Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Giảm nghèo theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.14 KB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
____________________________






LƢU THỊ HUYỀN








GIẢM NGHÈO THEO HƢỚNG BỀN VỮNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH







LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ









HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
____________________________






LƢU THỊ HUYỀN








GIẢM NGHÈO THEO HƢỚNG BỀN VỮNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH


Chuyên ngành
:

KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số
:
60.31.01





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. PHAN HUY ĐƢỜNG





HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Giảm nghèo theo hướng bền vững trên địa
bàn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, tài liệu tham khảo được trích dẫn đảm bảo tính chính
xác, tin vậy và trung thực.
NGƢỜI CAM ĐOAN




LƢU THỊ HUYỀN
















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 10
7. Kết cấu của luận văn 11
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO
THEO HƢỚNG BỀN VỮNG 12
1.1. Quan niệm về nghèo và giảm nghèo theo hướng bền vững 12

1.1.1. Quan niệm về nghèo 12
1.1.2. Nguyên nhân nghèo 16
1.2. Giảm nghèo theo hướng bền vững 20
1.2.1.Quan niệm, nội dung giảm nghèo theo hướng bền vững 20
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo 25
1.3. Kinh nghiệm giảm nghèo theo hướng bền vững tại một số địa phương
và bài học cho huyện Gia Viễn 26
1.3.1. Kinh nghiệm giảm nghèo theo hướng bền vững tại một số địa
phương trong nước 26
1.3.2. Một số bài học rút ra cho huyện Gia Viễn 34
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO THEO HƢỚNG BỀN VỮNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH 36
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới giảm nghèo
theo hướng bền vững ở huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình 36
2.1.1. Điều kiện tự nhiên huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình 36
2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội 41
2.1.3. Thực tiễn xóa đói, giảm nghèo tại tỉnh Ninh Bình thời gian qua 46
2.2. Đánh giá thực trạng giảm nghèo theo hướng bền vững trên địa bàn
huyện Gia Viễn từ năm 2007 đến nay 52
2.2.1. Những thành tựu đạt được 52
2.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện giảm nghèo theo hướng bền
vững trên địa bàn huyện Gia Viễn 68
2.2.3. Những vấn đề đặt ra trong công tác giảm nghèo theo hướng bền
vững 69
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO THEO HƢỚNG BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH 74
3.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước, tỉnh Ninh Bình ảnh hưởng đến giảm
nghèo theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình 74
3.1.1. Bối cảnh Quốc tế 74

3.1.2. Bối cảnh trong nước 76
3.1.3. Bối cảnh tỉnh Ninh Bình 82
3.2. Quan điểm cơ bản về giảm nghèo theo hướng bền vững ở huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình 89
3.2.1 Những quan điểm chung 89
3.2.2. Định hướng cụ thể 92
3.3. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác giảm nghèo theo hướng bền vững
trên địa bàn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình 93
3.3.1. Những giải pháp kinh tế 93
3.3.2. Những giải pháp về xã hội 98
3.3.3. Giải pháp về thể chế 103
3.3.4. Các giải pháp cụ thể giảm nghèo trên địa bàn huyện 106
KẾT LUẬN 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO 115


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Ký hiệu
Ý nghĩa
ASEAN
Tổ chức các nước khu vực Đông Nam á
BHYT
Bảo hiểm y tế
CNH - HĐH
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
ĐBKK
Đặc biệt khó khăn
UBND
Ủy ban nhân dân
MTTQ

Mặt trận tổ quốc
NTM
Nông thôn mới
NHCSXH
Ngân hàng chính sách xã hội
NQ
Nghị quyết
HĐND
Hội đồng nhân dân
HTX
Hợp tác xã
HU
Huyện ủy
KHKT
Khoa học kỹ thuật
FAO
Tổ chức Nông lương Liên Hợp quốc
TU
Tỉnh ủy
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TWMTTQ
Trung ương Mặt trận Tổ quốc
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
TBXH
Thương binh xã hội
XKLĐ
Xuất khẩu lao động
XHCN

