Lục phân
tích tạp chí Nam Phong; Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại… và

chúng tôi hoàn toàn thống nhất đồng quan điểm với những vị tiền bối đi
trƣớc bởi họ đã phân chia rất khoa học chuẩn xác. Sự nghiệp của Hồng
Nhân gồm bốn phần: Phần thứ nhất: Những bài biên tập có tính chất lịch
sử xã hội chính trị nhƣ: Văn minh luận, Chính trị nƣớc Pháp… Phần thứ
hai: Những bài có tính chất văn học bao gồm: khảo cứu, dịch thuật, trƣớc
thuật, bình luận. Phần thứ ba: những bài biên tập có tính chất triết học.
Phần cuối cùng là những sách Pháp văn. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh
một số điểm nhƣ sau: cho dù viết ở mảng nào cho dù là chính trị, văn hóa
văn học… và cho dù dùng chữ Quốc ngữ hay chữ Hán thì ông đều rất dè
dặt, thận trong trong khi sử dụng câu chữ vào bài viết của mình. Ông luôn
có ý thức giữ gìn nâng niu tiếng mẹ đẻ “…Từ hai mươi năm nay tôi chỉ
theo đuổi một mục đích, cố gắng cải tiến tiếng nước tôi, vì vậy tôi rất ít có
dịp viết Pháp văn – vốn dĩ không phải tiếng nói của tôi…” Dù là viết ở
dạng bài nào thì ông cũng chỉ với một chủ đích mà suốt đời ông theo đuổi
là mang những kiến thức, những cái tiến bộ mới mẻ vào cho nhân dân,
kiến tạo một nền quốc văn mới bằng chữ quốc ngữ điều này đƣợc thể hiện
ở cái chủ trƣơng học thuyết của chính tác giả: “Đọc sách Tây để thâu thái
lấy tư tưởng, lấy cái văn hóa tinh thần Âu Tây, để bồi bổ cho nền quốc
văn còn khiếm khuyết. để chọn lấy cái hay của người mà dung hòa với cái
hay của mình, ngõ hầu giữ gìn cho cái học của mình, không mất bản sắc
mà vẫn có cơ tiến hóa được”.
Nói chung, Phạm Quỳnh là một trƣờng hợp đặc biệt bởi ông là một tri
thức cựu học lẫn tân học, là ngƣời am hiểu về nhiều vấn đề văn hóa, lịch
sử, chính trị xã hội… bên ta bên tàu chính vì thế ông đã có những đóng
góp không nhỏ cho Nam Phong tạp chí nói riêng và việc đặt nền móng

19
cho việc hình thành nền quốc văn dân tộc nói chung. Công lao của ông
đã đƣợc các học giả ngày này ghi nhận và biết ơn rất nhiều.
a. Lực lƣợng trƣớc tác trên Nam Phong tạp chí thuộc thế hệ cựu học.

Cựu học là thế hệ những nhà văn sống và thừa hƣởng chế độ giáo dục
thi cử cũ. Họ là những ngƣời có kiến thức vốn Nho học do họ xuất thân từ
gia đình có truyền thống Nho học từ cha anh đều theo đạo Khổng Mạnh,
vậy là họ đƣợc thừa hƣởng nền tảng Nho học từ gia đình từ nhỏ. Khi đến
tuổi đi học, họ vẫn trong thời đại học chữ Nho, thi chữ Nho và do chính
bản thân các tác giả cũng thích tìm hiểu những cái hay cái đẹp của một
nền văn hóa ăn sâu vào tiềm thức của dân tộc ta từ xƣa đến nay. Nho học
vẫn luôn là một cái nôi nuôi dƣỡng bồi đắp cho tâm hồn của họ và cho
đến ngay cả thời điểm lúc bấy giờ “Âu Á giao thời” chữ Nho vẫn giữ một
vị trí vô cùng quan trọng trong tâm hồn họ. Họ luôn trân trọng, muốn bảo
tồn, lƣu giữ và phát huy, đi vào tiểu sử từng biên tập viên chính ta thấy rõ
điều này.
Nhƣ chúng ta đã biết, ở thời gian đầu cũng nhƣ thời điểm đỉnh cao rực
rỡ của Nam Phong thì chữ Nho vẫn giữ vai trò chủ đạo. Điều này cũng dễ
hiểu và lí giải bởi lúc bấy giờ Nho học đang trên con đƣờng xuống dốc
hết thời, trong khi đó những trí thức nho học cuối cùng còn lại của chế độ
thi cử nền giáo dục cũ vẫn rất nhiều. Đƣợc học một đằng, lại sống trong
thời đại một nẻo khác chi họ là “người lạ”. Họ không tìm đƣợc cho mình
một chỗ đứng chân để phát huy tài năng, sử dụng vốn có của bản thân,
giãi bày tâm sự của cả một thế hệ. Họ đang bơ vơ lạc lõng giữa xã hội
đang quằn quại chuyển mình. Nam Phong tạp chí là tờ báo duy nhất nổi
lên với chủ trƣơng bảo tồn “quốc hồn”, “quốc túy” nhƣ vậy Nam Phong
khác gì chiếc cọc để cho họ víu lấy giữa dòng nƣớc chảy siết, hay khác gì
trang giấy trắng để họ có thể viết lên đó những gì mong muốn, giãi bày.

