Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Những rào cản đối với việc tiếp cận dịch vụ y tế của lao động nhập cư ở khu công nghiệp (Nghiên cứu trường hợp tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long, xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐINH THỊ GIANG





NHỮNG RÀO CẢN ĐỐI VỚI VIỆC TIẾP CẬN
DỊCH VỤ Y TẾ CỦA LAO ĐỘNG NHẬP CƢ
Ở KHU CÔNG NGHIỆP
(Nghiên cứu trường hợp tại Khu công nghiệp Bắc Thăng Long,
xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội)



LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC





Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐINH THỊ GIANG



NHỮNG RÀO CẢN ĐỐI VỚI VIỆC TIẾP CẬN
DỊCH VỤ Y TẾ CỦA LAO ĐỘNG NHẬP CƢ
Ở KHU CÔNG NGHIỆP
(Nghiên cứu trường hợp tại Khu công nghiệp Bắc Thăng Long,
xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội)


Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Quyết


Hà Nội - 2014
Lời cảm ơn

Để có được bản luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc tới đến Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội,

phòng đào tạo sau đại học, đặc biệt là PGS.TS. Phạm Văn Quyết đã trực tiếp
hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo - Các nhà khoa học đã trực
tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành xã hội học
cho bản thân tác giả trong những năm tháng qua.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cán bộ trạm y tế xã, người dân thường
trú, nhóm công nhân nhập cư, nhóm buôn bán nhỏ/bán hàng rong, nhóm xe
ôm tại xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi giúp tác giả thu thập thông tin, tìm hiểu số liệu cũng như những tài liệu
nghiên cứu cần thiết liên quan tới đề tài tốt nghiệp.
Cuối cùng, em muốn gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, và đặc biệt là gia
đình, những người luôn kịp thời động viên khuyến khích và cảm thông sâu
sắc. Nhân đây tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm.
Xin chân thành cảm ơn!







1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Ý nghĩa nghiên cứu 6
2.1. Ý nghĩa khoa học 6
2.2. Ý nghĩa thực tiễn 7
3. Tổng quan nghiên cứu 7

3.1. Những nghiên cứu về lao động nhập cư nói chung 7
3.2. Những nghiên cứu về dịch vụ y tế của lao động nhập cư 10
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 13
4.1. Mục đích nghiên cứu 13
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 14
5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 14
5.1. Đối tượng nghiên cứu 14
5.2. Khách thể nghiên cứu 14
5.3. Phạm vi nghiên cứu. 14
6. Câu hỏi nghiên cứu 15
7. Phƣơng pháp nghiên cứu 15
7.1. Phân tích tài liệu 15
7.2. Phỏng vấn sâu 15
7.3. Thảo luận nhóm 15
7.4. Phiếu phỏng vấn nhóm công nhân nhập cư 15
7.5. Phương pháp chọn mẫu 16
8. Khung lý thuyết 16
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 18
1.1 Các khái niệm 18
1.1.1 Dịch vụ 18
1.1.2 Dịch vụ y tế 18
1.1.3 Tiếp cận 19
1.1.4 Rào cản 19
1.1.5 Di cư 20

2
1.1.6 Lao động nhập cư 21
1.1.7 Khu công nghiệp 22
1.2 Lý thuyết áp dụng 22
1.2.1 Lý thuyết hành động xã hội 22

1.2.2 Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý 25
1.2.3 Lý thuyết lực hút – đẩy 27
1.2.4 Một số lý thuyết xã hội học sức khỏe và y tế 29
1.3 Quản lý nhà nƣớc đối với lao động nhập cƣ trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội 33
1.4 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 35
Chƣơng 2: TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ Y TẾ CỦA LAO
ĐỘNG NHẬP CƢ 37
2.1 Đặc điểm của lao động nhập cƣ tại xã Kim Chung, huyện Đông Anh,
Hà Nội 37
2.2 Việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ Y tế của lao động nhập cƣ 41
Chƣơng 3: NHỮNG KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI VIỆC TIẾP CẬN DỊCH VỤ Y TẾ
49
3.1 Những rào cản từ phía ngƣời lao động và gia đình 49
3.2 Những rào cản từ phía cộng đồng, xã hội 66
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC 85










3
TỪ VIẾT TẮT


AAV
BHYT
BHXH
CHXHCN
CSSK
DTTS
PTTH
TCTK
THCS
UNDP
UNFPA
ActionAid Việt Nam
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm xã hội
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Chăm sóc sức khỏe
Dân tộc thiểu số
Phổ thông trung học
Tổng cục thống kê
Trung học cơ sở
Chương trình liên hiệp quốc về phát triển
Quỹ hoạt động dân số Liên hiệp quốc
