Xã hội chủ nghĩa
XĐGN
Xóa đói giảm nghèo


1



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không chỉ là một thực
tế đang diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại phổ biến trên toàn thế giới và
khu vực. Ngay cả những nước phát triển cao, vẫn còn một bộ phận dân cư
sống dưới mức nghèo khổ. So với năm 2008, số người nghèo năm 2009 đã
tăng lên trên 100 triệu người nghèo khổ. Thủ phạm chính của tình trạng này là
cuộc khủng hoảng lương thực kết hợp với suy thoái kinh tế toàn cầu. Các
nước thành viên của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) đã cam kết
đến năm 2015, giảm một nửa số người bị đói trên thế giới. Nhưng từ đó đến
nay, số người bị đói trên Thế giới đã tăng từ 850 triệu người lên gần một tỷ
người và cứ 6 giây có một đứa trẻ bị chết đói. Theo bản báo cáo của FAO, từ
nay đến năm 2050, sản xuất nông nghiệp phải tăng 70% mới có đủ lương thực
để nuôi 9 tỷ người trên thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới, giá lương thực lên
cao làm tăng ngay số người nghèo đói lên và sự giảm sút về thu nhập trên
toàn cầu cũng là một nguyên nhân làm cho tình trạng nghèo đói tồi tệ hơn.
Điều trớ trêu là hầu hết những người nghèo đói trên Thế giới lại là nông dân,
những người sản xuất ra lương thực. Thực tế hơn 60% người dân Châu Phi
làm việc ở nông thôn, trồng trọt và chăn nuôi súc vật, chỉ kiếm được chưa đầy
1 USD/ngày. Năng suất các vụ mùa của họ chỉ bằng 20% năng suất các vụ
mùa ở Châu Âu và Mỹ, bởi vì họ không tiếp cận được với tất cả những điều

kiện cần thiết để tăng sản lượng như giống, phân bón, nước, điện, kỹ thuật và
khả năng tiếp cận thị trường.
Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp
thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn
lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữ vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn
nhất Thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến

2



nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân bố
ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo).
Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là
số liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay từ đầu
năm 1991, vấn đề xóa đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên
cứu và triển khai thành phong trào xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, theo chuẩn
nghèo quốc gia thì tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc đã giảm từ 58% năm 1993 xuống
còn 14,8% năm 2007; theo chuẩn quốc tế thì từ 58% năm 1993 xuống còn
24% vào năm 2004, năm 2008 là 13,4% và còn 12,3% vào năm 2009. Việt
Nam đã sớm đạt mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, nước ta cũng
còn rất nhiều huyện, xã chưa được giải quyết tận gốc vấn đề nghèo đói.
Những kết quả đạt được chưa mang tính bền vững bởi vì thu nhập của người
dân hầu hết đều xoay quanh ở mức cận nghèo. Do vậy rất dễ rơi vào tình
trạng tái nghèo khi gặp những tác động không thuận lợi đến sản xuất và đời
sống của họ. Đặc biệt đối với hộ nông dân miền núi, nơi có những khó khăn
về mặt địa hình, kinh tế xã hội, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng kém phát
triển, trình độ sản xuất hàng hóa và tiếp cận thị trường còn hạn chế. Để đảm

bảo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nước ta từ nay đến năm 2020 cơ bản
thành một nước công nghiệp thì vấn đề xóa đói giảm nghèo cần được ưu tiên
thực hiện hàng đầu.
Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình Trong những năm qua, các cấp ủy
Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ
đạo và có nhiều giải pháp tích cực nhằm xoá đói, giảm nghèo; đã huy động
được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và mọi nguồn lực cho công
tác xoá đói, giảm nghèo đã đạt được kết quả quan trọng. Hệ thống cơ sở hạ
tầng phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân ở các xã nghèo, được đầu tư