20
Chính vì thế chúng ta thấy thời gian đầu lực lƣợng nho học trên Nam Phong
rất đông đảo góp phần tạo nên diện mạo cho tờ báo này.
Bàn về đội ngũ sáng tác trên Nam Phong thuộc thế hệ cựu học không
thể bỏ qua ngƣời có công đặt viên gạch đầu tiên xây dựng tờ báo khi còn

trong thời gian trứng nƣớc. Nguyễn Bá Trác sinh năm 1881 mất năm
1945 có bút danh là Tiên Đẩu, tuy chỉ cộng tác với Nam Phong tạp chí
một thời gian ngắn khoảng gần hai năm (tháng 9 năm 1919 ông từ giã tạp
chí để vào Huế nhận nhiệm vụ của triều đình) và số lƣợng bài đăng trên
Nam Phong tạp chí không nhiều nhƣng tác giả luận văn vẫn đƣa ông lên
đầu mục nghiên cứu bởi Nguyễn Bá Trác có vai trò rất quan trọng trong
việc sáng lập, có thể nói ông là một trong hai ngƣời sáng lập và kiêm chủ
bút. Ông là chủ bút phần chữ Hán và cũng có ảnh hƣởng không ít đến
phần chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, vẫn chƣa có một cuốn sách hay công
trình nghiên cứu nào khảo lại sự nghiệp của ông, có chăng chỉ là những
bài viết hay công trình nghiên cứu Nam Phong nhắc tới tác giả mang tính
chất điểm danh, phác qua vai trò của ông trên diện mạo tờ báo. Điều này
có thể đƣợc lí giải do thời hƣng thịnh của Hán học đã qua đi nên số đông
quần chúng không còn quan tâm nữa, ít ngƣời theo học và tìm hiểu hơn,
chế độ thi cử đã đổi thay và đặc biệt chữ Quốc ngữ lúc bấy giờ dần thay
đổi vào vị trí của chữ Hán. Việc tìm hiểu lúc bấy giờ chỉ còn là những
ông đồ Nho cũ, những chuyên viên tìm hiểu hoặc một phần nho nhỏ
những ngƣời ngoái lại “vang bóng một thời” tìm những gì tốt đẹp trong
quá khứ.
Sự nghiệp của Nguyễn Bá Trác luôn gắn liền với thi cử thời Hán học.
Ngƣời ta gọi ông là cử Trác vì ông đã đậu cử nhân thi hƣơng. Ông có một
khối kiến thức khá vững chắc, điều này khiến cho con ngƣời của ông luôn
hƣớng về cội, đó cũng là lí do ông trở lại sau khi ông xuất ngoại để làm
những công việc mà mình yêu thích đƣợc sử dụng chữ nghĩa hàng ngày.

21
Công việc đầu tiên khi về nƣớc sau những ngày tháng buôn ba đất khách
quê ngƣời, ông đã cùng với Thƣợng Chi Phạm Quỳnh phụ trách phần
phiên dịch ra chữ nho cuốn Histoire dela guèrre của Gabriel Hanotaux
(cuốn sách đƣợc dịch ra là lịch sử chiến tranh). Trong thời gian làm chức