4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.3: Đặc điểm cơ bản của xã Kim Chung
Bảng 2.4: Loại hình công việc chính của công nhân nhập cư theo giới tính (%)
Hình 2.5: Đặc điểm của nhóm công nhân nhập cư (%)
Bảng 2.6: Loại hình dịch vụ y tế công nhân nhập cư thường xuyên sử dụng (%)
Bảng 2.7: Loại hình dịch vụ y tế công nhân nhập cư thường xuyên sử dụng, chia theo
trình độ học vấn (%)
Hình 2.8: Cơ sở y tế con/cháu công nhân nhập cư thường đi khám chữa bệnh (%)
Hình 2.9: Các chế độ y tế con/cháu dưới 6 tuổi công nhân được hưởng (%)
Bảng 2.10: Mức độ sử dụng dịch vụ y tế tại nhà máy, xí nghiệp của công nhân
nhập cư (%)
Bảng 2.11: Đánh giá của công nhân chất lượng dịch vụ y tế nhà máy, xí
nghiệp (%)
Bảng 3.12: Loại hình dịch vụ y tế công nhân nhập cư thường xuyên sử dụng,
chia theo thu nhập (%)
Bảng 3.13: Tỷ lệ công nhân nhập cư cho biết phương án điều trị khi bị bệnh,
chia theo giới tính và tình trạng hôn nhân (%)
Bảng 3.14: Tỷ lệ công nhân nhập cư cho biết phương án điều trị khi bị bệnh,
chia theo thu nhập (%)
Bảng 3.15: Đánh giá về cơ sở hạ tầng y tế dịch vụ công của công nhân nhập
cư (%)

Bảng 3.16: Thời gian chờ đợi khi đi khám chữa bệnh (%)
Bảng 3.17: Tỷ lệ công nhân nhập cư biết các chính sách chăm sóc sức khỏe
dành cho người nhập cư ở địa phương (%)
Bảng 3.18: Lý do công nhân nhập cư không biết các chính sách chăm sóc sức
khỏe dành cho người nhập cư ở địa phương (%)


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê
cho thấy tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh, trong thời kỳ 1999-2009,
dân số thành thị đã tăng lên với tỷ lệ tăng bình quân năm là 3,4%, trong khi ở
khu vực nông thôn tỷ lệ tăng dân số chỉ có 0,4%/năm. Tỷ lệ tăng dân số đô thị
hiện nay được ước tính sẽ tiếp tục tăng trong 10 năm tới và các năm tiếp theo.
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng đang thu hút một lực lượng lao động lớn từ
các khu vực nông thôn lên đô thị, đặc biệt là các thành phố lớn.
Dòng người lao động từ nông thôn ra đô thị và vào các khu công
nghiệp vẫn tiếp tục diễn ra và có xu hướng gia tăng. Với cơ chế thị trường
ngày càng phát triển sức lao động được giải phóng, người nông dân trong lúc
không có việc hoặc sau mùa vụ đã ra các đô thị tìm kiếm việc làm để tăng thu
nhập cho gia đình là một nhu cầu chính đáng, như là một giải pháp sinh kế
của người dân. Thay đổi của xã hội đã tác động mạnh mẽ đến xã hội nông
thôn, mong muốn làm giàu, vươn lên trong cuộc sống. Bởi đô thị với ý nghĩa
là thị trường lao động đa dạng, đang có sức hút lớn đối với người lao động và
mang lại thu nhập cao cho người di cư. Tuy nhiên bên cạnh sự gia tăng dân số
ở các khu vực đô thị không đồng hành cùng với sự đáp ứng về cơ sở hạ tầng
cũng như đáp ứng các nhu cầu về các dịch vụ xã hội cho người lao động nhập
cư tại các điểm đến.
Tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế là một nhiệm vụ

hết sức quan trọng của ngành y tế, là một trong những mục tiêu chính nhằm
đảm bảo tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân tiến tới đảm bảo
công bằng về an sinh xã hội. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thì
điều cơ bản để đảm bảo công bằng trong CSSK là phải đảm bảo công bằng
trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân, đặc biệt là những lao

6
động nhập cư. Chủ đề nghiên cứu về việc tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm
lao động nhập cư thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Tuy
nhiên cụ thể về dịch vụ y tế của nhóm lao động nhập cư mới tiếp cận ở vài
khía cạnh tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế của nhóm lao động nhập cư, chưa có
sự chuyên sâu tìm hiểu cụ thể những rào cản việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ
y tế của lao động nhập cư ở khu công nghiệp.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Những rào cản đối với việc tiếp cận dịch vụ y tế của lao động nhập cư ở khu
công nghiệp”. Trong bối cảnh hiện nay, quá trình phát triển kinh tế toàn cầu
đã tác động việc tiếp cận các dịch vụ y tế của nhóm lao động nhập cư hiện
nay như thế nào? Qua nghiên cứu tìm hiểu những rào cản đối với việc tiếp cận
dịch vụ y tế của lao động nhập cư?
2. Ý nghĩa nghiên cứu
2.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài góp phần bổ sung tài liệu, làm phong phú hơn những nghiên
cứu về đời sống, việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội của lao động nhập cư.
- Cung cấp những số liệu cần thiết về việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ
y tế của lao động nhập cư ở khu công nghiệp, làm tài liệu cơ sở cho những đề
tài nghiên cứu sâu hơn về chủ đề lao động nhập cư.
- Nghiên cứu này được tiến hành thông qua việc vận dụng một số khái
niệm như: dịch vụ, dịch vụ y tế, di cư, lao động nhập cư…. Các lý thuyết
được sử dụng trong nghiên cứu như lý thuyết sự lựa chọn hợp lý, lý thuyết về
lực hút – đẩy, lý thuyết hành động xã hội và một số lý thuyết về xã hội học y

tế và sức khỏe.