3



xây dựng. Việc thực hiện đầy đủ các chính sách ưu đãi, hỗ trợ hộ nghèo, vùng
nghèo; chính sách hỗ trợ xây dựng, sửa chữa và xoá nhà tranh tre, vách đất
cho các hộ nghèo, hộ chính sách…đã tạo điều kiện và góp phần để các hộ dân
của các xã vùng khó khăn vươn lên giảm nghèo. Đến nay, toàn huyện không
còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Nhiều hộ gia đình, nhiều thôn, xóm, xã, thị
trấn đã vươn lên thoát nghèo thành những điển hình về xóa đói, giảm nghèo
ngày càng được nhân rộng.
Tuy nhiên, công tác xoá đói giảm nghèo vẫn còn những tồn tại, hạn
chế: Tỷ lệ hộ nghèo còn cao và không đồng đều giữa các địa phương. Một số
hộ thoát nghèo chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn tiềm ẩn. Kết cấu hạ
tầng phục vụ sản xuất và đời sống sinh hoạt của các xã nghèo còn thiếu và
khó khăn. Nguồn lực huy động cho công tác xoá đói giảm nghèo chưa đáp
ứng được yêu cầu. Việc lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
với chương trình giảm nghèo còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên
truyền nâng cao nhận thức của nhân dân đối với công tác XĐGN chưa được
quan tâm đúng mức, một bộ phận người dân chưa ý thức rõ trách nhiệm của

mình để phấn đấu vươn lên tự thoát nghèo, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại.
Nhiều mô hình, cách làm hay về giảm nghèo có hiệu quả chưa được kịp thời
tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm. Xóa đói giảm nghèo cũng như chữa
bệnh, điều cốt lõi là phải tìm ra được đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
đói nghèo? Trong đó nguyên nhân nào là nguyên nhân chính? Từ đó đề ra
được những giải pháp đúng đắn nhất, hiệu quả nhất nhằm giúp người dân xóa
nghèo bền vững.
Do vậy giảm nghèo bền vững của huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là
một yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi địa phương cũng như tỉnh, Trung ương phải
sớm tìm ra những giải pháp hỗ trợ người dân phát triển sản xuất, nâng cao thu
nhập tiến tới “thoát nghèo” bền vững. Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết
trên, đề tài: “Giảm nghèo theo hƣớng bền vững trên địa bàn huyện Gia

4



Viễn, tỉnh Ninh Bình” được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam là vấn đề được
Đảng và nhà nước các cấp các ngành cũng như nhiều cơ quan nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học đề tài
nghiên cứu các bài viết liên quan về xóa đói giảm nghèo được công bố như
Từ khi chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo được Chính
phủ phê duyệt, công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã trải qua ba
giai đoạn: 1993 – 1997, 1998 - 2000, 2001- 2005 và 2006- 2010, 2011 - 2015
với những thành công nhất định, tỷ lệ hộ đói nghèo của cả nước giảm xuống
còn 13% năm 2000, 7% năm 2005 với chuẩn nghèo tương ứng. Từ 2006 đến
nay với việc thực hiện nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo như chương

trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 - 2010, Chương trình 135, Nghị quyết
30a của Chính phủ…đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trong công tác
xóa đói giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao; đã
nâng cao đáng kể đời sống nhân dân nói chung và người nghèo nói riêng.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về công tác xóa đói
giảm nghèo nói chung, đề ra các cơ chế, chính sách cũng như tổ chức thực
hiện các chương trình giảm nghèo. Công trình nghiên cứu của Lê Thị Nghệ
năm 1995 với đề tài “Những giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của hộ nông
dân nghèo vùng bằng Sông Hồng” đã đưa ra những giải pháp giảm nghèo ở
vùng Đồng bằng sông Hồng.
Đến năm 1996, công trình nghiên cứu của Vũ Thị Biểu với đề tài
“Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn Việt Nam” đã đưa ra những đề xuất giảm nghèo thông qua việc
nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.

5



Trần Thị Hằng (2001), vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay, nhà xuất bản thống kê Hà Nội.
Thế giới bước sang thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng
cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính toàn cầu, nó chứa đựng
trong mình cả niềm vui và nỗi bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, nỗi đau nhân
loại là nghèo đói vẫn còn trầm trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn,
nghèo đói vẫn luôn là nỗi bất hạnh của loài người diễn ra trên các châu lục
với những mức độ khác nhau, đặc biệt là ở các nước lạc hậu, chậm phát triển,
nghèo đói đang là một vấn đề nhức nhối, một thách thức đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia.
Vậy giải quyết vấn đề giảm nghèo như thế nào ở Việt Nam hiện nay?