thông dịch viên nha chính trị toàn quyền cho đến năm 1917 Nguyễn Bá
Trác đã trƣởng thành ở tổi 36. Ông cùng Phạm Quỳnh cùng là sáng lập
viên kiêm chủ bút phần chữ Hán. Có thể nói lúc đó tác giả rất già dặn, có
phong cách của một nhà Nho thâm thúy khác thƣờng trong cách trình bày
với độc giả về tình cảm, tƣ tƣởng và ngay cả những suy nghĩ sâu kín trong
tận đáy lòng. Với lối viết thâm trầm ngắn gọn xúc tích rất phù hợp với
đặc trƣng của văn chƣơng trung đại. Những tác phẩm của ông đã thu hút
tạo ra những suy ngẫm thích thú cho giới văn chƣơng đèn sách đƣơng
thời. Nếu nhƣ nhà Nho đỗ đạt của thời kì trƣớc thƣờng mang tài sản chữ
nghĩa của mình ra phò vua dạy dân hoặc có những nhà Nho thấy cuộc đời
nhiều bất công ngang trái trong xã hội thƣờng về ở ẩn với thú vui tao nhã
cùng thiên nhiên cỏ cây với núi với rừng thì Nguyễn Bá Trác lại không
thuộc mẫu ngƣời nào trong đó. Ông cũng là ngƣời xuất thân từ gia đình
Nho giáo có truyền thống Nho học. Nguyễn Bá Trác đã từng đi bôn ba
nhiều nƣớc nhƣng có lẽ tƣ tƣởng chính trị của ông có nhiều điểm mâu
thuẫn, giằng xé của thời cuộc Á – Âu, tân cựu giao tranh khiến cho ông
trở về và trở thành một nhà Nho có chút bất mãn với thời cuộc, chán
chƣờng và hoài nghi với xã hội con ngƣời lúc bấy giờ. Điều này đƣợc thể
hiện rất rõ qua những tản văn của ông. Tuy nhiên, dù cuộc đời có sóng
gió đến nhƣ thế nào đi chăng nữa chúng ta cũng vẫn nhận thấy một nhà
nho chân chính trong con ngƣời, nếp nghĩ và đặc biệt thông qua các sản
phẩm tinh thần của ông. Vẫn theo phong cách sáng tác của thời trung đại
mọi sáng tác đều ngắn gọn, súc tích, ngụ ý thâm thúy, ngôn ngữ ít mà
hiểu nhiều, chữ đọc đã hết mà ý nghĩa còn trải dài. Ông mang những tâm

22
sự nỗi lòng thầm kín về cuộc đời thể hiện kín đáo qua hình ảnh cây bồ đề,
cô gái hát ả đào… đó chẳng phải là bút pháp quen thuộc trong văn học
trung đại đó sao. Lí do trở về quê hƣơng đất nƣớc sau những tháng ngày
bôn ba nơi đất khách quê ngƣời cũng nhƣ nỗi lòng yêu và nhớ quê hƣơng

của tác giả đƣợc thể hiện rõ trong bài “Tự tình với sông hương” in trong
số 2 báo Nam Phong. Chỉ với ba mƣơi bảy dòng tản văn thật ngắn gọn,
ngôn ngữ bình dị dễ hiểu, nhà văn đã phơi trải tấm lòng khiến cho ai đã
từng đọc cũng có thể hiểu thấu đáo đƣợc nguyên nhân sâu sắc khi ông trở
về. Nhà văn đã từng sống ẩn náu bên Trung Quốc, ở nơi đất khách quê
ngƣời chƣa bao giờ nhà văn cảm thấy nhẹ lòng thanh thản điều này đƣợc
lí giải bởi ông là ngƣời luôn nặng lòng với quê hƣơng, đất nƣớc. Khi trở
lại kinh đô, ông tả quê hƣơng mình trong niềm tự hào, luôn cho rằng
không đâu đẹp bằng Huế - mảnh đất mộng mơ, phồn thịnh đáng nhớ
“Non Ngự Bình hãy còn xanh, nước sông Hương hãy còn trong, đình ta
lâu đời mỗi ngày mỗi đẹp, thành quách cũ công nghiệp bản triều gây
dựng trang nghiêm rực rỡ biết là bao…”
Những nỗi nhớ về thời thơ ấu luôn sống mãi trong kí ức ông, khoắc
khoải nhìn và nhớ lạ kí ức xa xƣa rồi chiêm nghiệm những gì đã qua, trằn
trọc trong suy nghĩ hiện tại… tất cả đƣợc gửi gắm trong cuộc đối thoại
với cây đa: “Đến bây giờ cũng thuyền ấy, cũng bến ấy, cũng quen quen lạ
lạ mấy ả hữu tình, mà cung đàn giọng hát biết lựa làm sao. Có cụm Bồ
Đề đó ta xin hỏi:
“Mấy năm nay hát bài nào?
Trăng làm sao? Nước làm sao? Hỡi chàng?
Bồ Đề nói:
Mấy năm nay tôi ở chốn này,
Khi nồng, khi lạnh, khi đầy, khi vơi
Mừng nay êm gió tạnh trời”….

×