7
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu được thực hiện nhằm góp phần phác họa tình hình tiếp cận
và sử dụng các dịch vụ y tế của lao động nhập cư. Tìm hiểu những yếu tố cản
trở đến việc tiếp cận dịch vụ y tế của lao động nhập cư tại khu công nghiệp.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cá nhân, tổ chức quan tâm khi nghiên cứu về lao động nhập cư.
Bên cạnh đó, thông qua tìm hiểu những rào cản trong tiếp cận dịch vụ y
tế của lao động nhập cư có thể là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách trong việc nghiên cứu các chính sách cho lao động nhập cư, nhất là
các chính sách về y tế.
3. Tổng quan nghiên cứu
3.1. Những nghiên cứu về lao động nhập cư nói chung
Trong bài viết về “Lao động nông thôn di cư ra thành thị: Thực trạng
và khuyến nghị” của Nguyễn Đình Long
1
và Nguyễn Thị Minh Phượng
2
cho
thấy, di cư từ nông thôn ra thành thị và các Khu công nghiệp ở nước ta ngày
càng có xu hướng gia tăng và có tính phổ biến rộng khắp trên các vùng nông
thôn trong cả nước. Đặc trưng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị và các
Khu công nghiệp ở nước ta là ngày càng trẻ hóa. Di cư tự do từ nông thôn ra
thành thị góp phần mang lại sự cân bằng về phân phối lực lượng lao động.
Tăng thêm thu nhập có điều kiện cải thiện cuộc sống bản thân và gia đình.
Tác động trực tiếp đến người lao động, có thêm điều kiện và cơ hội trong phát
triển. Phần nào đã giảm được tỷ lệ sinh đẻ ở nông thôn. Do sự gia tăng một
cách nhanh chóng và có tính tự phát dòng người từ nông thôn ra thành thị,



1
PGS.TS. Nguyễn Đình Long, công tác tại Viện CSCL Bộ Nông nghiệp và PTNT, lĩnh vực nghiên cứu
chính: Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
2
TS. Nguyễn Thị Minh Phượng, công tác tại Đại Học Vinh

8
vượt quá khả năng kiểm soát và sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng và
dịch vụ xã hội.
Tuy nhiên, việc có quá đông người nhập cư cũng gây ra những áp lực
nhất định về vệ sinh môi trường, giáo dục, y tế và an ninh trật tự tại các điểm
đến. Lượng người nhập cư ngày một tăng trong khi cơ sở vật chất, nhân lực
không đáp ứng kịp cũng gây ra tình trạng quá tải tại các trường học, cơ sở y
tế. Tệ nạn xã hội (trộm cắp, nghiện hút) tăng lên trong những năm gần đây
cũng được cho là hệ lụy của lượng người nhập cư tăng nhanh
3
.
Theo nghiên cứu của UNFPA về “Tận dụng cơ hội dân số “vàng‟ ở
Việt Nam: Cơ hội, thách thức và các gợi ý chính sách” cho thấy, dịch chuyển
lao động thông qua di cư, đặc biệt là lao động trẻ tuổi, sẽ tạo động lực phát
triển kinh tế, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững. Lao động di cư trong
thanh niên tăng nhanh, nhưng các chính sách lao động, việc làm và các dịch
vụ xã hội liên quan còn nhiều bất cập, đặc biệt các chính sách về thu nhập,
nâng cao kỹ năng và tay nghề. Khả năng tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã
hội của nhóm lao động di cư - nhóm lao động dễ tổn thương nhất trước các cú
sốc kinh tế còn rất thấp. Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của các nhóm dân
số rất khác nhau, trong đó người nghèo, người dân tộc thiểu số và người di cư
ít có khả năng tiếp cận hơn.

Báo cáo “Chuyển đổi thị trường và an sinh xã hội ở Việt Nam”, chủ
biên Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng – Viện Nghiên cứu phát triển xã hội
(2008) cho thấy người dân di cư không chỉ bị cô lập về mặt xã hội mà còn bị
cô lập về mặt không gian bởi họ phải sống trong những nơi không có đủ nhà ở
và không được tiếp cận đầy đủ với nước sạch và vệ sinh. Thực trạng này một
phần là do tác động của mục đích tiết kiệm cao trong điều kiện thu nhập thấp
của người di cư, nhưng phần lớn là do các chính sách hiện hành đang thành


3
Oxfam và AAV, Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia, báo cáo tổng hợp 5 năm, 2012

9
những rào cản người di cư tiếp cận với các dịch vụ xã hội. Cùng với nhận
thức còn kém và thu nhập thấp của bản thân người lao động thì những rào cản
chính sách là nguyên nhân chủ yếu. Việc quản lý theo hộ khẩu hoặc hợp đồng
lao động khiến cho nhiều người lao động di cư không bao giờ có thể tiếp cận
dịch vụ an sinh xã hội vì rất khó để họ có thể có được hộ khẩu ở thành phố và
công việc của họ phần lớn là công việc mùa vụ, ngắn ngày. Hơn nữa, các quy
định hiện nay của hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, kể cả chế độ tự
nguyện, thường quá cao so với khả năng đáp ứng của người lao động di cư.
Theo báo cáo “Thanh niên Việt Nam: Tóm tắt một số chỉ số thống kê Từ
Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam,” của UNFPA (2009) cho thấy điểm
đến của thanh niên di cư, trong độ tuổi 15-24 có xu hướng di cư ra thành thị,
trong khi ở độ tuổi từ 25 trở lên lại có xu hướng di cư đến cả hai khu vực
thành thị và nông thôn. Điều này cho thấy di cư của thanh niên đóng vai trò
quan trọng trong phát triển khu vực đô thị trong thập kỷ vừa qua. Điều này
cũng có nghĩa là chỉ khi chính sách phát triển đô thị phù hợp có tính đến các
dòng di cư và sự biến động dân số thì lúc đó người di cư mới có thể tiếp cận
được tới các dịch vụ xã hội và cơ hội việc làm. Quan trọng hơn, do nữ giới