Liệu có phải là cách chia đều “Cái bánh của xã hội” để rốt cuộc làm cho cái
bánh đó được tái sản xuất nhỏ hơn? Tác giả cuốn sách này làm rõ thêm vấn đề
giảm nghèo đang là vấn đề cấp bách ở Việt Nam hiện nay.
Hà Quế Lâm (2002), xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước
ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Qua hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và rất quan trọng, đời sống vật chất tinh thần của đại bộ phận nhân dân
được cải thiện tăng lên rõ rệt. Tuy vậy còn những nơi vùng sâu vùng xa còn
khó khăn. Vì vậy đối với Đảng và nhà nước ta xóa đói giảm nghèo là một
trong những chủ trương quyết sách lớn và quan trọng. Cuốn sách là một tài
liệu bổ ích cho các cơ quan và các nhà hoạch định chính sách, cán bộ công
chức đang thực thi chính sách kinh tế xã hội.
Đức Quyết (2002), “Một số chính sách quốc gia về việc làm và xóa đói
giảm nghèo”, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trong cuốn sách này tác giả đã hệ thống hóa giúp người đọc, nghiên
cứu các chính sách về việc làm và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.

6



Năm 2002, Nguyễn Trung Tăng đã nghiên cứu với đề tài “Tín dụng
cho người nghèo các quỹ xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay”, tác giả đã
đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng cho nông
dân nghèo.
Shanks, Edwin, và Carrie Turk vào năm 2002 đã nghiên cứu với đề tài
"Policy Recommendations from the Poor", tổng hợp các kết quả điều tra, báo
cáo khoa học chuẩn bị cho nhóm hành động chống nghèo đói, đưa ra các
khuyến nghị chính sách ban đầu cho việc xây dựng chiến lược toàn diện về

tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) của Việt Nam.
Vũ Minh Cường (2003), “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang” luận văn tốt nghiệp cử nhân
chính trị học, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Vũ Cương (2005), “Chính sách đất đai cho tăng trưởng và xóa đói
giảm nghèo”, Nxb, Văn hóa thông tin Hà Nội.
Trong cuốn sách này tác giả đã khẳng định chính sách đất đai có tầm
quan trọng thiết yếu đối với tăng trưởng bền vững, giá trị qua hiệu quả phúc
lợi và mở ra các cơ hội kinh tế cho người dân ở nông thôn và thành thị đặc
biệt là cho người nghèo. Ngày nay rất nhiều nước trên thế giới ngày càng
quan tâm đến chính sách đất đai và những kinh nghiệm của các nước thành
công trong lĩnh vực này. Ngân hàng thế gới đã cho xuất bản cuốn sách “Chính
sách đất đai cho tăng trưởng và xóa đối giảm nghèo”. Cuốn sách này nhằm
giúp cho các cấp các ngành cũng như những người quan tâm nghiên cứu. Đây
là tài liệu bổ ích cho việc vận dụng vào giải quyết các vấn đề liên quan đến
chính sách đất đai nông nghiệp nông thôn và giảm nghèo ở nước ta hiện nay.
Hoàng Thị Hiền (2005), “Xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc
ít người ở tỉnh Hòa Bình - Thực trạng và giải pháp” Luận văn thạc sỹ kinh tế,
học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

7



Năm 2006, Ngô Xuân Quyết nghiên cứu với đề tài “Một số giải pháp
chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở vùng Tây bắc giai đoạn 2006 - 2010” đã
đưa ra những giải pháp XĐGN ở khu vực vùng núi Tây Bắc.
Phạm Gia Khiêm (2006), “Nhận diện đói nghèo theo tiêu chí mới ở
Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 111, trang 8 - 12.
Năm 2007, Trung tâm thông tin và dự báo quốc gia - Bộ kế hoạch và

đầu tư đã xuất bản cuốn sách: “Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam- Thành tựu thách thức và giải pháp”, đói nghèo, thành tựu công cuộc
xóa đói giảm nghèo và đưa ra những giải pháp cụ thể để đẩy nhanh công cuộc
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Thái Văn Hoạt (2007), “Giải pháp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị giai đoạn hiện nay” Luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý
học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Thủ tướng Chính Phủ (2008), Chỉ thị số 04/2008/Ct-TTg ngày
25/01/2008 về tăng cường chỉ đạo các chương trình giảm nghèo, Hà Nội .
Nguyễn Thị Hoa (2011), “Chính sách giảm nghèo ở Việt Nam đến năm
2015”, Nxb Thông tin và truyền thông Hà Nội giúp người đọc hệ thống những
chính sách giảm nghèo hiện đang áp dụng ở Việt Nam trong đó tập trung vào
4 chính sách chủ yếu, chính sách tín dụng ưu đãi hộ nghèo; Chính sách đầu tư
cơ sở hạ tầng xã nghèo; Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo; và
chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo. Ngoài việc phân tích, đánh giá và
phản ánh thực trạng thực hiện các chính sách, các tác giả còn đưa ra những
phương hướng nhằm hoàn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu
của Việt Nam đến năm 2015.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí, đề tài
nghiên cứu khác liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau của XĐGN.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
xóa đói, giảm nghèo. Các công trình này đều nghiên cứu hoặc một phạm vi