chiếm tỷ trọng lớn trong số thanh niên di cư nên việc cung cấp các dịch vụ
sức khỏe sinh sản cho nữ thanh niên di cư nhằm bảo vệ họ trước các rủi ro
sức khỏe không đáng có là điều rất cần thiết.
Theo báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia
vòng 4” của Oxfam và AAV (2011), người nghèo đô thị bao gồm cả người
bản xứ và người nhập cư, gặp nhiều bất lợi khi đối mặt với đa cú sốc, điển
hình là lạm phát cao trong năm 2011. Giá cả tăng đã làm giảm sức mua, giảm
chất lượng cuộc sống nhất là về dinh dưỡng và sức khỏe, giảm tiếp cận dịch
vụ công, làm trầm trọng thêm các khó khăn cố hữu của người nghèo. Giá cả
tăng cũng làm giảm mạnh tiền tiết kiệm và tiền gửi về nhà, gây bất ổn nghề

10
nghiệp và căng thẳng trong quan hệ lao động của người nhập cư. Liên kết
nông thôn - thành thị rất quan trọng với giảm nghèo nông thôn, do đó khó
khăn của người nhập cư sẽ ảnh hưởng bất lợi đến giảm nghèo bền vững trên
bình diện cả nước.
Nhìn chung, đã có nhiều các công trình nghiên cứu về nhóm đối tượng
lao động nhập cư. Trên đây là một số công trình nghiên cứu về thực trạng của
di cư từ nông thôn lên thành thị, những thuận lợi và khó khăn của lao động
nhập cư, đặc điểm của nhóm lao động nhập cư, mức độ tiếp cận của họ đối với
hệ thống an sinh xã hội, cơ sở hạ tầng tại các điểm đến. Đây là nguồn tài liệu
giúp tác giả có thể tiếp thu, kế thừa khi xây dựng cơ sở lý luận và quá trình
thực tiễn nghiên cứu để hoàn thiện luận văn của mình.
3.2. Những nghiên cứu về dịch vụ y tế của lao động nhập cư
Báo cáo “Sức khỏe Sinh sản cho Lao động nhập cư” của UNFPA
(2008) nhận thấy, hiểu biết của công nhân về sức khỏe sinh sản có nhiều hạn
chế, thậm chí nhiều đối tượng phỏng vấn chưa từng nghe tới cụm từ sức khỏe
sinh sản. Các dịch vụ hiện có chưa sẵn sàn và chưa đủ khả năng đáp ứng được
nhu cầu về thông tin, kiến thức cũng như nhu cầu dịch vụ sức khỏe sinh sản
của người nhập cư lao động, đặc biệt là những người trẻ tuổi.

Theo “Báo cáo Dân số và Phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một
chiến lược mới 2011-2020” của UNFPA (2009), người di cư cho biết họ vẫn
gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế hay giáo dục cho con em họ.
Việc đăng ký tạm trú chính thức ở nơi ở mới cũng không phải dễ dàng và điều
này có thể có những hệ quả nhất định; người nhập cư thường khó vay được
tiền ngân hàng và không có tiền gửi tiết kiệm, bị nhiều hạn chế trong việc tiếp
cận các chế độ an sinh xã hội cũng như các dịch vụ xã hội y tế, giáo dục tại
địa phương cư trú. Ngoài ra, một vấn đề liên quan khác là người nhập cư là
phụ nữ trẻ, chưa lập gia đình thường có ít kiến thức về sức khỏe sinh sản hơn

11
so với người không nhập cư cùng độ tuổi và cùng tình trạng hôn nhân. Người
nhập cư thường ít đến các cơ sở y tế hơn khi ốm đau.
Theo số liệu từ tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009
4
, nói
chung tổng tỷ suất sinh hầu như không có sự khác biệt giữa người di cư và
không di cư trên phạm vi cả nước (1,97 và 2,04 con/phụ nữ). Tuy nhiên, khi
phân tích riêng khu vực thành thị và nông thôn, sự khác biệt này là khá rõ.
Trong khi ở khu vực thành thị, tổng tỷ suất sinh của người không di cư lớn
hơn 0,29 con/phụ nữ so với người di cư, thì ở nông thôn con số đó của người
di cư lại lớn hơn 0,41 con/phụ nữ so với người không di cư. Điều này có thể
là do, đa số phụ nữ di cư ngoại tỉnh đến khu vực thành thị là trẻ và họ di
chuyển đến nơi ở mới để tìm việc làm, thường phải đối mặt với nhiều khó
khăn, như nếu sinh con sẽ có ít cơ hội tìm kiếm việc làm hay họ cần phải học
tập để nâng cao khả năng của mình, chính vì vậy họ quyết định trì hoãn hoặc
sinh ít con hơn so với phụ nữ đã ở thành thị từ trước.
Theo Báo cáo “Đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh” của UNDP (2010)
5

cho thấy, dù thu nhập không cao nhưng những
người nhập cư vẫn phải chi tiêu một khoản tiền tương đương với cư dân
thường trú (tức là những người đã có nhà ở thành phố). Người trẻ di cư thờ ơ
với chăm sóc sức khỏe do điều kiện kinh tế hạn chế cũng như bị hạn chế trong
việc tiếp cận các dịch vụ y tế tại địa phương. Thông thường, những người dân
di cư (trong đó có thanh thiếu niên) có xu hướng lựa chọn các bệnh viện tư,
phòng khám tư nhiều hơn là các bệnh viện tuyến trung ương. Đối tượng thanh


4
Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Mức sinh và mức chết ở Việt Nam:
Thực trạng, xu hướng và những khác biệt
5
Dự án “Hỗ trợ đánh giá sâu về tình trạng nghèo đô thị ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh” do Chương
trình Phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP) tài trợ với cơ quan chủ quản là Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội
và Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, và cơ quan thực hiện dự án là Cục Thống kê Thành phố Hà
Nội, và Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.

12
thiếu niên nhập cư vào Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có mức chi tiêu cho chăm
sóc sức khỏe hằng năm thấp hơn 2 – 3 lần so với dân thường trú.
Báo cáo “Di cư trong nước và Phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam:
Kêu gọi hành động” của UNDP (2010) nhận thấy hệ thống đăng ký hộ khẩu
ở Việt Nam đã ảnh hưởng đến sự tiếp cận của người di cư tới các dịch vụ cơ
bản và các dịch vụ hỗ trợ đặc biệt của Chính phủ. Các dịch vụ do Chính phủ
cung cấp chẳng hạn như các dịch vụ y tế (bao gồm cả sức khỏe sinh sản, giáo
dục, chăm sóc và điều trị HIV và tiếp cận với các dịch vụ xóa đói giảm nghèo
đều gắn chặt với hệ thống đăng ký hộ khẩu. Người dân di cư không bị hạn chế
về mặt luật pháp trong việc tiếp cận một số dịch vụ nhưng trên thực tế họ
thường phải chịu những hạn chế này. Chẳng hạn con cái của những người

không có hộ khẩu thường trú được phép đi học tại các trường trong huyện/địa
bàn cư trú nhưng chỉ trong trường hợp còn chỗ sau khi con cái của người có
hộ khẩu thường trú đã nhập học. Thông thường, những người dân di cư đặc
biệt cần các dịch vụ xã hội lại thường là những người bị bỏ qua, do các đặc
điểm yếu thế về xã hội và kinh tế liên quan tới tình trạng di cư của họ. Chẳng
hạn rất nhiều người dân di cư không đăng ký hộ khẩu làm việc trong khu vực
phi chính thức và sống trong các ngôi nhà không an toàn và không hợp vệ
sinh và chính những điều đó khiến họ dễ gặp rủi ro hơn về sức khỏe. Trong
bối cảnh khi mà các chi phí sinh hoạt tại thành thị ngày càng tăng mà mức
tăng lương lại không tương đương với mức tăng giá, thì việc thiếu các dịch vụ
hỗ trợ xã hội cho người dân di cư tại thành thị sẽ là vấn đề đặc biệt đáng báo
động.
Theo báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia,
báo cáo tổng hợp 5 năm” của Oxfam và AAV (2012), hạn chế về y tế là bất
lợi chung của người nghèo, đặc biệt là người nghèo nhập cư. Tình trạng quá
tải tuyến y tế xã/phường vẫn tiếp tục xảy ra, nên một số trẻ em nhập cư không

13
được hưởng đầy đủ dịch vụ. Một số trẻ em nhập cư phải về quê tiêm chủng
hoặc tiêm theo dịch vụ do cha mẹ chưa biết thông tin về thủ tục đăng ký tiêm
chủng tại phường cho trẻ, do trạm y tế thiếu vắcxin Người nhập cư làm
nghề tự do vẫn ít quan tâm đến BHYT tự nguyện. Giá mua BHYT liên tục
tăng nên người nhập cư phải cân nhắc với các khoản chi phí khác, hoặc họ
chưa nắm được thông tin về nơi mua.
Theo bài viết “Đời sống xã hội của thanh niên nhập cư lao động phổ
thông tại các cơ sở sản xuất nhỏ ở TP. Hồ Chí Minh” của Phạm Thanh Thôi
đăng trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, số 5 –
2013. Cho thấy, đời sống văn hóa, giải trí và khả năng tiếp cận các dịch vụ y
tế của thanh niên nhập cư còn nghèo nàn. Một khi người lao động tai nạn lao
động hay bệnh tật, tất cả họ phải tự chịu trách nhiệm, chủ cơ sở có giúp chăng

cũng mang tính hỗ trợ một phần. Các cơ sở sản xuất chưa có chính sách hay
kế hoạch gì để cải thiện vấn đề này trong chiến lược đầu tư, phát triển kinh tế
của họ.
Nhìn chung, những nghiên cứu về dịch vụ y tế của lao động nhập cư
được đề cập ở mức độ nhất định. Nhiều vấn đề liên quan đến tìm hiểu việc
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ này của nhóm đối tượng lao động nhập cư
cũng như những rào cản đối với việc tiếp cận dịch vụ y tế đang còn rải rác,
chưa tập trung. Chính vì thế, việc nghiên cứu đề tài: “Những rào cản đối với việc
tiếp cận dịch vụ y tế của lao động nhập cư ở khu công nghiệp” là rất cần thiết.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích làm sáng rõ những rào cản trong tiếp
cận và sử dụng dịch vụ y tế của lao động nhập cư tại khu công nghiệp hiện
nay. Từ đó đề xuất các giải pháp giúp lao động nhập cư tháo gỡ các khó khăn
trong tiếp cận dịch vụ y tế.