8



rất rộng hoặc đi vào nghiên cứu một lĩnh vực rất cụ thể của đói nghèo hay
nghiên cứu đưa ra giải pháp mang tính đặc thù ở một vùng kinh tế hoặc tại
một địa phương. Bên cạnh những thành tựu đạt được, các nghiên cứu về giảm

nghèo đã phân tích sâu về những tồn tại hạn chế trong lĩnh vực giảm nghèo ở
Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay các nghiên cứu có xu hướng
nhấn mạnh tới tính bền vững của kết quả giảm nghèo trước các thách thức
mới của nền kinh tế.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể
về công cuộc giảm nghèo trên cơ sở đề xuất những giải pháp mang tính bền
vững cao và định hướng chúng phục vụ những định hướng xuyên suốt, lâu
dài phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từ nay đến
năm 2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của công cuộc giảm xóa đói giảm nghèo
theo hướng bền vững; đánh giá thực trạng nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở
nước ta, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần giảm nghèo theo hướng bền
vững ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghèo đói và
xóa đói giảm nghèo bền vững ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình;
- Nghiên cứu về thực trạng nghèo đói và thực hiện xóa đói giảm nghèo
bền vững trên địa bàn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình từ năm 2007 đến nay,
từ đó đánh giá những thành công và những mặt còn tồn tại trong quá trình
thực hiện các chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững trên địa bàn huyện
Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
- Nghiên cứu những quan điểm cơ bản của huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh
Bình về công tác giảm nghèo và đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả

9




công tác xoá đói giảm nghèo theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về việc giảm nghèo theo hướng bền vững ở
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
* Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về vấn đề xóa đói giảm nghèo theo
hướng bền vững từ năm 2007 đến nay.
Về không gian: Luận văn đi sâu nghiên cứu về vấn đề XĐGN theo
hướng bền vững tại huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình và của đất nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các
phương pháp của kinh tế học hiện đại để nghiên cứu. Phương pháp luận này
đòi hỏi phải xem xét vấn đề XĐGN một cách khách quan, theo các quy luật;
chịu sự tác động của nhiều nhân tố: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội không
ngừng vận động, biến đổi. Đồng thời luận văn được nghiên cứu trên nền tảng
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta qua
các thời kỳ có liên quan đến vấn đề XĐGN, trọng tâm là XĐGN theo hướng
bền vững trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN trong đó tập
trung vào vấn đề giảm nghèo theo hướng bền vững tại huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình; chủ trương, chính sách của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Ninh
Bình, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Gia Viễn về XĐGN.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả kế thừa các công trình đã nghiên cứu để hệ thống hóa lý luận về

10




xóa đói giảm nghèo khái quát thực tiễn xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được cụ thể
bằng một loạt các phương pháp nghiên cứu sau đây: trừu tượng hoá khoa học;
phân tích và tổng hợp; logic và lịch sử; thống kê…
Phương pháp lô gích được sử dụng để xây dựng khuôn khổ lý thuyết về
xoá đói giảm nghèo theo hướng bền vững. Phương pháp lịch sử được sử dụng
để nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về xoá đói
giảm nghèo theo hướng bền vững. Sử dụng kết hợp phương pháp logic và
phương pháp lịch sử được thể hiện tập trung nhất ở chương 1.
Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp được sử dụng trong
toàn bộ đề tài. Ở chương 2, để làm rõ thực trạng xoá đói giảm nghèo tại huyện
Gia Viễn- tỉnh Ninh Bình trong những năm qua, một số phương pháp nghiên cứu
khác được sử dụng: thống kê, phân tích định lượng Ở chương 3, phương pháp
phân tích và phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu. Đồng thời một số
phương pháp khác được sử dụng: lôgic, so sánh, khái quát hóa…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về giảm nghèo, giảm
nghèo theo hướng bền vững.
- Phân tích, đánh giá tổng thể tình hình thực hiện công tác giảm nghèo
theo hướng bền vững của huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình từ năm 2007 đến
nay và tầm nhìn đến năm 2020 rút ra những thành tựu đạt được, hạn chế còn
tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp để công tác giảm nghèo trong thời gian tới ở
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình đạt hiệu quả cao và đảm bảo mục tiêu giảm
nghèo theo hướng bền vững.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc hoạch định chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững

của Việt Nam và sử dụng làm tài liệu tham khảo cho một số cơ quan, ban,

11



ngành của huyện để tăng cường hiệu quả công tác giảm nghèo, phát triển kinh
tế xã hội tại địa phương. Các giải pháp đề xuất sẽ có giá trị tham khảo cho
công tác lãnh đạo của huyện trong việc chỉ đạo triển khai công tác XĐGN
theo hướng bền vững tại huyện Gia Viễn, góp phần thực hiện thành công chủ
trương xây dựng nông thôn mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về giảm nghèo theo hướng bền vững.
Chƣơng 2: Thực trạng giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Gia Viễn,
tỉnh Ninh Bình.
Chƣơng 3: Quan điểm định hướng và giải pháp đẩy mạnh công tác giảm
nghèo theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình.



12



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO
THEO HƢỚNG BỀN VỮNG


1.1. Quan niệm về nghèo và giảm nghèo theo hƣớng bền vững
1.1.1. Quan niệm về nghèo
Hộ nghèo là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới
ngưỡng đói nghèo.
Chuẩn nghèo ở Việt nam từ trước tới nay, dù là chuẩn chính thức hay
chuẩn nghèo dùng để theo dõi, đánh giá cũng đều thuộc nhóm chuẩn nghèo
dựa trên các yếu tố về kinh tế. Chuẩn nghèo ở Việt Nam hiện tại được coi là
thấp, đặc biệt là chuẩn nghèo chính thức cho dù chuẩn nghèo đã được thay đổi
qua các thời kỳ. Chuẩn nghèo không có khả năng phân loại các nhóm nghèo.
Những người được xác định dưới ngưỡng nghèo đều được coi là nghèo, tuy
nhiên tình trạng nghèo rất khác nhau, có những nhóm rất sát ngưỡng nghèo
nhưng cũng có nhóm lại ở rất xa ngưỡng nghèo. Chuẩn nghèo thấp khiến cho
việc rà soát đánh giá các hộ nghèo hàng năm gặp nhiều khó khăn khi giảm
nghèo có hạn và người nghèo lại càng nhận được hỗ trợ hơn từ chính sách.
Việc bình xét qua các nghiên cứu thường nảy sinh từ một số yếu tố có thể ảnh
hưởng tới sai lệch kết quả rà soát như tính cào bằng trong cộng đồng, yếu tố
dòng họ người quen yếu tố quan hệ xã hội người được bình xét.
Theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn
2001-2005 được quy định cho mức thu nhập bình quân đầu người trong
hộ cho từng vùng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/ tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.

13




Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định
nêu trên được xác nhận là hộ nghèo.
Chuẩn nghèo thay đổi theo thời gian chứ không cố định. Căn cứ vào
tình hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương nào có đủ điều kiện sau đây có
thể nâng chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế của địa phương đó:
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của
cả nước.
+ Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước.
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói
nghèo theo chuẩn nâng lên.
- Xã nghèo: Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày
22/05/2002 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban
hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005, quy định:
+ Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
+ Chưa đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (bao gồm đường
giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ). Cụ thể là:
Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch.
Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả
năm.
Số phòng học (theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) chỉ đáp ứng
được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bợ bằng tranh tre,
nứa, lá.
Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm.
Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ.
- Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một quá trình
thực hiện chương trình XĐGN cuộc sống đã khá lên và mức thu nhập
đã ở trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử dụng