14
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết về vấn đề tiếp cận dịch vụ y tế của người nhập
cư và những rào cản đối với họ.
- Khảo sát thực địa và phân tích những tài liệu có liên quan đến đề tài về
dịch vụ y tế dành cho lao động nhập cư.
- Xử lý, phân tích các số liệu, thông tin thu thập được để tìm hiểu việc tiếp
cận và sử dụng các dịch vụ y tế của lao động nhập cư và làm rõ những rào cản
đối với việc tiếp cận dịch vụ y tế của lao động nhập cư.
5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Những rào cản trong tiếp cận dịch vụ y tế của lao động nhập cư.
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Nhóm công nhân nhập cư.

- Nhóm lao động tự do nhập cư: buôn bán nhỏ/bán hàng rong và xe ôm.
- Nhóm cán bộ trạm y tế xã Kim Chung.
- Nhóm người dân thường trú tại xã Kim Chung.
5.3. Phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian: Trong báo cáo này tác giả tập trung nghiên cứu tại
Khu công nghiệp Bắc Thăng Long, xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội.
- Về thời gian: Thời gian tiến hành nghiên cứu là từ tháng 7/2014 đến
tháng 12/2014.
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các nhóm lao động
nhập cư: Nhóm công nhân nhập cư, nhóm buôn bán nhỏ/bán hàng rong, nhóm
xe ôm.

15
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của lao động nhập cư ở khu
công nghiệp hiện nay như thế nào?
- Những khó khăn đối với việc tiếp cận dịch vụ y tế của lao động nhập
cư ở khu công nghiệp?
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phân tích tài liệu
Thông qua các báo cáo, các tài liệu, các văn bản, đặc biệt là những tài
liệu liên quan đến lao động nhập cư được tác giả tiến hành thu thập thông tin
đáp ứng mục tiêu nghiên cứu. Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng
như là một phương pháp bổ sung cho việc thu thập thông tin. Ngoài ra nó còn
được xem như là một phương tiện để việc đối chiếu với các nguồn thông tin
thu được từ các phương pháp khác.
7.2. Phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu các nhóm đối tượng lao động nhập cư gồm: công nhân
nhập cư, buôn bán nhỏ/bán hàng rong, xe ôm, người dân thường trú tại hai
thôn Bầu và thôn Hậu Dưỡng, cán bộ trạm y tế xã Kim Chung. Nghiên cứu đã

tiến hành 12 cuộc phỏng vấn sâu.
Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm khai thác những thông tin sâu
hơn của đề tài nghiên cứu. Hơn nữa, tác giả cũng bổ sung thêm cho phương
pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi nhằm khai thác sâu hơn khía cạnh quan tâm
nhưng chưa được đề ra trong bảng hỏi chính. Những thông tin phỏng vấn sâu
sẽ giải thích thêm những yếu tố chưa rõ nét trong bảng hỏi.
7.3. Thảo luận nhóm
Tiến hành thảo luận các nhóm: nam nữ công nhân nhập cư, nam nữ buôn
bán nhỏ/bán hàng rong, nhóm xe ôm, nhóm người dân thường trú. Nghiên cứu
đã tiến hành 7 cuộc thảo luận nhóm, trong đó có 14 nam và 27 nữ.
7.4. Phiếu phỏng vấn nhóm công nhân nhập cư
Sử dụng một bảng hỏi dành riêng cho nhóm công nhân nhập cư làm
việc trong các doanh nghiệp, tập trung vào tìm hiểu thông tin về đặc điểm

16
nhân khẩu, mức sống, việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế, những rào
cản tiếp cận dịch vụ y tế. Địa điểm phỏng vấn (chọn mẫu theo phương pháp
bắt gặp ngẫu nhiên) tại một số khu nhà trọ công nhân trên địa bàn. Đã hoàn
thành được 390 phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư tại hai thôn Bầu và thôn
Hậu Dưỡng. Trong số 390 người trả lời phiếu phỏng vấn có 111 người là nam
giới, 279 người là nữ giới.
7.5. Phương pháp chọn mẫu
Tác giả tiến hành chọn dung lượng mẫu theo phương pháp lựa chọn
không lặp lại. Địa bàn được chọn phỏng vấn phiếu công nhân nhập cư là thôn
Bầu và thôn Hậu Dưỡng thuộc xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội. Số
lượng công nhân nhập cư tính đến tháng 8/2014 tại hai thôn ước khoảng
17.000 công nhân. Áp dụng công thức tính dung lượng mẫu:
Nt
2
x 0.25

n =

2
+ t
2
x 0.25


Trong đó: N – tổng dung lượng mẫu
n – dung lượng mẫu cần chọn
Ɛ – phạm vi sai số chọn mẫu
t – hệ số tin cậy
Với yêu cầu mức độ tin cậy là 95% và sai số không vượt quá 5%. Tác
giả đã chọn được dung lượng mẫu cần phỏng vấn là:
17.000 x 2
2
x 0.25
n = =390
17.000 x 0.05
2
+ 2
2
x 0.25

Như vậy, tổng dung lượng mẫu công nhân cần tiến hành phỏng vấn 390
phiếu công nhân.
8. Khung lý thuyết


17



TIẾP
CẬN
DỊCH
VỤ Y
TẾ

Những
rào cản
từ phía
người lao
động và
gia đình

Những
rào cản
từ phía
cộng
đồng, xã
hội
Thiếu cán bộ
y tế
Sự thuận tiện
của dịch vụ
Thiếu thông
tin chương
trình CSSK và
hệ thống y tế
nơi đến


Tâm lý kỳ thị
người nhập cư
Thời gian làm
việc
Áp lực kiếm
tiền
Bảo hiểm y tế
Cơ sở vật chất
Thu nhập thấp
Tình trạng sống
lưu động
Thói quen tự
điều trị

18
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Dịch vụ
Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương
tự như hàng hoá nhưng phi vật chất [Từ điển Wikipedia]. Theo quan điểm
kinh tế học, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như:
dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ và mang lại lợi nhuận.
Philip Kotler định nghĩa dịch vụ: “Dịch vụ là mọi hành động và kết quả
mà một bên có thể cung cấp cho bên kia và chủ yếu là vô hình và không dẫn
đến quyền sở hữu một cái gì đó. Sản phẩm của nó có thể có hay không gắn
liền với một sản phẩm vật chất”[20].
Nguyễn Văn Thanh cho rằng: “Dịch vụ là một hoạt động lao động sáng
tạo nhằm bổ sung giá trị cho phần vật chất và làm đa dạng hoá, phong phú
hoá, khác biệt hoá, nổi trội hoá… mà cao nhất trở thành những thương hiệu,

những nét văn hoá kinh doanh và làm hài lòng cao cho người tiêu dùngđể họ
sẵn sàng trả tiền cao, nhờ đó kinh doanh có hiệu quả hơn”[20].
Tóm lại, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc
độ khác nhau nhưng tựu chung thì:
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của
con người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể
(hữu hình) như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của
xã hội.
1.1.2 Dịch vụ y tế
Tại Điều 2, Luật Khám bệnh chữa bệnh số 40/2009/QH12 ngày
23/11/2009 định nghĩa: Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh là cơ sở cố định hoặc

19
lưu động đã được cấp giấy phép hoạt động và cung cấp dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh; Người bệnh là người sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.
Dịch vụ y tế là dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động chăm sóc sức khoẻ
cho cộng đồng, cho con người mà kết quả là tạo ra các sản phẩm hàng hoá
không tồn tại dưới dạng hình thái vật chất cụ thể, nhằm thoả mãn kịp thời
thuận tiện và có hiệu quả hơn các nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng và
con người về chăm sóc sức khoẻ.
Dịch vụ y tế gồm 2 yếu tố: Tiêu thụ và đầu tư, sức khoẻ là kết quả trực
tiếp của việc tiêu thụ phúc lợi đồng thời người lao động có sức khoẻ sẽ đóng
góp cho sản xuất và đầu tư.
1.1.3 Tiếp cận
Sự tiếp cận là một cụm từ chung dùng để miêu tả mức độ một sản
phẩm, thiết bị, dịch vụ, hoặc môi trường có thể được sử dụng bởi càng nhiều
người càng tốt. Sự tiếp cận có thể được xem như khả năng tiếp cận và khả
năng hưởng lợi từ một hệ thống hay vật chất.[39]
Tiếp cận dịch vụ y tế được hiểu là khi đối tượng đến cơ sở y tế để sử
dụng bất cứ hình thức cung cấp dịch vụ như tư vấn, khám, điều trị, mua thuốc

do cơ sở y tế cung cấp. Mục đích của dịch vụ y tế là đến với mọi người cộng
đồng, nhằm thoả mãn nhu cầu về sức khoẻ cho con người và cộng đồng.
1.1.4 Rào cản
Rào cản có nghĩa là những cản trở, trở ngại, khó khăn đòi hỏi nhiều nỗ
lực để vượt qua. Trong thực tiễn, với bất kỳ một hoạt động nào của con người
tham gia đều có thể gặp phải những khó khăn, rào cản làm cho hoạt động hay
quá trình đó đi lệch hướng với mục tiêu đã đặt ra, không thể tiếp tục hoạt
động hoặc hoạt động không đạt hiệu quả như mong muốn. Những khó khăn,
rào cản đó đượcc tạo nên bởi một hay nhiều yếu tố mang sắc thái tiêu cực gây