14




khái niệm hộ thoát (hoặc vượt) đói và hộ thoát nghèo. Hộ thoát nghèo đương
nhiên không còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thoát nghèo đói
có thể đồng thời thoát hẳn nghèo (ở trên chuẩn nghèo), nhưng đa số trường
hợp thoát đói (rất nghèo) nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo.
- Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiệu
số giữa tổng số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói
nghèo khác với khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát
nghèo là số hộ ở đầu kỳ nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong
khi đó, số hộ nghèo giảm đi trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch
về mặt số lượng hộ nghèo, chưa phản ánh thật chính xác kết quả của việc thực
hiện chương trình.
- Hộ tái nghèo: Là hộ vốn dĩ trước đây thuộc hộ nghèo và đã vượt
nghèo nhưng do nguyên nhân nào đó lại rơi vào cảnh đói nghèo. Ý nghĩa của
khái niệm này là phản ánh tính vững chắc hay tính bền vững của các giải pháp
xoá đói giảm nghèo. Thực tế cho thấy, hầu hết các hộ tái nghèo chính là do
gặp thiên tai bất khả kháng.
- Hộ nghèo mới hay là hộ mới vào danh sách nghèo: Là những hộ ở đầu
kì không thuộc danh sách đói nghèo nhưng đến cuối kỳ lại là hộ nghèo.
Như vậy, hộ mới bước vào danh sách nghèo bao gồm những hộ như sau:
Hộ nghèo chuyển tiếp từ nơi khác đến; hộ nghèo tách hộ; hộ trung bình
khá vì một lý do nào đó lại trở thành hộ nghèo hoặc hộ tái nghèo.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói giai
đoạn 2001-2005 và 2006-2010 [55].
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói:
Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói:
- Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá bằng mức
chi tiêu về lương thực, thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt

lượng tiêu dùng từ 2.100-2.300 Kcal/người/ngày.

15



- Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng. Trong đó đặc
biệt quan tâm đến thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm có thu nhập
thấp (20% số hộ).
- Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia, của từng địa phương
đã được cụ thể hoá bằng mục tiêu chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo
và chương trình của từng địa phương để thực hiện công tác XĐGN.
Từ 3 căn cứ trên có thể cho thấy:
+ Xác định chuẩn nghèo đói phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh
tế xã hội, phong tục tập quán của từng quốc gia, từng địa phương, song trong đó
có một phần yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách.
+ Chuẩn nghèo phụ thuộc vào yếu tố khách quan trong đó có một phần
yếu tố chủ quan.
* Chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010:
- Giai đoạn 2001-2005
Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân 80.000 đ/người/tháng,
hay 960.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Nông thôn đồng bằng: Thu nhập bình quân, 100.000đồng/người/tháng
hay 1.200.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 150.000đồng/người/tháng, hay
1.800.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Giai đoạn 2006-2010:
Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là:
Khu vực nông thôn: Thu nhập bình quân 200.000đồng/người/tháng,
được coi là nghèo.

Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 260.000 đồng/người/tháng,
được coi là nghèo.
Giai đoạn 2011- 2015
+ Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000đồng/người/tháng trở xuống.

16



+ Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ
500.000đồng/người/tháng trở xuống.
+ Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đến 520.000đồng/người/tháng.
+ Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ
501.000 đồng đến 650.000/người/tháng.
1.1.2. Nguyên nhân nghèo
Có thể nói có rất nhiều những nguyên nhân gây ra đói nghèo cho người
dân, những nguyên nhân cơ bản như:
a. Sự vào cuộc của hệ thống chính trị đối với vấn đề giảm nghèo, còn
thiếu sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan. Năng lực của đội ngũ
cán bộ về giảm nghèo còn hạn chế, còn ỷ lại vào chính sách của trung ương.
các chính sách pháp luật về giảm nghèo còn chồng chéo cần được điều chỉnh.
Vấn đề chuẩn nghèo và xác định đối tượng nghèo.
b. Vấn đề huy động và nguồn lực hạn chế
Người nghèo thường thiếu nguồn lực, hộ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của
nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ
không thể đầu tư vào vốn nguồn lực của hộ. Ngược lại, nguồn lực thấp lại cản
trở họ thoát khỏi đói nghèo
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu

hướng tăng lên. Thiếu đất ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực
của người nghèo, cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất, để hướng tới sản
xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Đa số người nghèo
lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp là chính. Họ vẫn sử dụng những
phương thức sản xuất truyền thống, sử dụng những phương pháp này dẫn đến
giá trị sản phẩm không cao, năng suất các loại cây trồng, vật nuôi thấp nên
thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đưa họ vào vòng luẩn quẩn của
nghèo đói.