20
nên. Người ta thường gọi chung rào cản là những khó khăn, trở ngại cản trở
đối với quá trình hoạt động của con người.
Rào cản đối với tiếp cận dịch vụ y tế được hiểu là những cản trở, trở
ngại, khó khăn khi đối tượng đến cơ sở y tế để sử dụng bất cứ hình thức cung
cấp dịch vụ như tư vấn, khám, điều trị, mua thuốc do cơ sở y tế cung cấp.
1.1.5 Di cư
Di cư, có hai nghĩa; thứ nhất: di cư là hiện tượng di chuyển để mưu
sinh của bầy đoàn khi chuyển mùa; thứ hai: di cư là hiện tượng người dân
dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác để sinh sống. Di cư theo nghĩa thứ hai
được hiểu đồng nghĩa với di dân.
Theo nghĩa rộng, di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong
một không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm
thời hay vĩnh viễn. Với khái niệm này di dân đồng nhất với sự di động dân cư [1]
Theo nghĩa hẹp, di dân là sự chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này
đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một
khoảng thời gian nhất định. Định nghĩa này được Liên Hợp Quốc sử dụng
nhằm khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển theo một khoảng cách nhất
định qua một địa giới hành chính, với việc thay đổi nơi cư trú. [1]
Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa về di cư (1958) như sau: “Di cư là

một hình thức di chuyển trong không gian của con người từ một đơn vị lãnh
thổ này tới một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc sự di chuyển với khoảng cách tối
thiểu quy định. Sự di chuyển này diễn ra trong một khoảng thời gian di cư xác
định và đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên”
Trong khái niệm di dân, người ta còn phân biệt và đặc biệt quan tâm
đến hai yếu tố cấu thành quá trình này là xuất cư và nhập cư. Nhập cư và xuất
cư bao gồm sự chuyển đến và chuyển đi khỏi khu vực nào đó. Dựa vào những
quy ước nói trên mà hai cấu thành được xác định: [1]:

21
- Xuất cư là việc di chuyển nơi cư ra khỏi một đơn vị hành chính tạm
thời hay vĩnh viễn, thời gian ngắn hoặc dài. Đây là hiện tượng phổ biến ở
nhiều quốc gia do tình trạng dự mức sống, thu nhập và lao động phân bố
không đồng đều. Xuất cư có ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế, văn hóa xã hội,
nhân khẩu của địa bàn nơi đến cũng như nơi đi.
- Nhập cư là sự di chuyển đến một khu vực hoặc đơn vị hành chính
khác, thậm chí tại một quốc gia khác. Quá trình này thường xuyên bị chi phối
bởi nhiều nhân tố như kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo … Cũng như xuất cư,
nhập cư có ảnh hưởng quan trọng đến địa bàn đầu đến và đầu đi. Đặc biệt
nhập cư đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nên các đơn vị hành
chính mới ở một số khu vực còn thưa dân của một quốc gia, cũng như góp
phần hình thành dân số của nhiều quốc gia trong lịch sử Hoa Kỳ, Canada,
Ôxtrâylia, Morixớt.
Sự chênh lệch giữa nhập cư và xuất cư gọi là di cư thuần túy, sự tương
quan này sẽ làm cho trị số của gia tăng cơ học của dân số là dương (nếu số
người xuất cư ít hơn số nhập cư) hoặc là âm (khi số người xuất cư nhiều hơn
số người nhập cư).
1.1.6 Lao động nhập cư
Trong cuộc Điều tra di cư Việt Nam năm 2004, người di cư được định
nghĩa là những người từ 15-59 tuổi di chuyển từ quận/huyện này sang

quận/huyện khác trong vòng 5 năm trước thời điểm điều tra, và đã cư trú trên
địa bàn điều tra từ một tháng trở lên. Một người di cư từ quận này sang quận
khá trong nội thành thành phố trong khoảng thời gian 5 năm trước điều tra
được xem là người không di cư. Những người 15-59 tuổi sống tại cùng
quận/huyện ít nhất 5 năm trước điều tra được xem là người không di cư
(TCTK và UNFPA, 2005).

22
Nhập cư là hoạt động di chuyển chỗ ở đến vào một vùng hay quốc gia
mới. Người nhập cư là người dân di chuyển từ một vùng đến một vùng khác
để định cư hoặc tạm trú.
1.1.7 Khu công nghiệp
Theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngày
14/3/2008 về Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, khu
công nghiệp được định nghĩa là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Theo Bách khao toàn thư mở Wikipedia: Khu công nghiệp còn gọi
là khu kỹ nghệ là khu vực dành cho phát triển công nghiệp theo một quy
hoạch cụ thể nào đó nhằm đảm bảo được sự hài hòa và cân bằng tương đối
giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường. Khu công nghiệp thường
được Chính phủ cấp phép đầu tư với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và pháp lý
riêng. Những khu công nghiệp có quy mô nhỏ thường được gọi là cụm công
nghiệp.[38]
Các thành phần lao động nhập cư tại khu công nghiệp:
- Lao động làm việc tại các khu vực chính thức: cán bộ quản lý, công
nhân nhập cư, nhân viên văn phòng…
- Lao động làm việc tại các khu vực phi chính thức: buôn bán nhỏ,bán
hàng rong; xe ôm; nhân viên phục vụ, bán hàng…
1.2 Lý thuyết áp dụng

1.2.1 Lý thuyết hành động xã hội
Định nghĩa của nhà xã hội học người Đức Max Weber về hành động xã
hội được cho là hoàn chỉnh nhất. Ông cho rằng, hành động xã hội là đối tượng

×