17



Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Nhiều những yếu tố đầu vào
của sản xuất như giống, phân bón đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính
trên đơn vị sản phẩm sản xuất ra.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Sự
hạn chế của các nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng
đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ mới. Mặc dù trong chương
trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã được tăng lên rất nhiều,
song vẫn còn khá nhiều người nghèo không có khả năng tiếp cận được tín
dụng. Một mặt họ không có tài sản để thế chấp, mặt khác họ không xây dựng
được kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng đồng vốn không đúng mục đích,
do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận nguồn vốn và cuối cùng làm cho họ
nghèo hơn.
c. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Người nghèo thường là những người có học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm
được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu
cầu dinh dưỡng tối thiểu và do đó không có điều kiện để nâng cao trình độ

của mình trong tương lai để thoát khỏi đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học
vấn thấp có ảnh hưởng tới các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ,
nuôi dưỡng con cái đến mức ảnh hưởng không những thế hệ hiện tại mà cả
thế hệ tương lai.
Trình độ học vấn hạn chế cũng ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm việc
làm trong khu vực khác trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc
mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
d. Người nghèo không đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng đặc biệt
thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn

18



đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế
thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt. Mạng lưới các dịch vụ pháp lý,
số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập trung
ở các thành phố, thị xã chi phí dịch vụ pháp lý còn cao.
e. Các nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu
nhập bình quân của các thành viên trong gia đình. Đông con vừa là nguyên
nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo đói
còn cao. Đông con, ít lao động là một đặc điểm của các gia đình nghèo. Quy
mô gia đình lớn làm tỷ lệ người ăn theo cao.
f. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng thiên tai và các rủi ro khác
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng
ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay
cộng đồng. Nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém

nên họ khó có khả năng chống chọi với các biến cố xảy ra trong cuộc sống
(như thiên tai, mất mùa, mất việc làm, sức khỏe, tai nạn ). Với khả năng
kinh tế mong manh của các hộ gia đình trong nông thôn, những đột biến này
sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống gia đình của họ và gây ra tình
trạng đói nghèo.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh cũng rất cao đối với người nghèo,
do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối
phó và khắc phục rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn
chế làm cho họ mất khả năng phục hồi rủi ro và có thể gặp rủi ro hơn nữa.
g. Bệnh tật, sức khỏe yếu, tuổi già cũng là yếu tố đẩy con người vào
tình trạng nghèo.
Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và
chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn đói nghèo. Họ phải

19



gánh chịu 2 gánh nặng: một là mất đi nguồn thu nhập từ lao động, hai là chịu
chi phí khám chữa bệnh, kể cả chi phí trực tiếp và gián tiếp.
- Người cao tuổi khi con cái đã có gia đình riêng cuộc sống không đảm
bảo không tiếp tục tham gia các hoạt động kinh tế có nguy cơ rơi vào nhóm
nghèo.
h. Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách (tự do
hóa thương mại, cải cách doanh nghiệp Nhà nước ) đến đói nghèo
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một
trong những nhân tố ảnh hưởng đến mức giảm nghèo. Việt Nam đã đạt được
những thành tựu giảm nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên quá
trình phát triển và mở cửa của nền kinh tế cũng có tác động tiêu cực đến
người nghèo

- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý: Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông
thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thủy lợi, các trục công nghiệp chính,
chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, chưa chú trọng đầu tư cho
những ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động
- Cải cách các doanh nghiệp Nhà nước và các khó khăn về tài chính của
các doanh nghiệp Nhà nước đã dẫn đến việc nhiều việc làm trong giai đoạn
đầu cải cách. Nhiều công nhân mất việc làm đã gặp rất nhiều khó khăn trong
việc tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người này là phụ
nữ, người có trình độ thấp và người lớn tuổi
- Chính sách cải cách kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự
do hóa thương mại đã tạo ra động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các
doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên một số ngành công nghiệp thu hút nhiều
lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tạo
việc làm chưa được quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng thiếu thông
tin, trang thiết bị sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp dẫn đến

×